Thái Công Tụng
Thế nào là 4 D trong toàn
cầu hoá
-Khi trận đá
bóng chung kết giữa hai đội Pháp và Brésil diễn ra ở Paris cách đây gần 8 năm
(1998), trước con mắt hàng triệu triệu người trên thế giới, từ Đông sang tây,
từ Bắc xuống Nam, ta thấy trong đội cầu Pháp có đến một nửa là dân da đen và
dân Bắc Phi !
-Nghe tin tức
quốc tế qua CNN của Mỹ, BBC của Anh, TV5 của Pháp, thì hình ảnh một sự cố nào
đó mới xảy ra vài phút trước đó ở một nơi xa xăm trên hành tinh Trái Đất thì
trên màn truyền hình, màn máy tính đã thấy hiện ra ngay, vừa hình ảnh, vừa
tiếng nói.
-Nhìn bảng hối
suất ta thấy nhiều đồng tiền có thể hoán chuyển dễ dàng; đặc biệt Âu châu có
Euro là đơn vị tiền tệ cho rất nhiều xứ Cộng đồng Âu châu. Trưóc kia đi du lịch
từ Pháp qua Đức, qua Ý, qua Espagne lại phải thay đổi đồng tiền sang Mark, sang
lire, sang peseta ..
-Bệnh SARS (viêm
phổi cấp tính) từ Trung Hoa lây lan sang các xứ Đông Nam Á và qua Canada do sự
lưu thông hành khách máy bay rất nhanh chóng
-Hàng năm, có
chừng 250 ngàn người di dân đủ mọi chủng tộc, màu da, tôn giáo đến xứ Canada,
đến hợp pháp ! Có thể nói mọi xứ từ A (A như Angola),
đến Z (Z như Zimbawe) đều có người ở đất nước Canada,
khiến xã hội Canada
càng ngày càng trở thành đa văn hoá.
Vài ví dụ trên
đã cho ta 'hương vị' thế nào là toàn cầu hoá .
2.Tiến trình của toàn cầu
hoá.
-Toàn cầu hoá,
danh từ này mới hiện hữu vào thập niên 80, nhưng thực sự đã có từ lâu đời với
Magellan, với Marco Polo, với thương mãi các xứ quanh bờ biển Địa Trung Hải,
với con đường tơ lụa buôn bán giữa các xứ Trung Đông, Cận Đông và Trung Hoa.
Việt Nam
đã buôn bán với Nhật qua thành phố Hội
An. Các nước Anh, Pháp chiếm thuộc địa cũng nhắm kiếm thị trưòng buôn bán.
Chiến tranh nha phiến Anh-Trung Hoa nhằm tiêu thụ thuốc phiện. Đến năm 1930 xảy
ra cơn suy trầm kinh tế rất lớn, nên nhiều nước như Mỹ chủ trương bảo hộ thương
mãi.
-Chỉ sau đệ nhị
thế chiến, các nước bắt đầu nhận thấy phải tăng cường hợp tác thương mại. Các
nước Âu Châu họp bàn thành lập thị
trường chung qua nhiều giai đoạn:
a.Thoạt đầu là
các thoả thuận ưu đãi thuế quan: hàng rào quan thuế giữa các nước tham dự thấp
hơn so với các nước không tham dự.
b. Sau đó tiến
đến khu vực mậu dịch tự do (zône de libre échange, free trade area) xoá bỏ các
cản trở thương mại giữa các nước thành viên;
c.thứ đến là
liên minh thuế quan (union douanière) xoá bỏ thuế quan giữa các nước thành viên,
hài hoà giữa các nước thành viên và chính sách thương mại
d.rồi mới đến
thị trường chung (marché commun) có tự do lưu chuyển lao động và vốn giữa các
nước,
e.sau đó tiến
đến liên minh kinh tế, thống nhất tiền tệ thành EURO, với quốc hội Âu châu và hiến
pháp Âu châu.
