ThS. Trần Thị Thanh Thoả - Thiều Mai Lâm - GS.TS. Trương Nguyện Thành.
Trong lúc chờ kết luận của cơ quan chức năng về nguyên nhân cá chết ở bờ biển miền Trung, chúng tôi đưa ra những bằng chứng sau để dự đoán khả năng hai trường hợp có thể xảy ra.
Bài
viết phân tích dưới góc độ khoa học về nguyên nhân cá chết ở ven biển
miền Trung, có thể đúng hoặc cũng có thể không khớp với kết luận sẽ được
cơ quan chức năng công bố.
* ThS. Trần Thị Thanh Thoả (Khoa Sinh học, Trường Đại học Thủ đô Tôkyo, Nhật Bản)
* Thiều Mai Lâm (Viện Khoa học Cao phân tử, Đại học Kỹ thuật Virginia, Mỹ)
* GS.TS. Trương Nguyện Thành (Khoa Hóa Học, Đại Học Utah, Mỹ)
Để
khẳng định một cách chính xác, các phương pháp phân tích hóa chất
thường dùng trong các phòng thí nghiệm hóa học, phân tích chất lượng
nước... có thể xác định chính xác hóa chất gây cá chết.
Thí
dụ dùng phương pháp Atomic Absorption Spectroscopy (AAS) có thể tìm ra
những kim loại nặng hấp thụ trong cá chết hoặc Gas Chromatography Mass
Spectroscopy (GC-MS) xác định hàm lượng vết các chất hữu cơ.
Những
thí nghiệm này không quá phức tạp chỉ cần trình độ cử nhân hóa học là
làm được. Tuy nhiên, tiếc là đến nay chưa có một báo cáo nào công bố cụ
thể các chỉ số cho toàn dân biết để phòng tránh.
Trong lúc chờ kết luận của cơ quan chức năng về nguyên nhân cá chết, chúng tôi đưa ra những bằng chứng sau để có thể kết luận khả năng 2 trường hợp có thể xảy ra (nghĩa là có thể có nguyên nhân khác nữa - pv).
Trường hợp 1: Nhiểm độc kim loại nặng (KLN)
1. Chất có khả năng giết hàng loạt cá biển trên một diện rộng như thế phải là chất kịch độc như KLN và kể cả chất phóng xạ.
Theo
thiết kế của khu công nghiệp, cổng xả thải được đặt ở vị trí 1,5 km
ngoài khơi, nơi được cho là có khả năng làm loãng mọi hóa chất một cách
nhanh chóng do dung lượng lớn của nước biển.
Tuy
nhiên, đối với các KLN như chì thì một lượng rất nhỏ chỉ cần 1 g trong
1,000,000 lít nước cũng đủ chết người (Nồng độ IDLH (Immediately
Detrimental to Life and Health) từ Environmental Protection Agency (EPA -
Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ) và 1 g trong 10 triệu lít nước đủ nguy
hại đến cá.
2. KLN khối lượng riêng nặng nên khi bị phát tán sẽ dần chìm xuống dưới nên mới gây chết rất nhiều cá ở tầng đáy.
Như các thông tin báo chí đăng có thể thấy cá sống ở lớp nước sâu bị ảnh hưởng nhiều hơn cá sống ở lớp nước mặt.
Điều đó có thể là dấu hiệu cho thấy do các hợp chất chứa KLN chìm xuống dưới làm chết các loại cá và sinh vật dưới đáy biển.
3. Kết luận kiểm tra của Sở NN&PTNT Thừa Thiên - Huế cho biết, nguyên nhân cá chết hàng loạt là do pH nước thay đổi đột ngột, chất lượng phú dưỡng (PO43-) tăng cao đột ngột. Câu hỏi đặt ra “PO4 từ đâu ra và tại sao pH nước tăng đột ngột?”
a. Đá ở khu vực Vũng Áng rất giống loại đá phosphorite: có lỗ nhỏ và màu ngả vàng.
So sánh đá ở khu vực Vũng Áng và đá phosphorite
b. Trong qui trình khai thác đá phosphorite sẽ thải ra nước thải màu vàng.
Ta có thể thấy nước thải của Formosa có màu vàng, giống với màu đặc trưng của nước thải khi khai thác phosphorite. (ảnh dưới)
c. Cấu trúc của đá phosphorite điển hình thường có chứa gốc iôn kim loại nặng và PO43-
(Một
số ít ion bạc trong cấu trúc này có thể được thay thế bởi các loại kim
loại nặng khác nhau). Khi khai thác đá phosphorite sẽ giải thoát một
lượng lớn PO4, ion Ag cũng như một số kim loại nặng vào nước thải.
d.
