ĐỌC ILIADE HOMER
BẢN DỊCH ĐỖ
KHÁNH HOAN nxb Thế Giới. 2013
TS PHẠM
TRỌNG CHÁNH
Dịch sử thi Iliade và Odyssée kiệt tác văn
chương hàng đầu của nhân loại gần 30 000 câu thơ, 10 lần Truyện Kiều là
một việc làm kiên trì, phải bỏ ra công sức 10, 20 năm làm việc đều đặn
liên tục Thơ Homère nổi tiếng là một kiệt tác văn chương, hoàn hảo đến mức được
so sánh như một chuổi ngọc thi ca tuyệt đẹp, không thể thế một câu, không thể
thay một chữ. Ngày nay khó tìm ra người Việt thông thạo tiếng Hy Lạp Cổ Điển để
dịch, tiếng Pháp, tiếng Anh có nhiều bản dịch tốt của các, giáo sư Đại học uy
tín, nhà xuất bản danh tiếng. Việc dịch lại hay tham khảo các bản dịch
Anh Pháp là chuyện bình thường cho các ngôn ngữ ít người dùng.
Trong hàng trăm người, thử sức mình bắt đầu
dịch, phần lớn đều bỏ cuộc, chỉ hai ba người đạt đến mục đích cuối cùng.
Không hẹn mà ba bản dịch tiếng Việt ba người cùng làm công việc này cùng
một thời gian ở ba phương trời khác nhau, cả ba đều dựa trên văn bản tiếng
Pháp, tiếng Anh : Bản dịch của ông Hoàng Hữu Đản tại Việt Nam, bản dịch của ông
Đỗ Khánh Hoan tại Canada và bản dịch của tôi bằng thơ lục bát tại Paris. Dịch
xong tìm một người làm công việc phê bình, điểm những lỗi lầm sơ sót
không phải là chuyện dễ dàng. Nếu không chỉ rõ những sai lầm thì để lại những
tai hại không thể đo lường được. Đây là những tác phẩm dành cho sinh viên đại
học, sẽ trở thành những vị thầy trong tương lai, nếu học những điều sai lầm,
thì sự sai lầm sẽ nhân cấp số trăm, số ngàn. Đây là những kiệt tác văn học thế
giới mà người đọc thấy ngô nghê, buồn ngủ, chán nản, không hiểu gì cả, thì quả
là một sự bôi nhọ cho kiệt tác văn học thế giới, làm sao có thể nâng tầm kiến
thức các thế hệ tương lai Việt Nam ngang tầm với thế giới. Là người đồng hành
với ông Đỗ Khánh Hoan tôi xin góp vài nhận xét về bản dịch Iliade của ông.
Ông Đỗ Khánh Hoan tốt nghiệp Đại Học Sài Gòn,
Đại Học Sdney (Úc) Đại Học Columbia (Mỹ) chuyên về văn học Anh Mỹ, nguyên giáo
sư và trưởng ban Anh Văn Đại Học Văn Khoa Sài Gòn (1964-1979). Trước kia khi
còn trong nước, ngoài việc giảng dạy văn học Anh Mỹ, ông thường chuyển dịch các
tác phẩm văn chương hai xứ này. Từ ngày ra nước ngoài định cư ở Canada, ông
dành thì giờ tìm hiểu văn học xứ tuyết rừng phong, ông giới thiệu một số cây
bút sáng giá, chuyển ngữ nhiều truyện ngắn giá trị. Ông chuyển ngữ nhiều
sách văn học Châu Mỹ La Tinh, cộng tác với Nguyễn Tường Minh chuyển ngữ tiểu
thuyết Nhật Bản.
Iliade là một Sử thi, một tác phẩm thi ca, ông
Đỗ Khánh Hoan dịch theo một tác phẩm văn xuôi như tiểu thuyết. Thi ca khác tiểu
thuyết, thơ ngắn gọn súc tích, dùng ít chữ nhưng dùng nhiều hình ảnh , điển
tích gợi ý, âm thanh, vần điệu nối nhau từ câu này đến câu kia. Một bài thơ
ngắn có thể viết ra thành hằng trang, do đó dịch thi ca ra tiểu thuyết thì mất đi
những đặc sắc của thi ca.