-các nước Đông
Âu và Liên Xô cũng lập thị truờng chung COMECON, nhưng vào thập niên cuối cùng
của thế kỷ 20 khi Liên Xô và Đông Âu tan rã với hệ thống xã hội chủ nghĩa thì
tổ chức này cũng tan theo.
-các nước Đông
Nam Á họp lại thành tổ chức ASEAN bao gồm 10 xứ Đông Nam Á (Việt, Miên, Lào,
Thái, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, Singapour, Myanmar (tức Miến
Điện). Các xứ này đang tiến dần đến chỗ giảm thuế quan để giúp hàng hoá cạnh
tranh nhau, đưa đến tiêu thụ mạnh hơn, kéo theo sản xuất mạnh hơn, làm giảm
thất nghiệp.
-Bắc Mỹ cũng có
NAFTA (North America Free Trade Area). Mậu dịch tự do, có nghĩa là giúp các
hàng hoá tự do lưu thông giữa nước này với nước kia, cắt giảm quan thuế, bãi bỏ
các hạn chế phi quan thuế v.v.
-Cũng có tổ chức
hợp tác kinh tế BIMSTEC gồm 5 nước: Bangladesh,
Ấn độ, Myanmar tức Miến
Điện, Sri Lanka
và Thái Lan cũng cam kết thiết lập thị trường chung.
-Nam Mỹ có tổ
chức MERCOSUR cũng là một tổ chức gồm nhiều xứ Nam Mỹ có thị trường tự do
thương mại.
Công nghệ thông
tin phát triển như vỡ bờ cũng giúp thế giới càng ngày càng gần hơn, nhỏ hơn và
là một nhân tố thúc đẩy sự tự do thương mại giữa các nước, thoạt đầu với Thoả
thuận chung về Thuế quan GATT (General Agreement on Tariff and Trade), tức tiền
thân của Tổ chức Thương Mại Thế giới (WTO, viết tắt từ World Trade
Organization) ta thấy ngày nay .
Với toàn cầu
hoá, các sản phẩm sản xuất ra có một thị trường tiêu thụ rộng lớn ở khắp toàn cầu, giúp tăng lợi nhuận, làm đầu tàu
kinh tế kéo theo các lãnh vực khác; thực vậy, thị trường trong xứ thì nhỏ hẹp,
không nhiều người tiêu thụ. Cũng chính vì Trung Quốc có một thị trường tiêu thụ
khổng lồ nên các doanh nghiệp Mỹ, Đức, Nhật v.v. mới đầu tư sản xuất tại đó
nhiều, từ xe hơi của Đức làm ở Thượng Hải đến các công ty điện tử, điện thoại
vì thị trường càng lớn thì quy mô sản xuất cũng lớn (économie d'échelle) làm
giảm giá thành, tiêu thụ sâu rộng, lời lãi nhiều .
Với toàn cầu
hoá, các nước quy định phải giảm thuế nhập cảng, xoá bỏ các hàng rào phi thuế
quan như hạn ngạch, cấp giấy phép xuất-nhập cảng nên mọi hàng nhập cảng đều rẽ,
khiến người tiêu thụ mua sắm thoải mái.
Với toàn cầu
hoá, các đầu tư, các dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm, các hàng hoá sẽ được lưu
thông tự do hơn, giúp tiêu thụ mạnh hơn.
Toàn cầu hoá có nghĩa
là thị trường sẽ tự do trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ, đầu tư, bưu
chính viễn thông, giao thông vận tải. Toàn cầu hoá bao gồm nhiều lãnh vực nhưng
riêng trong lĩnh vực kinh tế tài chính, có thể tóm lược trong 4 chữ D sau đây
cho dễ nhớ.
3. Thế nào là 4 D trong toàn
cầu hoá?
31.Délocalisation
.
Toàn cầu
hoá đòi hỏi cạnh tranh về giá cả, về
chất lượng; các xí nghiệp phải có mặt hàng rẽ, bền, đẹp mới cạnh tranh được
trên thị trường quốc tế.