Phosphoric acid là một acid yếu do đó với lượng lớn PO4 3- ion, theo
nguyên tắc chuyển dịch cân bằng Le Chatelie, chiều phản ứng sẽ bị đẩy
ngược để tạo nhiều OH ion hơn và do đó nâng cao độ pH của nước.
e.
Theo nghiên cứu của Salamon, chỉ cần 0.1 ppb (part per billions) lượng
ion bạc là đủ giết cá. 0.1 ppb tương đương với 1 g cho 10 triệu litter
nước. (hệ số biến đổi: 1 ppb = 1 g/1 triệu L)
Trường hợp 2: Nhiễm độc bởi cyanide (Xyanua)
Trong kỹ thuật khai thác mỏ kim loại, NaCN thường dùng để chiết xuất vàng và các kim loại quí hiếm.
Thí
dụ trong trường hợp chiết xuất vàng từ quặng, NaCN giúp biến vàng thành
chất có thể tan trong nước theo phản ứng sau và đồng thời sản xuất
NaOH, một bazơ mạnh theo phương trình sau:
4 Au + 8 NaCN + O2 + 2 H2O → 4 Na[Au(CN)2] + 4 NaOH
NaCN
là một loại muối rất dễ tan trong nước. Do đó nếu không kết hợp với kim
loại thì ion cyanua sẽ xuất hiện ở dạng ion trong nước thải.
Vì phản ứng hóa học thải ra NaOH do đó nồng độ pH của nước sẽ tăng phù hợp với báo cáo của Sở NN&PTNT Thừa Thiên - Huế.
Ion
Cyanua (CN-) tan trong nước là một chất cực kỳ độc. Nó làm hệ thống hô
hấp của động vật mất chức năng tiêu thụ oxy. Nồng độ IDLH của CN là 25
g/ 1 triệu L.
Tuy không độc bằng KLN nhưng với lượng lớn cyanua cũng có thể gây cá biển chết hàng loạt.
Khu
vực miền Trung được biết có nhiều mỏ vàng. Do đó khả năng chất thải có
từ việc khai thác vàng và kim loại quí hiếm cũng không phải là thấp
Một vài ví dụ đau thương được ghi nhận về nhiễm độc KLN
Nạn nhân bị nhiễm bệnh Minamata
Bệnh
Minamata là đại thảm họa môi trường của Nhật-như cái giá phải trả cho
việc quá nôn nóng phát triển kinh tế mà bỏ qua việc bảo vệ môi trường.
Từ
năm 1932-1968, công ty Chisso (Nhật) sử dụng thủy ngân hữu cơ là chất
xúc tác để sản xuất acetaldehyde, axit acetic và các chất dẻo.
Methyl thủy ngân là chất kịch độc, độc đến nỗi chỉ vài giọt rơi vào da có thể dẫn đến tử vong ngay lập tức.
Trong quá trình sản xuất, methyl thủy ngân được sinh ra và đổ thẳng xuống vịnh Minamata mà không qua bất kì một sự xử lý nào.
Thủy
ngân phát tán trong môi trường nước, bám vào phù du và lắng xuống bùn.
Cá hấp thụ oxy trong nước qua mang cá, tích lũy thủy ngân trong cơ thể.
Khi ăn phải những con cá bị nhiễm độc đó dần dần, người ăn sẽ tích lũy lượng thủy ngân đáng kể trong cơ thể.
Khi đi vào trong cơ thể người, thủy ngân tấn công thẳng vào hệ thần kinh trung ương, hệ nội tiết, và các cơ.
Thủy ngân làm con người trở nên loạn trí, các khớp xương bị co rút, dẫn đến biến dạng cơ thể.
Người
mẹ nhiễm thủy ngân sẽ đẻ con ra quái thai, dị dạng hoặc bị nhiễm bệnh
Minamata bẩm sinh. Hậu quả là hơn 17 000 người dân phải gánh chịu căn
bệnh này suốt hơn 60 năm.
Tác
hại của việc khai thác KLN cho môi trường có thể biểu hiện trực quan
hơn ở chung quanh khu vực nhà máy khai thác KLN ở Baotou, Trung Quốc năm
2012 súc vật bị chết do nhiễm khí độc.
Ngay cả cây ăn trái cũng èo uột và trái có mùi hôi thối.
Nếu là NaCN thì sao?
