Ls Đoàn Thanh Liêm
California, Hoa Kỳ
Tài liệu Tập San Định Hướng
Tôi sinh trưởng trong một gia đình nông dân cạnh bờ đê
sông Hồng, thuộc tỉnh Nam Định miền Bắc Việt nam.
Dòng họ nội ngoại đều đã theo đạo Công giáo từ
nhiều đời, mà theo sự phân chia khu vực địa lý tôn
giáo thì thuộc giáo phận Bùi chu. Ông nội tôi lại là
một cụ đồ dậy chữ nho, nên anh chị em chúng tôi luôn
được cha mẹ nhắc nhủ là phải biết giữ vững được
nền nếp gia phong gia đạo. Mẹ tôi là người rất siêng
năng việc đạo đức kinh hạt, nên đã hướng dẫn anh
chị em chúng tôi là phải biết lo lắng “chuyện phần
linh hồn”, hơn là chỉ biết mê say theo đuổi những thú
vui vật chất trên đời.
Thành ra cả cha mẹ tôi đều khuyên dậy tôi phải sống
khiêm nhu, đạo hạnh từ tốn theo đúng với tinh thần
của Nho giáo, cũng như của Thiên chúa giáo.
Khi tôi được gửi ra tỉnh lỵ Thái bình học, thì thấy
rõ ràng mình là một chú bé nhà quê, từ quần áo ăn mặc
cho đến lề lối sinh họat đều thua kém với các bạn
đồng lứa tuổi trong lớp học. Rồi sau này ra đến tận
Hà nội, thì lại càng thấy mình vẫn còn thua xa so với
chúng bạn. Nhờ vậy mà tôi tránh được cái tật kiêu
căng phách lối, tự cao tự đại mà coi thường người
khác. Dĩ nhiên là mình có sự an ủi là không bị thua kém
trong các môn học, và lại được cái may mắn trong chuyện
thi cử. Do vậy mà không đến nỗi bị mắc vào cái mặc
cảm tự ty vì quá kém cỏi so với các bạn khác.
Và rồi càng học lên lớp trên ở Đại học ở miền
Nam, tôi lại càng thấy được cái giới hạn nhỏ bé của
mình trước kho tàng kiến thức đồ sộ của nhân lọai,
cả trong lãnh vực khoa học thực nghiệm cũng như khoa học
xã hội. Nhất là trong các môn Luật pháp, Kinh tế học,
Triết học, Văn học, Ngọai ngữ… là mấy thứ mà tôi
say mê nghiền ngẫm, thì càng học hỏi, mình càng thấy
sự hiểu biết nhỏ nhoi, khiêm tốn và nông cạn của
mình.
Đến khi ra trường đi làm trong ngành nghiên cứu luật
pháp cho văn phòng Quốc hội thời Đệ nhất Cộng hòa,
tôi càng thấy rõ được cái địa vị khiêm tốn của
mình trong guồng máy chánh quyền thời đó ở miền Nam
Việt nam. Và nhất là khi được gửi đi du học tu nghiệp
tại Quốc hội Hoa Kỳ, thì tôi càng nhận ra được cái
giới hạn nhỏ bé của mình trong cái thế giới mênh mông
của ngành nghiên cứu luật pháp ở Mỹ. Cả đến khi gia
nhập vào hàng ngũ Quân lực Việt nam Công hòa với cấp
bậc Thiếu úy, thì mình cũng chỉ là một thành viên
khiêm tốn trong đại gia đình quân đội mà thôi. Đại
khái, nhờ được giáo dục uốn nắn từ trong gia đình,
mà tôi có được cái thái độ khiêm tốn cầu thị trước
sự lớn lao vĩ đại của xã hội, để mà từ đó biết
cách thích nghi với cuộc đời, tránh được những thái
quá bất cập thường phát sinh từ tính cách nông nổi
ngông cuồng, tự cao tự đại của tuổi trẻ.