Thực vậy, trước kia, các nước để bảo hộ sản
xuất trong nước nên đánh thuế nặng vào mọi hàng nhập cảng (30-50%) nhưng với
các hiệp định tự do thương mại, mọi mặt hàng đều từ từ giảm thuế xuống hết
(0-5%).
Do đó, vào luồng
trong sự gia nhập thương mại quốc tế đòi hỏi phải có các sản phẩm nhiều, chất
lượng tốt, giá rẽ mới cạnh tranh được với các hàng xứ khác. Đó là lí do nhiều xí nghiệp các nước
kỹ nghệ tổ chức sản xuất các cơ phận khác nhau tại các xứ nhân công rẽ như
Mexico, Ấn Độ, Trung Quốc .Thực vậy, trong xe hơi, có thể động cơ sản xuất bên
Nhật, bánh xe ở Mexico, ráp cuối cùng
tại Mỹ. Máy điện toán thì bộ nhớ 'chip' chế ở Singapore, các linh kiện khác chế
ở Mexico, ráp cuối cùng ở Mỹ v.v.
Ngày nay, không
thể có và cũng không nên có một nền kinh tế tự cung, tự cấp cho mỗi xứ mà trái lại phải tìm trong xứ đó các lợi
thế so sánh, xem mình có ưu điểm ở đâu, ưu điểm thế nào và nhất là khai thác
cái ưu điểm ấy ra sao ?
Ví dụ : Canada có nguồn nước vô tận, sản
xuất điện rẽ nhất. Mexique cũng như các hải đảo miền Caraibes có mặt trời và
nắng ấm và đó là một lợi thế so với
Canada, mùa đông dài hun hút nên kỹ nghệ du lịch và dịch vụ rất phát triển;
riêng Việt Nam thì giá nhân công rẽ nên cần có các kỹ nghệ tận dụng nhân công
như may mặc, giày dép ..
Không xứ nào độc
lập về kinh tế được hết vì không xứ nào có đủ nguyên liệu để sản xuất sản phẩm.
Máy bay sản xuất ỏ Canada
hay ở Mỹ phải có nhôm mà nhôm phải lấy ở các xứ nhiệt đới. Vùng Chicoutimi tại Quebec có nhiều nhà máy sản xuất nhôm vì điện năng Quebec dồi dào, nhưng quặng bauxit phải lấy từ Jamaica, Haiti, ..Tương tự đồng dùng trong
các giây điện là xuất xứ từ các mỏ bên Chili, Congo v.v. Chiều hướng toàn cầu
hoá là sự phân công lao động trên bình diện quốc tế, ví dụ: sản xuất sẽ chuyển
mạnh vào các nước kém phát triển, còn các nước phát triển cao sẽ sống nhờ dịch
vụ như bảo hiểm, ngân hàng v.v..
3.2
Déréglementation . Vì các rào cản thương mại giữa
các nước bị xoá bỏ nên các dòng tài
chính di chuyển dễ dàng, tạo vốn đầu tư cho các nước có môi trường đầu tư tốt,
thông thoáng, có nguồn nhân lực giỏi.
3.3. Désintermédiation . Không cần trung gian vì với toàn cầu hoá, các thông tin có sẵn
trên mạng. Các công ty chỉ biết lợi nhuận trên hết, với cổ phần, cổ phiếu bán
tự do ai mua vào cũng được, ai bán ra cũng được. Mọi dịch vụ ngân hàng phụ
thuộc vào truyền thông mà truyền thông tiến đến mọi nhà, hang cùng ngõ hẽm nhờ
máy vi tính, nhờ truyền hình, nhờ truyền tin, sử dụng máy vi tính để mua, bán,
chuyển ngân ..với Web, với e-commerce.Trong lãnh vực mua, bán, người ta có thể khảo giá vé máy bay, vé xe lửa, đặt
chỗ trước khách sạn, mua vé máy bay qua Internet.Trong lãnh vực nhân sự, con
người với mạng Internet có thể giao cảm, tìm kiếm thông tin dễ dàng nhanh
chóng; các tán gẫu (chat), các thảo luận
liên lục địa của các công ty đa quốc gia, phỏng vấn nhân viên cũng qua Internet
với Webcam: người xin việc có thể được phỏng vấn ngay trên mạng, không cần bay
đến chỗ phỏng vấn. Trong lãnh vực tài chính, mọi người chỉ cần máy điện toán là có thể mua, bán cổ phần
chứng khoán, các công ty đa quốc gia có thể chuyển tiền từ lục địa này sang lục
địa khác trong nháy mắt.