Tuy
tính độc hại lâu dài của cyanua không tàn khốc như KLN, chất độc này có
thể phá hủy hệ thần kinh và bộ phận hô hấp, thay đổi hồng cầu.
Người
bị nhiễm độc rất khó thở và dễ bị chảy máu mũi. Những triệu chứng này
không phù hợp lắm với triệu chứng tìm thấy ở những người bị ngộ độc do
ăn cá nhiễm độc báo chí đã đưa thời gian gần đây.
Nếu là KLN thì hệ quả lớn hơn nhiều
Xin nhắc lại tất cả hải sản từ vùng ô nhiễm có xác suất hấp thụ độc tố rất cao đặc biệt là những loại sinh vật sống sát đáy.
Những
độc tố này tồn dư, tích luỹ qua chuỗi thức ăn. Do cơ thể con người
không có khả năng thải KLN hiệu quả, nó sẽ tích lũy dần dần và gây tác
hại lâu dài như nói trên.
Đã có nghiên cứu chỉ ra lượng nhiễm độc thuỷ ngân vào cơ thể người từ việc ăn cá lên đến 95%.
Ngay
cả lí do lần này không liên quan đến KLN thì việc chất độc tồn dư ở
những con cá chưa đủ liều lượng giết chêt cá là điều hoàn toàn có thể
xảy ra.
Người ngộ độc KLN qua đường tiêu hóa thường có triệu chứng bụng quặng đau, buồn nôn, tiêu chảy, nhức đầu và kiệt sức.
Bên
cạnh đó, như chúng tôi đã đưa ra trước đó bên cạnh sự nhiễm độc do hô
hấp và qua đường thức ăn thì chất độc có thể đi vào cơ thể qua da (niêm
mạc).
Do
vậy, trong thời gian này hạn chế việc tắm biển, thậm chí các bạn tham
gia điều tra nên có bảo hộ khi lặn sâu vào vùng nhiễm độc.
Cần phải cảnh báo càng sớm càng tốt
Chúng ta đề phòng trường hợp xấu nhất nhưng mong đợi vào tình huống khả quan nhất.
Nếu
chúng ta không cảnh báo kịp thời, hậu quả sẽ lan nhanh, sâu và rộng hơn
cho cộng đồng đến mức độ không còn khả năng kiểm soát được.
Như
ví dụ trên: vụ nhiễm độc Minamata cũng được phát hiện nhờ vào lời cảnh
báo của viện trưởng Hosokawa của bệnh viện Kumamoto khi nghi ngờ nhiêm
độc thủy ngân hữu cơ của các bệnh nhân.
Tại thời điểm đó, sự việc như này chưa hề có tiền lệ trước đó.
Chúng
ta đi sau nên học những bài học của người đi trước để tránh sai lầm.
Hơn nữa việc chúng ta được cảnh báo là để chúng ta biết và đề phòng chứ
không hề vì thế mà sợ hãi.
Độc tố gì?
Thời gian gần đây nhiều cơ quan chức năng đưa ra kết luận “nguyên nhân cá biển chết hàng loạt là do độc tố”.
Về
điều này, một người dân không có hiểu biết về khoa học cũng có thể kết
luận được, đặc biệt là những nạn nhân trúng độc phải cấp cứu do ăn đồ
biển ở khu có cá chết.
Có ba nguyên nhân cá biển chết hàng loạt:
1) báo hiệu sắp có thiên tai từ động đất hay núi lửa ở thềm lục địa (điều này xưa nay chưa bao giờ xảy ra ở Việt Nam),
2) có sự thay đổi lớn về số lượng vi sinh vật trong vùng nước (hiện tượng nước nở hoa, hay dịch bệnh);
3)
chất kịch độc do con người thải ra trong nước biển. Kết luận của cơ
quan chức năng chỉ khẳng định rằng chúng ta sẽ không có thiên tai.
Điều
90 triệu dân Việt cần biết từ cơ quan chức năng là xác định cá chết và
người dân bị ngộ độc là do hóa chất gì để cộng đồng khoa học có thể hổ
trợ tìm phương án giải quyết.
Kết luận
Có thể coi sự việc nghiêm trọng này là thảm họa khôn lường và lâu dài.
Với
sự nguy hiểm của chất độc chúng tôi cho rằng cần có một nghiên cứu toàn
diện với sự hỗ trợ của cộng đồng khoa học quốc tế như World Health
Organization (WHO) và nên khẩn cấp trong thời gian này.
Các
cơ quan luật pháp cũng như các luật sư cần thu thập thông tin đầy đủ để
có thể bắt buộc thủ phạm bồi thường thiệt hại cho dân về sức khỏe cũng
như thiệt hại kinh tế.