Nhiều tác giả các nước khi dịch một tác
phẩm trước khi thăm viếng quốc gia xứ sở nguyên tác, khi được đi thăm
viếng trở về thường dịch lại tác phẩm vì thấy mình đã “như con cá tả cảnh đất
liền theo lời kể một con rùa “. Tôi đã dịch hai Sử thi của Thi hào Homère sau
nhiều lần thăm viếng quê hương Hy Lạp, đến thăm từng di tích, thăm các bảo tàng
viện nơi lưu trử các cổ vật đã tả trong thơ Homère, đọc các sách và xem các
phim ảnh, tài liệu liên hệ, lấy cảm hứng từ những thực tế để tái tạo lại bằng
thơ lục bát cho người Việt ai đọc cũng hiểu được và thưởng thức được tuyệt tác
văn chương thế giới qua ngôn ngữ Việt Nam.
Nhiều danh từ trong tự điển Việt Nam không có,
vì các tự điển các cụ viết thời Pháp thuộc, chưa ai có dịp nghiên cứu thơ
Homère. Do đó việc sáng tạo ra các danh từ là việc cần thiết.
Tên các nhân vật: Các nhân vật trong thơ Homère
được gọi bằng nhiều tên, danh hiệu khác nhau, nếu không cho người đọc thấy đó
là danh hiệu, cứ dịch lẫn lộn với câu chuyện thì người đọc hoa cả mắt không
hiểu gì cả. Dùng danh từ Hán Việt làm nổi bật cái danh hiệu, lại ngắn gọn trở
nên cần thiết.
Zeus (Dớt): là nguồn gốc chữ Dieu của Tây Phương. Vua cõi
Thần và cõi Người. Dịch là Chúa Tể thì không đúng, vì Chúa Tể cũng chỉ là vua cõi
Người. Thượng đế là vua cõi Trên Trời. Lẽ ra phải dùng chữ Thần Đế, nhưng âm
hưởng chữ đế vần trắc khó đọc cho thơ, tôi chọn chữ Thần Vương để gọi Zeus.
Zeus còn có nhiều tên gọi : ông ĐKH không xem đó là danh hiệu nên dịch
bằng những câu dài dòng : Chúa tể thu thập mây trời : tôi dịch là
Đấng Hội Vân, ông Hoàng Hữu Đản dịch là Tích Mây. Chúa tể tư tưởng bao la thâm
thúy vô tận tôi dịch là Đấng Siêu Thần. Ông ĐKH cho rằng quân vương là con nuôi
của thần linh tối cao Zeus điều này không đúng, các vị vua Hy Lạp đều xưng mình
là con của Zeus, trùng hợp với các nước Đông Á vua là thiên tử, con trời. Do
địa lý cách trở nhiều đảo, mỗi vùng có một vị vua, trong chiến tranh thành Troa
họ hợp binh lại dưới sự điều khiển của vị vua mạnh nhất lá Agamemnon.
Nhiều danh hiệu Hy Lạp có nguồn gốc từ các nền
văn minh khác như Ai Cập. Tại Ai Cập thờ bò, đến Hy Lạp chỉ còn đôi mắt bò cái
của Thần nữ Héra. Dịch là ‘Héra mắt bò nái tơ ’ thì thật là buồn cười nên dịch
Héra Ngưu Mục. Thần Cú Vọ đến Hy Lạp chỉ còn đôi mắt Thần nữ Athéné Mắt Cú,
dịch sang ‘Athéné mắt xanh lam lục ‘ thì không phù hợp.
Héra : Cánh tay trắng ngần nên dịch danh hiệu là Bạch Thủ.
Posséidon: Hải Long Vương, Thần Rung Chuyển Đất, Thần Tóc Xanh.
Iris: Thần Nữ Cầu Vòng, chân như gió thổi nên dịch Iris
Phi Phong
Hermès: Thần của Thương mại, người giang hồ,của kẻ trộm, là Sứ
thần Truyền tin của thiên đình và dẫn các linh hồn xuống địa ngục. ông
ĐKH dịch là : Sứ giả đắc lực dáng vẽ rạng rỡ hộ tống dẫn đường nên dịch thành
danh hiệu: Thần Sáng Láng Dung Nhan.