Trên đây là sơ lược về chuyện học tập và đi làm
của mình lúc mới ra trường. Sau này, kể từ năm 1965
trở đi thì tôi chuyên tâm vào công tác xã hội trong
chương trình phát triển cộng đồng tại các quận 6, 7
và 8 Saigon. Qua chương trình xã hội này, tôi được dịp
gần gũi quen biết với các tổ chức nhân đạo từ thiện
ngoại quốc, cụ thể như cơ quan Xã hội Tin lành Á châu
(ACS = Asian Christian Service), Thanh Niên Chí Nguyện
Quốc Tế (IVS = International Voluntary Service), cơ quan
Xã hội Tin lành Việt nam (VNCS = Vietnam Christian Service),
cơ quan Viện trợ Công giáo Mỹ (CRS = Catholic Relief
Service), cơ quan Care, Adenauer Foundation, Oxfam v.v…Qua sự
tiếp cận lâu ngày với những cơ quan từ thiện này, tôi
nhận ra là phần đông họ đều xuất phát từ một tổ
chức tôn giáo và được các tín đồ yểm trợ hết mình
cho các họat động xã hội ở ngọai quốc. Và các nhân
viên đều tham gia cộng tác với tinh thần hy sinh tự
nguyện, nhiều hơn là nhằm tìm kiếm lợi lộc vật chất
nào đó cho bản thân mình. Và dù họ không phải là một
vị tu sĩ đi truyền đạo, họ vẫn có một đời sống
đạo đức tâm linh rất phong phú, vững vàng. Từ 10 năm
nay, tôi đã gặp lại một số người bạn này, sau trên
25 năm xa cách kể từ sau 1975, thì tôi càng nhận ra cái
động lực thúc đảy họ dấn thân suốt cả cuộc đời
vào công tác xã hội là bắt nguồn từ niềm tin tôn
giáo. Mà họ luôn sống rất khiêm tốn, không bao giờ tìm
cách đề cao quảng cáo về bản thân mình, cũng như về
cơ quan mình phục vụ (low profile). Họ hay tham khảo ý
kiến của những bạn hữu người Việt chúng tôi, và tỏ
ra có thiện cảm với truyền thống đạo đức trong văn
hóa Việt nam.
Nhất là khi tôi cộng tác với tổ chức World Council of
Churches (WCC = Hội đông Tôn Giáo Thế giới) có trụ
sở chính tại Geneva vào các năm 1972-74, thì tôi có nhiều
dịp tiếp cận với giới lãnh đạo của tổ chức này.
Điều làm tôi chú ý nhất là tất cả đều có trình độ
học vấn khá cao mà lại có thái độ thật khiêm tốn,
cởi mở để tiếp thu đón nhận ý kiến của mọi người
từ các quốc gia khác nhau trên thế giới, mà đến tham
gia sinh họat và trao đổi với họ qua các buổi gặp gỡ,
hội thảo hoặc nghiên cứu chung về một đề tài nào
đó. Cái tinh thần tiếp nhận này (receptivity) còn
được biểu lộ thật rõ nét trong các báo chí, ấn phẩm
rất phong phú dồi dào của các ban ngành thuộc WCC. Họ
đề cao tinh thần “Đối thọai” (Dialogue), tức
là bày tỏ sự tôn trọng quý mến đối với người trao
đổi thảo luận chung với mình. Thật đúng hệt như thái
độ “Quân tử hòa nhi bất đồng” của bậc sĩ phu
quân tử chúng ta ngày xưa vậy.
Chính cái lối sống giản dị khiêm tốn đó mới thật
sự có tác dụng cảm hóa đối với những người xung
quanh, nhiều hơn là lời nói hay chữ viết. Như cha ông
chúng ta vẫn thường dậy : ”Dĩ thân nhi giáo”, tức là
cái nhân cách, cái tấm gương đạo hạnh khiêm cung của
bậc làm cha mẹ, của nhà mô phạm mới đích thực có
tác dụng thuyết phục, hướng dẫn vững chắc đối với
con cái và môn sinh của mình. Chứ không phải là bằng
lời nói suông mà ta có thể tu sửa, rèn luyện được
tâm tính của con cháu và học trò của mình vậy.
Phân tích tình trạng xã hội ở trong nước ta hiện nay,
điều khiến chúng ta lo ngại hơn cả, đó chính là sự
dối trá, giả hình, lừa gạt đã quá phổ biến, gây ô
nhiễm trầm trọng trong mối quan hệ giữa con người với
nhau, cũng như giữa người dân đối với chánh quyền do
đảng cộng sản nắm giữ liên tục từ trên 60 năm nay.
Sự sa đọa về luân lý đạo đức xã hội này mới thực
sự là mối nguy hại mà các tôn giáo vốn là rường cột
tinh thần của dân tộc, thì không thể nào bất động
làm ngơ mãi được nữa.
Như đã có dịp trình bày trước đây, ngoài vai trò làm
“đối tác” (counterpart) với Nhà nước như trong
các công tác từ thiện nhân đạo, Tôn giáo còn phải
đóng một vai trò khác nữa, đó là làm “đối trọng”
(counterbalance) đối với Nhà nước. Cụ thể như là
phải cất lên tiếng nói lương tâm (voice of conscience)
trước những bất công, áp bức, đàn áp của cơ quan
công lực trong guồng máy nhà nước nhằm triệt hạ những
nạn nhân mà có can đảm đứng lên đòi hỏi Chánh quyền
phải sửa sai, đền bù những thiệt hại gây ra cho người
dân, mà điển hình là trong các vụ khiếu kiện của hàng
vạn, hàng triệu dân oan đã bị mất nhà mất đất do
chánh sách sai lầm của đảng cộng sản từ bao lâu nay.