3.4.
Décloisonnement. Trước kia, các thị trường có hàng
rào (cloison) bảo hộ, với toàn cầu hoá, không còn hàng rào che chở nên thị
trường rộng mở, từ hàng hóa đến dịch vụ,
đông người tiêu thụ hơn, kéo theo sản xuất mạnh hơn, làm giảm thất
nghiệp.
4. Các cơ hội và thách thức
trong toàn cầu hoá .
411. Nói qua
về các thử thách :
a/. về nông
nghiệp. Mỗi năm, các nước chậm phát triển phải nhập
cảng phân bón, thuốc diệt cỏ, diệt sâu với giá cao hơn, nhưng bán nông phẩm như
gạo, như cà phê với giá rẽ hơn. Như
những trận mưa rào đôla nông nghiệp, các nước phát triển nghĩa là thuộc OCDE
(Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế ) trợ cấp hàng trăm tỷ đôla mỗi năm,-xem
như 1 tỷ đô la mỗi ngày- cho nông dân để họ sản xuất thực phẩm với giá phải
chăng và để họ có mức sống tương đương mức sống ở thành thị. Trợ cấp dưới nhiều
hình thức như cho vay lãi xuất rẽ, bớt thuế, khảo cứu nông nghiệp v.v. Nhật Bản
và Đại Hàn muốn bảo vệ sản xuất gạo trong nước bằng cách đánh thuế cao trên gạo nhập cảng. Hai nước này trợ cấp
cho nông dân rất nhiều, nhất là gạo: cứ 1 đôla gạo sản xuất ra trong nước thì
phải trợ cấp 80 cents cho nông dân. Pháp, Mỹ, Thụy sĩ v.v. đều trợ cấp cho nông dân. Vì vậy, các
nước này thặng dư lương thực, thặng dư sữa, thặng dư bơ, thặng dư dầu ăn, thặng
dư lúa mì, thặng dư đậu nành, thặng dư bắp .. ,nên họ phải bán rẽ hay cho không
các nước, đặc biệt là Phi Châu. Nông dân
Phi Châu phải ra thành thị, tạo thêm thất nghiệp và kéo theo bất ổn chính trị
.Các nước chậm mở mang, muốn có ngoại tệ lại xuất cảng lương thực cho các nước
Tây phương, dù trong nước dân ăn chưa đủ no. Ví dụ: Việt Nam xuất cảng
gạo nhưng các vùng xa, vùng sâu là địa bàn cư trú người sắc tộc miền núi non
còn chưa đủ no. Ấn Độ cũng là nước xuất cảng gạo nhưng gần 260 triệu dân còn
bấp bênh lương thực (tạp chí Le Courrier
số 197 Mars/Avril 2003).
Các nước nghèo
mà kinh tế nông nghiệp là chủ chốt lại muốn các nước tiền tiến cắt giảm trợ cấp
nông nghiệp và thuế quan để có thể xuất cảng nông sản được:
-đường mía sản
xuất ở Bresil rất rẽ nhưng các nước Tây Âu chỉ muốn nhập cảng đường mía từ các
xứ cựu thuộc địa ở miền Caraibes như Tobago
& Trinidad,
Barbados v.v.
-bông vải xứ
Mali ở Phi Châu không xuất cảng được sang các nước Âu Châu vì mua bông vải ở Mỹ
rẽ hơn, vì ở Mỹ, nông dân được trợ cấp.