Apollon có danh hiệu Thần bắn tên từ xa tôi dịch Thần Viễn
Kích
Achilleus (Achille- An Sinh ) có danh hiệu là Phi Túc có đôi chân
chạy nhanh.
Nestor là vua, là quân sư không thể dịch Nestor là mã phu,
lẫn lộn với người lái xe ngựa tầm thường, nhà vua giỏi tài lái xe chiến,
đóng chiến xa tối tân, đẹp nhất thời bấy giờ nên danh hiệu tôi dịch là
Chiến Xa Công Lão Vương
Người Hy Lạp ngày xưa chưa có họ, khi gọi tên
họ thường thêm chữ “con ông” và tên người cha, dùng chữ “con ông” khi gọi tên
một người trong văn chương tiếng Việt thì không mấy thanh tao, ta có thể
dùng chữ công tử thay chữ con ông, nhưng đối với bậc thần thánh như Thần Zeus
mà gọi là công tử Kronos, thì thật là buồn cười. Chữ công tử dùng
trong sách Đông Châu Liệt Quốc, chỉ các hoàng tử trước khi lên ngôi. Công tử
Tiểu Bạch khi lên ngôi thành vua Tề Hoàn Công thì không ai còn gọi là công tử
Tiểu Bạch nữa. Dùng danh từ công tử Atreus cho vua Agamemnon, công tử
Dardanos cho vua Priam, công tử Laerte cho Ulysse thì không hợp. Tôi chỉ
dùng chữ công tử cho người thường, dùng chữ ”thần tử” cho bậc Thần, ”tôn tử”
cho bậc vua chúa lớn tuổi và ”nương tử” dành cho phụ nữ. Khi khinh khi ai
người Hy Lạp họ gọi tên con ví dụ gọi “cha Télémaque” cho Ulysse là hổn
xược điều này nên tránh.
Người thi sĩ lang thang, ca công hát dạo, vừa đánh đàn Lyre vừa
hát vừa kể chuyện và ngâm để khán giả thưởng thức trong bàn tiệc cộng đồng tổ
chức trong nhà trưởng giả hay nhà quý tộc thay vì dài dòng như thế nên
gọi là du tử hay thi sĩ du tử.
Các danh từ ngô bối, hay lão hủ, bản nhân: nghe buồn cười
và cổ lổ không thích hợp còn làm rối trí thêm người đọc. Danh từ lửa bất nọa
hỏa thiêu người quá cố(tr.692). Lửa bất nọa không biết ông lấy từ đâu ra.
Trong bản dịch ông Đỗ Khánh Hoan nhiều câu đọc nghe ngược ngạo,
câu chẳng ra câu, nghĩa chẳng ra nghĩa:
tr 626: “Thần linh hạnh phúc cứ thế thúc đẩy, dẫn dắt hai
bên vào cuộc tàn sát, đồng thời bắt đầu gây gỗ, cải lộn gay gắt.”
HaI câu này tôi dịch đơn giản:
Hai bên, kích động các thần,
Đẩy nhau, một cuộc đấu tranh tương tàn. ( PTC câu 12941)
Tr 37. Con lừa kiên cường khỏi cánh đồng ngô…
tóp tép nhai bắp ngô. Trái Ngô, hay bắp du nhập từ Châu Mỹ La Tinh sau
thế kỷ 15, Hy Lạp thời Cố Đại làm gì có bắp ngô mà ngựa lừa nhai tóp tép.
Tr 132: Agamemnon, công tử Atreus, nguyên soái, mọi việc diễn
ra lúc này, bỉ nhân thấy binh sĩ Achaian dường như có ý hạ nhục nguyên soái
trước mặt thế nhân; họ không giữ lời hứa khi rời Argos, ngựa tung tăng gặm
cỏ, vượt đại dương tới nơi này, họ sẽ không bao giờ dong buồm trở về chừng nào
nguyên soái chưa hạ thành Troa tường cao kiên cố.. “
Bản dịch của tôi : câu 855-862
Ulysse cất giọng hùng trầm:
Vua An Trích muốn thử lòng toàn quân,
Cho nên nói ngược rút quân,
Ý là vua muốn nhục vinh khích lòng.