Người
dân ở vùng bị nhiễm, cần phải xét nghiệm mẫu nước sinh hoạt và sản xuất
nơi mình đang sống. Chúng tôi đã có bài viết hướng dẫn cách lấy mẫu và
gửi đi xét nghiệm để có kết quả chính xác.
Nếu các bạn cần tư vấn thêm về cách xử lý nước hoặc trao đổi về các kết quả nhận được có thể gửi email cho chúng tôi.
Nếu có điều kiện hãy dùng máy lọc để lọc nước trước khi dùng kể cả đó là nguồn nước sinh hoạt.
Đồng
thời chúng ta cũng nhanh chóng phổ biến đến người dân, để nhân dân an
tâm, có biện pháp đề phòng và cũng cần đề phòng các lực lượng mê tín dị
đoan lợi dụng hiện tượng này để tung tin đồn nhảm và trục lợi.
Hơn lúc nào hết người dân cần tự mình trang bị những kiến thức cần thiết để bảo vệ cho chính bản thân và gia đình.
*
Tiêu đề bài báo và một số tiêu đề phụ trong bài do Tòa soạn đặt. Bài
viết đầy đủ đã được đăng tải trước đó trên Vietnam Journal of Science.
Họp báo vụ cá chết hàng loạt ở Việt Nam
Tối 27/4, cuộc họp báo về nguyên nhân cá chết hàng loạt ở ven biển miền Trung Việt Nam được diễn ra tại trụ sở Bộ Tài Nguyên & Môi trường.
Tại đây, Bộ trưởng Trần Hồng Hà thông tin:
Cơ quan chức năng thống nhất nhận định có 2 nhóm nguyên nhân có thể gây ra hiện tượng cá chết hàng loạt.
Thứ nhất là do tác động của các độc tố hóa học thải ra từ hoạt động của con người trên đất liền và trên biển.
Thứ hai, do hiện tượng dị thường tự nhiên kết hợp với tác động của con người tạo nên hiện tượng tảo nở hoa của nước mà thế giới gọi là hiện tượng thủy triều đỏ.
Đến thời điểm hiện nay, qua kiểm tra và thu thập chứng cứ chưa có bằng chứng để kết luận về mối quan hệ liên quan của Formosa và các nhà máy đến vấn đề cá chết hàng loạt.
Qua số liệu quan trắc và đánh giá của các cơ quan nghiên cứu khoa học, cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, môi trường biển chưa phát hiện các thông số môi trường vượt quy chuẩn quy định.
Qua các kết quả đo, phân tích, chưa phát hiện các thông số môi trường vượt quy định.
Để xác định rõ nguyên nhân cụ thể về hiện tượng cá chết hàng loạt và có các giải pháp ứng phó về lâu dài với các thảm họa tương tự, cần tổ chức nghiên cứu làm rõ 2 nhóm nguyên nhân trên.
Tối 27/4, cuộc họp báo về nguyên nhân cá chết hàng loạt ở ven biển miền Trung Việt Nam được diễn ra tại trụ sở Bộ Tài Nguyên & Môi trường.
Tại đây, Bộ trưởng Trần Hồng Hà thông tin:
Cơ quan chức năng thống nhất nhận định có 2 nhóm nguyên nhân có thể gây ra hiện tượng cá chết hàng loạt.
Thứ nhất là do tác động của các độc tố hóa học thải ra từ hoạt động của con người trên đất liền và trên biển.
Thứ hai, do hiện tượng dị thường tự nhiên kết hợp với tác động của con người tạo nên hiện tượng tảo nở hoa của nước mà thế giới gọi là hiện tượng thủy triều đỏ.
Đến thời điểm hiện nay, qua kiểm tra và thu thập chứng cứ chưa có bằng chứng để kết luận về mối quan hệ liên quan của Formosa và các nhà máy đến vấn đề cá chết hàng loạt.
Qua số liệu quan trắc và đánh giá của các cơ quan nghiên cứu khoa học, cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, môi trường biển chưa phát hiện các thông số môi trường vượt quy chuẩn quy định.
Qua các kết quả đo, phân tích, chưa phát hiện các thông số môi trường vượt quy định.
Để xác định rõ nguyên nhân cụ thể về hiện tượng cá chết hàng loạt và có các giải pháp ứng phó về lâu dài với các thảm họa tương tự, cần tổ chức nghiên cứu làm rõ 2 nhóm nguyên nhân trên.