-gạo Thái Lan
không xuất cảng qua Nhật được vì nông dân Nhật cũng được trợ cấp khi sản xuất
gạo. Giá thành sản xuất gạo ở Mỹ năm 2002 là 475USD một tấn gạo nhưng vì được
trợ cấp nên bán ra thế giới vơí giá 275 USD một tấn do đó bắt buộc các nước
xuất cảng gạo như Việt Nam,
Thái Lan cũng phải xuất cảng vói giá đó .
Thực vậy, vấn đề
nông nghiệp chính là vấn đề gay cấn nhất trong các đàm phán tương lai, đặc biệt
là ở hội nghị thương mãi họp ở Cancun (Mexico) năm 2003 vì lập trường khác biệt
giữa các xứ.
Như vậy, chính
sách thương mại trong toàn cầu hoá phải tăng cường công bằng xã hội chứ không
nên làm tăng hố cách biệt giàu nghèo.
b /Về y tế .Với toàn cầu hoá, sự du lịch, đi lại, nhập cư được thông thoáng
hơn nhưng cùng đó, sự di chuyển các bệnh truyền nhiễm, từ cúm gà đến bò điên
v.v. các bệnh lây lan về tình dục như AIDS cũng nhanh hơn, gây ra thêm gánh
nặng y tế trong khi đó thì lợi tức của các chính phủ bị giảm do việc cắt giảm
thuế quan trên mọi hàng nhập cảng nên kéo theo giảm chi cho các ngành y tế,
giáo dục ..Nhiều thuốc trị bệnh hiểm nghèo được bảo vệ tác quyền đến hàng chục
năm do hiệp định TRIPS viết tắt từ Trade-related aspects of intellectual
property rights, có nghĩa bảo vệ các lãnh vực của quyền sở hữu trí tuệ, do đó Việt Nam cũng như mọi nước nghèo
khác không có quyền sản xuất thuốc đó bán rẽ cho người đau.
c/ về tệ nạn
xã hội . Do di chuyển thông thoáng, các buôn bán
phụ nữ, trẻ em, các tội ác xuyên biên giới như ma tuý, vũ khí, nguy cơ khủng bố
cũng cũng dễ dàng hơn
412. tuy
nhiên, toàn cầu hoá cũng tạo ra những cơ hội : các
doanh nghiệp nước ngoài sẽ đem vốn liếng, kỹ thuật cao, lối làm việc do đó các
doanh nghiệp trong nước cũng phải cải tổ lối làm việc, cạnh tranh hơn, sáng tạo
hơn nếu không sẽ bị đào thải .
Với toàn cầu hoá, khu vực tư trong nước không
bị chèn ép bởi các xí nghiệp quốc doanh . Toàn cầu hoá đưa thông tin đến mọi
nhà, thông tin khoa học, kinh tế, chính trị ..nên xã hội bắt buộc phải cởi mở
hơn, giúp dân trí cao hơn .
Toàn cầu hoá
giúp cho người dân không có huyền thoại như thời Việt Nam còn dưới
bóng Liên Sô, các huyền thoại mà nhà thơ Việt Phương,-nguyên trợ lý cố Thủ
Tướng Cọng sản Phạm Văn Đồng- đã viết sau này :
..'Ta cứ nghĩ
là đồng chí rồi không còn ai xấu nữa
Trong hàng
ngũ ta chỉ dành cho chỗ yêu thương
Đã chọn con đường đi
Chẳng ai dừng
ở giữa MạcTư khoa còn hơn cả thiên đường
Ta nhất quyết
đồng hồ Liên Sô tốt hơn đồng hồ Thuỵ Sĩ
Hình như đây
là ý chí, niềm tin, tự hào
Mường tượng
rằng trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ
Sự ngây thơ
đẹp tuyệt vời nhưng ngờ nghệch làm sao ..'