Nào ngờ quân sĩ tưởng lầm,
Lấy điều nhục nhã bại vong tức thì,
Chúng ta chưa thể rút đi,
Ngày chưa phá được thành Y Long này.
Ông ĐKH hiểu trật cả: làm sao quân sĩ Achaian có thể hạ nhục
vị nguyên soái vua các vị vua ?
Tr 141: “Đám đông binh lính dù có mười lưỡi, mười mồm”,
thật ra câu này ý nghĩa là quân đội Hy Lạp nói bằng 10 ngôn ngữ khác nhau,
truyền qua 10 miệng thông dịch.
Tr 346: “Agamemnon, nguyên soái không hề chợp mắt, đầu óc lo lắng
khôn xiết. Ông liên tục rền rỉ, tiếng rền rĩ dâng lên tự đáy lòng, ông liên
miên lo sợ, nỗi lo sợ khiến tim hồi hộp, đầu óc bấn loạn, lúc nhìn bầu trời
bỗng dưng sáng lòe, phu quân Héra mái tóc diễm kiều sửa soạn mưa lũ, mưa đá
hoạc bão tuyết bao phủ cánh đồng, hay dường như sắp sửa cởi xích ác thú chiến
tranh trên vùng đất bất hạnh.
Tôi dịch : Câu 5960
Vua An Trích thức trở trăn,
Nỗi lòng nặng trĩu, rốl răm tâm hồn.
Vài cơn chớp sáng đêm đen,
Mưa rơi nặng hạt bên thềm biển lam.
Rồi cơn giá lạnh đêm tàn,
Tuyết rơi trắng xóa sa trường mênh mông. “
Chỉ mấy câu đơn giản ông ĐKH dịch sao thấy như vua Agamemnon
rên rỉ như đau tim sắp chết .
Trang phục nhân vật:
Do không tìm hiểu về cách ăn mặc, các dũng sĩ người Hy Lạp
thời cổ đại mặc giáp trụ khi ra trận, giáp là phân kim loại che thân, trụ là
phần kim loại che chân, ông ĐKH dịch thành “chân quấn xà cạp” như lính
khố xanh khố đỏ nước ta ngày xưa. Các bức ảnh minh họa hình các chiến sĩ Hy Lạp
in trong sách không thấy ai chân quấn xà cạp cả.
Lời nói có cánh bay xa: tiếng Việt không ai nói thế,
nên dịch lời nói bay bổng.
Chiếc thuyền rỗng không. “Hector phái đi do thám nghe ngóng tình hình
quanh dãy thuyền trống không chứ gì.” Tr 356. Nếu thuyền rỗng không do
thám làm gì ? Nếu không ai ở đó thì Hector chỉ cần cho người đến đốt cháy hết
là quân Hy Lạp tiêu tan ngay ?
Tôi dịch câu 6238 : “Hay Hải Tô gửi mi đi thăm dò, Chiến thuyền
binh đóng quân cơ.”
Hương khí bất tử: tr 740 tràn đầy sát khí, ông ĐKH dịch
thành hương khí bất tử. “Trong khi mọi người ngon giấc, đêm trường ngạt ngào
hương khí bất tử, cha đánh ngựa đi đâu thế ?”
Tr742: “Chém phạt như chẻ tre với thương đồng sắt nhọn”
Thương chỉ đâm, phóng lao chứ không chém phạt như chẻ tre. Hy Lạp thời Cổ Đại
đâu có tre mà chặt. Tôi dịch câu 16396 : “Xông lên lao kiếm hiên ngang
chiến trường.”.
Chúng ta thử so sánh vài đoạn bản dịch ông Đỗ Khánh Hoan và bản
dịch bằng thơ lục bát của tôi:
KHÚC I (bản Đỗ Khánh Hoan.) trang 93,94.