Tôn giáo phải góp phần xây dựng và bảo vệ sự công
bằng xã hội, khiến cho chánh quyền cộng sản phải thật
tâm sửa chữa, điều chỉnh những chính sách sai lầm
phát sinh từ chủ trương bạo tàn quá khích của đảng
cộng sản vốn đã du nhập từ Liên Xô, Trung quốc vào
nước ta từ hơn nửa thế kỷ nay. Cụ thể là việc xóa
bỏ quyền tư hữu về ruộng đất của người dân, khiến
gây ra bao nhiêu bất công, lũng đọan, bất ổn xáo trộn
trong đời sống xã hội ở khắp nơi trên đất nước ta
từ mấy chục năm nay. Cái vai trò”làm đối trọng”
này, giới lãnh đạo tinh thần cũng như giới sĩ phu trí
thức là các thành phần tinh hoa ưu tú của dân tộc, thì
không thể nào mà lẩn tránh trách nhiệm đối với dân,
đối với nước được nữa, để mặc cho người cộng
sản nắm giữ độc quyền tự tung tự tác mãi như họ
vẫn làm từ trên nửa thế kỷ nay.
Chủ đề của bài viết này là sự khiêm cung do Tôn giáo
uốn nắn chỉ dẫn cho mỗi người chúng ta. Nhưng cần
phải nói cho rõ: Khiêm cung, hòa nhã từ tốn không hề có
nghĩa là nhu nhược, thụ động hèn nhát trước sự đàn
áp sắt máu của chế độ chuyên chế độc tài, của bạo
quyền cộng sản hiện nay trên đất nước ta. Cụ thể
là Tôn giáo không thể làm ngơ trước tình trạng cơ quan
an ninh đang sử dụng bọn côn đồ để phá họai cuốc
sống tu hành tại Chùa Bát Nhã ở Lâm Đồng và hành hung
đánh đập tàn bạo đối với giáo dân và tu sĩ tại
giáo xứ Tam Tòa Đồng Hới trong suốt tháng 6 và 7 gần
đây.Cũng như không thể để mặc cho chánh quyền Hanoi
vẫn tiếp tục việc đàn áp có hệ thống đối với các
nhà tranh đấu bất bạo động cho Dân chủ, Tự do và
Nhân quyền ở trong nước, như họ đã áp dụng liên tục
từ nhiều năm qua.
Nhân tiện cũng xin ghi lại cho rõ hơn là: Tôn giáo là một
thế lực tinh thần, là biểu hiện cho nền đạo đức
luân lý truyền thống của Dân tộc. Tôn giáo nằm trong
khu vực Xã hội Dân sự, do đó không hề có tham vọng
thay thế hay khống chế lũng đọan Nhà nước. Cũng như
Tôn giáo không bao giờ lại đi kinh doanh kiếm lợi lộc
vật chất như là một đơn vị công ty, xí nghiệp trong
khu vực Thị trường kinh tế (marketplace). Có giữ
đúng cương vị như thế, thì Tôn giáo mới đóng được
vai trò là chỗ dựa tinh thần cho dân tộc, là trọng tài
điều giải chuyển hóa các tranh chấp của xã hội
(conflict transformation), là tác nhân xây dựng hòa
bình (peacebuilding), hàn gắn những hận thù đổ vỡ
trong lòng dân tộc (healing mission).
Tôn giáo phải thật sự đóng góp với dân tộc trong
những vai trò quan trọng và năng nhọc như đã ghi trên
đây. Và muốn làm được điều đó, thì chính tôn giáo
phải là mẫu mực của lòng từ bi nhân ái, của sự
khiêm cung hòa nhã, của sử khoan dung độ lượng. Như
vậy, không có bất kỳ một lý do gì mà các tôn giáo lại
có thái độ kèn cựa, khinh miệt chê bai lẫn nhau. Cũng
như không thể chấp nhận được sự bạo hành trong ngôn
ngữ và hành động của một nhóm tín đồ thuần thành
nào mà sử dụng đối với nhau, hoặc đối với tín đồ
thuộc tôn giáo khác với mình. Chuyện bới móc, bêu riếu
những sai lầm của nhau bằng những ngôn từ nặng nề,
thô bỉ… đều là điều trái ngược với giáo lý chân
truyền của bất kỳ tôn giáo nào vậy.
Vắn tắt lại Tôn giáo là như người Mẹ hiền gương
mẫu, luôn luôn dịu dàng khiêm tốn, không bao giờ tranh
dành kèn cựa về quyền lợi với bất kỳ ai. Mà chỉ
biết hy sinh, nhẫn nhục, chăm lo hết mình cho tương lai
hạnh phúc của lũ con thân yêu của mình. Vì thế, hơn
lúc nào hết Dân tộc chúng ta đang rất cần đến một
bà mẹ đức hạnh lý tưởng như vậy đó./