Toàn cầu hoá về
kinh tế đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng sản
xuất trong nước mới xuất cảng được. Nó đòi hỏi những công nghệ mới, kỹ năng
mới, quản lý hiện đại giúp sản xuất có hiệu qủa hơn, tạo sản phẩm có chất lượng
hơn với giá cả rẽ hơn, tạo điều kiện để sản phẩm được tiêu thụ nhiều hơn. Ngoài
ra, nếu các nước kỹ nghệ như Âu châu hay Mỹ thấy Việt Nam có giá thành quá thấp
là họ nghĩ ngay Viẹt Nam bán phá giá nên họ đánh thuế nhập cảng cao như Âu châu
đánh thuế trên giày dép, Mỹ đánh thuế trên tôm v.v.
5.Toàn cầu hoá với Việt Nam .
Như vậy, vào WTO
có nghĩa VN phải cam kết mở cửa thị
trường về hàng hoá (từ nông phẩm đến xe hơi, hàng hoá điện tử ..) và dịch vụ (y
tế,ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, giáo dục, năng lượng ..). Điều này hàm
nghĩa các doanh nghiệp Việt Nam phải ra
sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài trong quản lý, trong sản xuất,
trong tiếp thị, trong giá năng lượng,
trong giá cước điện thoại, giá thuê đất v.v. để có sản phẩm rẽ, đẹp và mới, tạo
điều kiện để sản phẩm được tiêu thụ nhiều hơn.
Việt Nam
có lợi thế nhân công rẽ, phải tạo môi trường đầu tư thuận lợi,- nghĩa là trong
sạch, không tham nhũng- cho những công ty, những doanh nghiệp ngoài nước đến đầu tư. Thực vậy, càng ngày
nhiều doanh nghiệp các nước kỹ nghệ muốn đầu tư tại các xứ nhân công rẽ hơn.
Thực vậy, lương tháng người thợ ở Việt Nam năm 2005 ở mức 135 Mỹ kim trong khi
tại Thái Lan là 146, Trung Quốc là 163, Malaysia là 205 và Philippines là176.
Như vậy chi phí thấp ở Việt Nam là một lợi thế.. Song song theo đó, Việt Nam
cũng cần đào tạo thêm nguồn nhân lực có kỹ năng cao để thu hút các ngành có
chất xám cao, tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, giúp nâng cao mức
sống. Ví dụ tại tỉnh Bangalore ở Ấn độ, có nhiều xí nghiệp Mỹ, Canada đến đầu
tư vì xứ này đào tạo nhiều chuyên viên điện toán giỏi và lương thấp hơn so
với kỷ sư các nước kỹ nghệ .
Trong nông
nghiệp thì với toàn cầu hoá, khi các cam kết cắt giảm thuế trong AFTA (Asian
Free TradeArea) và WTO được thực hiện thì có nhiều loại nông phẩm sẽ bị nhiều
cạnh tranh hơn: đậu nành, bắp thì khó cạnh tranh với nông sản Mỹ vì tại Mỹ, các
khảo cứu về bắp, đậu nành rất tiến bộ,
tạo ra nhiều giống cải thiện năng xuất cao. Việt Nam thì quy mô kinh tế sản
xuất manh mún nên giá thành cao. Do đó, Việt Nam phải tìm các lợi thế so sánh
trong nông nghiệp, sản xuất những sản phẩm không bị cạnh tranh với các nước
khác như trái cây nhiệt đới, rau cải tươi, ngư sản, đó là chưa nói đến phải chuyển
đổi nông nghiệp như giảm số nông dân, chuyển từ sản xuất sang dịch vụ, huấn
nghệ lại v.v.