“Hỡi Thi Thần, xin cất lời ca phẩn nộ
dâng lên trong lòng Achilleus, phẩn nộ tai hại đem lại muôn vàn đau khổ cho binh
sĩ Achaian, đưa biết bao linh hồn anh hùng, quả cảm xuống âm ty, biến thân xác
thành mồi cho chó và chim, như vậy mới thoả mãn ý định Chúa tể. Xin bắt
đầu hỡi Thi Thần, ngày công tử Atreus hục hặc với tướng quân lừng danh
Achilleus, công tử Peleus. Thần linh nào khiến hai người cải lộn sau đó đi đến
bất hòa ?
Công tử Chúa tể và Leto chứ ai. Tức giận
vì quân vương khiếm nhã với Chryses, tu sĩ thần linh bao che, Apollo
gieo rắc bệnh dịch khủng kiếp sát hại đoàn quân. Chryses tới dãy thuyền lướt
sóng quân Achaian chuộc ái nữ bị bắt. Lão nhân mang theo nhiều tiền bạc,
tay cầm quyền trượng bằng vàng của thần linh Apollo, xạ thủ từ xa, trên đầu cuốn
giải len thiêng liêng. Lão nhân kêu gọi toàn thể quân lính Achaian,
nhất là hai chỉ huy, công tử Atreus.
“Hỡi công tử Atreus và binh sĩ Achaian chân cuốn xà cạp gọn
gàng. Cầu mong thần linh trên núi Olympos trợ giúp để quý vị đột nhập,
cướp phá thành phố quân vương Priam, rồi trở về an toàn Nhưng trước khi làm
vậy, xin vui lòng thả ái nhi yêu quý của lão hủ, và để tỏ lòng tôn kính thần
linh xạ thủ từ xa Apollo, công tử Chúa tể, xin hoan hỉ đón nhận tiền chuộc.”
Hoan hô ầm ỉ, quân lính đồng thanh tuyên bố
phải kính trọng tu sĩ và chấp nhận tiền chuộc hậu hĩ. Phần riêng trong lòng
Agamemnon, công tử Atreus, không muốn tí nào. Nghiêm khắc cảnh cáo, nặng
lời xua đuổi, quân vương dằn giọng : “Lão già, đừng để ta bắt gặp bữa nay lảng
vảng quanh quẩn chiến thuyền rỗng không, và trong tương lai cũng chớ vác
mặt trở lại nơi này kẻo lão già sẽ thấy quyền trượng lẫn giải len thiêng liêng
đều bất lực không đủ bảo vệ tấm thân. Thay vì thả con gái lão già ta sẽ giữ
nàng sống tới khi đầu bạc răng long trong tư thất trên đất Argos, rất xa quê
hương nơi nàng chào đời, ngày dệt vải trong khung cửi, tối lên giường chia chăn
sẻ gối với ta. Cút khỏi mắt ta ngay lập tức, chẳng nên ỉ eo quấy rầy ta nữa,
nếu muốn trở về an toàn. “
THI CA KHÚC I Trận Dịch. Cơn giận dũng tướng Achille. Trang 15, 16
bản dịch Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh
Hát lên, Thần nữ Thi Ca,
An Sinh dũng tướng bất hòa, gát gươm. (Achille)
Mặc bao thảm hại vô cùng,
Xuống hàng quân tướng vây thành, An Kinh. (Achéen)
Hồn tử sĩ về cõi âm,
Xác thân sói xé, diều ăn chiến trường.
Ý Thần Vương Dớt định phần. (Zeus)
Gây nên chia rẽ, tương tàn Vua, tôi,
An Trích, vua cõi người. (Atride)
Gây hờn dũng tướng thần trời An Sinh.
Thần nào gieo nỗi bất bình,
An Long con Dớt và nàng Lã Tiên.(Apollon, Zeus, Latone)
Cung vàng tên rãi trận tiền,
Dịch thần gieo bóng thê lương tội tình.
Vì vua An Trích lỗi lầm,
Mắng Sĩ Tiết, tế tự thần An Long;(Chrysès)
Sĩ Tiết đã đến van xin,
Anh em An Trích, quân hùng An Kinh:
Tôi người tế tự An Long,
Trượng vàng, khăn trắng xin dâng vật quà.
Thiên đình chứng giám lòng ta,
Giúp Ngài phá được thành vua Biam này, (Priam)
Chiến công phúc lộc cao dày,
Tạ Ngài nhận lễ, tỏ bày cầu xin,
Tha con tôi chẳng tội tình,
Chiến tranh loạn lạc, lỡ lầm sắc hương.
Bị người bắt giải tiến cung,
Xin Ngài kính Dớt, An Long tha giùm.
Quần hùng dưới trướng sẵn sàng,
Nhận quà hậu hĩ, thả nàng cho cha.
An Gia Vương mặt tối sa, (Agamemnon)
Mất nàng Sĩ Tuyết, phần quà chiến công. (Chryséis)
Chẳng vui đuổi kẻ tế thần :
Lão già chớ dọa trượng vàng tối cao,
Lễ người ta chẳng nhận đâu,
Con người ta chẳng khi nào thả ra,
Nàng hầu ta mãi đến già,
Về Đạt Gô Lịch xa nhà quê hương ;(Argolide)
Bên ta cung phụng chiếu giường,
Bên ta dệt vải sớm hôm cung phòng.
Về đi nếu muốn yên thân.
Từ nay chớ đến lăng nhăng quấy rầy. »
Chúng ta thử so sánh bản dịch cảnh làm tình của
Thần Vương Zeus với vợ Thần Nữ Héra :
Bản dịch Đỗ Khánh Hoan trang 472
« Vừa suy ngẩm mưu mẹo đánh lừa, Héra khả ái, vừa đon đả đáp
lời : « Thưa công tử Kronos oai phong, Thánh thượng nói thế
nghĩa là thế nào ? bây giờ trong lòng thèm khát Thánh thượng muốn lên
giường trao đổi yêu đương trên đỉnh núi Ida trống trải ai cũng nhìn thấy !
Sự thế sẽ ra sao nếu nom thấy chúng mình ăn nằm với nhau, có thần linh trong
hàng bất tử chạy đi kháo chuyện ? Phần riêng do xấu hổ vì điều ong
tiếng ve, thần thiếp chẳng mặt mũi nào quay lại cung điện sau khi rời
long sàn. Tuy nhiên nếu thực sự muốn làm như vậy, nếu quyết tâm định xoa
dịu tơ lòng, hãy về tư phòng đóng cửa then cài, hoàng nhi Hepaitos xây cất
cho Thánh thượng. Mình nên tới đó lên giường nếu quả thực là điều Thánh thượng
mong muốn. Chúa tể thu thập mây trời trấn an : Héra ái khanh
chẳng nên sợ thần linh hay thế nhân nhòm thấy đôi ta. Trẩm sẽ dấu kín ái khanh
trong mây vàng dày đặc, ngay cả mặt trời, tia sáng tỏa khắp nơi cũng không nhìn
thấy chúng mình. Vừa dứt lời quý tử Kronos vòng tay ôm phu nhân dắt
đi. Mặt đất thiêng liêng dưới gót sen, gót ngọc bừng nở cỏ non mơn mởn, sen
long lanh trĩu nặng sương mai, nghệ vàng, lan trắng thân mềm mại chen
chúc san sát bên nhau nâng hai vị trên mặt đất. Hai vị nằm ngủ bên nhau, mây
vàng ngoạn mục buông phủ sương mai óng lánh rơi nhẹ chung quanh. »
Bản dịch của tôi câu 8648 đến 8674
Hạ Cơ mưu trí khôn ngoan : (Héra)
Cồ Nốt Thần tử, ông còn nói chi ?
Hứng tình chi lúc dị kỳ,
Nằm ngay trên đỉnh non này Y Đa,
Các Thần Bất Tử vào ra,
Tò mò tọc mạch ba hoa họ hàng.
Tôi còn mặt mũi nào nhìn,
Về trong cung điện với lòng hổ ngươi.
Nếu ông ưng ý đẹp lời,
Vào phòng Hỏa Thái vẻ vời vừa xong. (Héphaistos)
Cài then khóa kín cửa phòng,
Mặc tình ông muốn thỏa lòng mây mưa.
Đấng Hội Vân đáp Hạ Cơ :
Chẳng thần nào thấy chúng ta làm tình.
Ta sẽ phủ lớp mây vàng,
Mặt trời cũng khó thấy nhìn chúng ta,
Dù cho ánh sáng chan hòa,
Cũng không soi thấu chuyện ta với nàng.