6. Kết luận
Nền kinh tế thế
kỷ 21 này là một nền kinh tế xu hướng càng ngày càng khu vực hoá, toàn cầu hoá
với đổi trao, thay vì khai thác và lấn chiếm như xưa. Nhưng sự đổi trao đó đòi hỏi một tinh thần liên đới và trách
nhiệm:
-liên đới giữa
các nước giàu/nghèo, giữa các nước mở mang/các nước kém mở mang với mục đích là
để vực dậy các nước nghèo, thoát khỏi cùng cực triền miên. Trong một nước,
sự tăng trưởng kinh
tế do toàn cầu hoá mang lại phải được chia xẻ cho tất cả mọi người chứ không
phải chỉ một bộ phận xã hội. Sự phát triển kinh tế phải có tính cách bền vững,
không phát triển trên nợ nần của các thế hệ tương lai
-trách nhiệm vì
toàn cầu hoá có thể giúp các mặt tiêu cực xã hội lan nhanh hơn, các tổ chức
mafia in bạc giả, rữa tiền, buôn ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ em tội ác,
khủng bố do đó mọi xứ có trách nhiệm hợp tác để ngăn ngừa tội phạm, ngăn ngừa
trước khi tội phạm xảy ra. Một nền kinh tế cạnh tranh theo kiểu thị trường cần
có những thể chế, quy tác, luật pháp, trong đó có việc tăng cường kiểm soát các
ngân hàng bằng giám sát chặt chẽ hơn.
Chúng ta sống trên con thuyền, thuyền
chìm thì cộng đồng nhân loại cũng chìm luôn . Con người như vậy phải tập sống
bao dung, bao dung với tôn trọng sự khác biệt văn hoá, màu da, tín ngưỡng nhưng
trong một khung cảnh luật pháp ở đó quyền ăn nói, quyền làm người phải được tôn
trọng. Quyền hành dù là chính trị, văn hoá, truyền thông, tín ngưỡng phải đi
đôi với trách nhiệm. Con người gồm thân và tâm. Của cải vật chất dĩ nhiên
là quan trọng nhưng còn có các giá trị
tâm linh không thể mua hay đo bằng tiền bạc. Hạnh phúc con nguời không thể đo
bằng bit hay byte mà sự quán chiếu nội tâm để hiểu được bản thân mình có thể
còn quan trọng hơn là biết mọi chuyện trên thế giới trong chớp mắt nhờ
Internet. Các đền đài, các di tích lịch sử, các cảnh quan chứa các giá trị phổ
quát không thể đo bằng tiền. Một khu rừng, một dòng sông có giá trị thẩm mỹ,
huyền bí, mơ mộng, tình yêu, thần thoại, tâm linh, lãng mạn chứ không thể xem
như là các vật đổi chác.
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím
này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Nhiều vật vô tri như cỏ cây, như rừng núi, như
lăng miếu, đền đài có linh hồn như thơ của Lamartine (Objets inanimés,
avez-vous donc une âme ? ..) .Các giá trị văn hoá phức tạp hơn là các giá trị
tài chính. Không thể xem cái gì cũng là mặt hàng đổi chác buôn bán được.
Mọi vấn đề liên
hệ đến nhau: bệnh dịch toàn cầu SARS là một ví dụ; khủng bố World Trade Center
cũng là một ví dụ khác. Từ vụ 911 này, du lịch sút kém khiến máy bay không ai
đi, nhà hàng không ai đến, do đó nhân viên hàng không bị đuổi và vì máy bay
không ai đi nên các hãng sản xuất máy bay phải sa thải nhân viên v.v. Như vậy các vấn nạn không những liên hệ với
nhau mà lại có sự gia tăng những yếu tố bất định không đoán trước được, chúng
phụ thuộc và phản tác dụng lẫn nhau với những gián đoạn, những hỗn loạn, rẽ
hướng, như tăng trưởng các vũ khí nguyên tử tại các xứ Ấn Độ, Hồi quốc, Bắc
Hàn, khủng bố Hồi giáo bảo căn v.v. .. .
Nhưng vấn đề cốt
lõi lại chính lại là một vấn đề văn hoá: làm sao cho thế giới không phải là một
sân chơi cho các cầu thủ hạng nặng ( các xứ giàu có) mà là một sân chơi đa dạng
trong đó mọi dân tộc tham dự chia xẻ các khổ đau, các an lạc, các thành qủa,
tạo ra một hiền hoà giữa người và người, một hài hoà giữa người và thiên nhiên,
nghĩa là tạo một nền kinh tế có bộ mặt con nguời, trong một tinh cầu nhỏ bé
(Trái Đất) trong giải Thiên Hà bao la .
Thái Công Tụng