Nói rồi bế vợ tay êm,
Từ trên đất mọc cỏ mềm non tơ.
Sen mai ngậm đóa sương mơ,
Thủy tiên vàng một bến bờ dịu êm,
Nâng lên mặt đất nhẹ nhàng,
Hai Thần nằm xuống mây vàng long lanh.
Giọt sương thánh thót lìa cành
Giấc nồng trên đỉnh non thần Nam kha.
Giấc say tình ái mặn mà,
Trong tay ôm ấp thiết tha nồng nàn.”
Thử so sánh một đoạn tả cảnh chiến tranh: Khúc 11 trang 380
“Hai bên tiến gần nhau, công tử Atreus tấn công, lao thương, song
thương bay xa. Phản công Iphidamas lao thương trúng thắt lưng Agamemnon dưới
trấn thủ. Mặc dù nắm thương đẩy mạnh hết sức, chiến binh cũng không thể đâm
thủng thắt lưng óng ánh, vì chạm mặt bạc mũi thương cong như chì. Đưa
tay nắm cán thương như sư tử hóa điên, Agamemnon quyền uy rộng rãi lên gồng
kéo về phía mình, giật khỏi tay chiến binh. Tiếp theo Agamemnon vung kiếm
chém trúng gáy, cắt đứt cuộc đời. Gục ngã tại chổ, Iphidamas rơi vào
giấc ngủ triền miên.. Thanh niên đáng thương ! Chiến đấu bảo vệ
đồng bào, xa cách hiền thê trẻ đẹp mới kết hôn, song chưa đón nhận thiên
ân, mặc dù tốn khá nhiều tiền để chinh phục. Mới đầu nộp trăm bò, sau đó
hứa nộp ngàn gia súc gồm cừu dê bắt từ đàn khổng lồ ngoài bãi cỏ. Vậy mà
chiến binh chết dưới tay công tử Atreus. Lật thi thể lột giáp y, quân vương
đem chiến phẩm ngoạn mục qua hàng quân Achaian đông đảo.
Nhìn cảnh tượng, mắt mờ lệ, lòng đau xót vì bào
đệ nằm xuống, Koon chiến binh lừng danh, trưởng nam Antenor, kín đáo xông tới
bên sườn giơ thương tấn công. Agamemnon hùng hổ không hay. Koon đâm dưới khủy,
mũi nhọn bóng loáng xuyên cánh tay. Quân vương rùng mình kinh hoàng. Tuy
nhiên thay vì bỏ cuộc rút lui, quân vương vẫn vung thương lao tới tấn công như
vũ bão. Nắm chân Iphidamas, bào đệ cùng cha cùng mẹ, Koon vội vàng vừa kéo
về đám đông, vừa gọi binh sĩ tinh nhuệ giúp một tay. Trong lúc chiến
binh hì hục lôi điệu quý tử thân phụ, quân vương lao thương, mũ đồng
trúng thương nhiều gù, chiến binh lăn kềnh. Quân vương xổ tới nắm đầu kê
trên xác Iphidamas giơ kiếm chặt mạnh. Kết quả dưới tay quân vương, công tử
Atreus, công tử Antenor làm tròn số phận, theo tiếng định mệnh réo gọi
đi xuống địa ngục. “
bản dịch của tôi:
THI CA KHÚC XI. Chiến công vua Agamemnon tr 197
Xuất quân giáp mặt Đại Vương,
6565
Ngọn lao An Trích phóng gần hụt trên. (Atride)
Anh Phi đâm trúng đai vàng, (Iphidamas)
Ngọn lao toan ấn sâu tràn bên thêm,
Nhưng lao như mũi chì mềm,
Uốn cong trên lớp bạc vàng dây đai.
An Trích giận tuốt gươm dài,
Vờn như sư tử, con mồi kề bên,
Chém tung đứt cổ địch quân,
Anh Phi Đa Mạc đầu lăn ngã đùng,
Xót xa vợ trẻ khuê phòng,
Chinh phu vĩnh biệt lên đường xa nhau.
Chẳng còn về nữa thương đau,
Trăm bò sính lễ, nghìn cừu mà chi.
An Trích toan cướp tử thi
Mang về vũ khí uy nghi giáp đồng.
6580
Bổng đâu xông đến tướng Công (Coon)
An Thế con trưởng anh hùng vinh danh, (Anténor)
Đau thương trước mắt sự tình,
Thấy em bị hạ dưới thanh kiếm thù,
Xông lên phóng thẳng ngọn lao,
Trúng tay An Trích, xuyến xao rùng mình,
Nhà vua xông chẳng sờn lòng,
Ngọn lao bay thẳng như giông gió tràn,
Tướng Công thương tích ngã lăn,
Rút gươm An Trích chém phăng đứt đầu.
Hai con An Thế còn đâu,
Dưới tay An Trích thương đau số phần,
Về chầu Diêm Chúa đau thương. “
6593
Bản dịch Đỗ Khánh Hoan tán rộng ra, nhưng nhiều
chổ lại phản nghĩa, vô lý ví dụ nếu ngọn lao bóng loáng đâm xuyên được cánh tay
Agamemnon thì làm sao nhà vua còn sức để chặt đầu tướng Coon. Agamemnon toan
lột giáp y Iphidamas, thì bản dịch Đỗ Khánh Hoan lại dịch thành đã cởi được
giáp binh và đem trình diễn trước quân Achéen, nếu đã đứng trước quân Achéen
đông đảo thì làm sao tướng Coon có thể đâm lén trúng cánh tay.
Đọc xong bản dịch ông Đỗ Khánh Hoan tôi hoảng
hồn, bản dịch sai nhiều quá , ngây ngô, sai từng trang như một học trò mới học
tiếng Anh, tiếng Pháp tập dịch. Người dịch mới tra tự điển rồi sắp các chữ ngây
ngô lại, không đọc lại để tìm hiểu câu văn nói gì, nhiều chổ chỉ hiểu lõm
bõm rồi đoán bừa, tán láo, không so sánh các bản dịch Anh Pháp khác nhau để tìm
hiểu cặn kẽ câu chuyện, rồi diễn tả lại bằng văn chương tiếng Việt cho thích
hợp với người Việt. Không thể nào ông Đỗ Khánh Hoan dạy Đại học Văn Khoa Sài
Gòn mà dịch ra thế này, tôi có đọc quyển Don Quijote của Miquel Cervantes, năm
2003 của ông đọc hấp dẫn không đến nỗi nào, dù tôi chưa so sánh với nguyên tác
hay bản dịch Anh, Pháp mà nay bản dịch Iliade thảm hại nỗi này, tôi tự
nêu lên giả thuyết có lẽ là “chuyện treo đầu dê bán thịt chó” đây ! ông cho
mượn tên một học trò nào đó tập dịch, ông mắt mũi chắc đã lem nhem, mệt
mõi không đủ sức kiểm soát việc làm học trò. Giao cho nhà xuất bản, nhà xuất
bản cũng không có người đủ sức kiểm soát chỉ thấy tên ông và tên tác phẩm
rồi lên kế hoạch in ấn phát hành. Kết quả một bản dịch đại họa cho người
đọc, cho sinh viên đại học, phỉ báng một kiệt tác văn học thế giới. Để tránh
tình trạng này tôi xin các nhà xuất bản, trước khi xuất bản nên đưa cho một
giáo sư chuyên gia trong ngành xem lại cho ý kiến. Đừng để những chuyện “treo
đầu dê bán thịt chó” xãy ra gây phương hại cho uy tín nhà xuất bản.
Paris ngày 27-10-2017
PHAM TRỌNG CHÁNH
Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V Sorbonne.
Nhất Uyên . Sử Thi Iliade Khuê Văn Paris xuất bản quyển I. 2007, quyển 2 2009 quyển 3. 2011.
Bản nhuận sắc 2017 Sử thi Ilade thi hào Homère chuyển ngữ thơ lục
bát, đăng từng Thi Ca Khúc trên các site: Khoahocnet, Chimvietcànhnam,
Sàimonthidan, Vietbao, Langhue, dongtac, tapchivanhoanghean..
Nhất Uyên .Truyện Thơ Odyssée. Khuê Văn Paris. 2005