Trí Thức
là gì?
Ai là Trí thức?
Phạm Hồng-Lam
Tài liệu Tập San Định Hướng
Có những từ ngữ, những khái niệm nhiều người dùng
một cách đương nhiên. Chẳng ai cần quan tâm tới nội
dung í nghĩa của chúng, vì xem ra đã quá rõ. Nhưng thực
tế thì chẳng rõ gì cả.
„Trí
thức“ là một trong những từ ngữ hay khái niệm đó.
Gần đây, từ „Trí thức“ được nói tới nhiều. Mà
nội dung í nghĩa của nó thì lại rất tuỳ tiện. Sở dĩ
như vậy là vì „Trí thức“ thật ra là một cái bình
có hình tượng rất đẹp nhưng gần như rỗng ruột. Và
mỗi người cứ tuỳ í đổ vào đó những gì mình thích,
mình mong, mình nghĩ hay mình ngộ nhận. Thật ra Trí thức
là một mẫu sống khó đạt được, nên hiếm có ai dám
tự nhận mình là Trí thức. Trí thức thường chỉ là
một sự nhìn nhận, nghĩa là một đặc tính do người
khác gán cho.
Chúng tôi tâm sự tương đắc suốt hai buổi tối. Tôi đã ghi lại cuộc hạnh ngộ hôm đó đăng trên nguyệt san Độc Lập số tháng 12.1989 tại Đức, về sau được trích in lại trong cuốn „Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương“ (Cali, 1990). Ông kể về cuộc đời hơn 40 năm bị bầm dập trong nước và nói nhiều về thái độ và tư cách sống của một người có học trong chế độ cộng sản. Hôm chia tay, ông tặng tôi một cuốn sách với mấy dòng chữ:
„ A l’ ami … avec mes meilleurs souhaits!
Puisse-t-il conserver toujours son respect de l’honeur de
l’intellectuel, son amour de la patrie et son goût de recherches!“
(Tạm dịch : „Tặng anh bạn … với những lời
chúc tốt đẹp nhất của tôi. Ước gì anh luôn giữ được
lòng trọng danh dự của người trí thức, luôn giữ được
lòng yêu tổ quốc và sở thích nghiên cứu“.
Luật sư Tường nói tới danh dự của người Trí thức.
Theo ông, Trí thức là người có danh dự và biết bảo vệ
danh dự của mình (danh dự đó từ đâu mà có, lại là
một chuyện khác). Điều ông nói có dây mơ rễ má với
mẫu người Quân tử của Nho học: Uy vũ bất năng khuất.
Khi thanh bần không vơ vét tham nhũng như đồng chí „Pờ
Mu“ Huỳnh Ngọc Sỹ, khi có tiền có quyền không đổ
đốn như các bác khả kính Sầm Đức Xương và Nguyễn
Trường Tô, trước cường quyền không thèm nghĩ tới
chuyện quỳ hay đứng xin như Giám mục Đà Nẵng đề
nghị.
Giáo sư Nguyễn Khắc Dương, trong một bài nói chuyện
được giáo sư Trần Duy Nhiên ghi lại, nhận xét: Việt
Nam, hay rộng ra, Á Đông chỉ có Kẻ sĩ với lí tưởng
thành nhân, chứ không có Trí thức quan tâm tới việc tìm
kiếm chân lí khoa học như ở Âu châu. Tắt
lại, Kẻ sĩ là Hiền nhân (homme de bien), Trí thức là Bác
học (homme de science). Luật sư Tường nói tới cái Đức,
giáo sư Dương cái Tài của một loại người. Nhưng
suy tư của hai người vẫn còn ở trong truyền thống Nho
học.
Mới đây, 23 ông cộng sản già (còn gọi là „cán bộ
lão thành“) bên Trung Quốc kí tên vào một lá thư yêu
cầu Đảng cộng sản Tàu cho tự do báo chí. Cùng lúc,
bên Việt Nam 13 vị có bằng cấp cao trên mạng „Bô-xít“
cùng kí vào một lá thư yêu cầu Đảng việt cộng ngừng
khai thác Bô-xít. Truyền thông người Việt quốc gia tức
tốc ban cho các vị trong hai nhóm đó danh hiệu „Trí
thức“. Giám mục Nguyễn Thái Hợp mới đây cũng được
gọi là „Trí thức“, nhân việc ông ra văn thư yêu cầu
toà án Đà Nẵng hoãn xử vụ Cồn Dầu.
Mấy trường hợp trên đây cho thấy, hễ ai có chút bằng
cấp hoặc có một chút chức vị mà nói được một câu
hay làm được một việc gì hợp í mình, thì thiên hạ
gán ngay cho nhãn Trí thức. Để rồi dựa vào cái nhãn đó
mà thần phục, tung hê (Đấy mới là Trí thức!); hoặc
ngược lại, để vin vào đó mà thoá mạ, nếu những vị
kia nói năng hoặc hành động không đúng như mong chờ của
họ (Trí thức con mẹ gì!).
Cũng
vì cái quyến rũ và bở ăn của nhãn Trí thức, nên hiện
nay các đồng chí có của có quyền ở Việt Nam trâng
tráo đua nhau sắm bằng cấp. Khiêm tốn như đồng chí
Thủ tướng thì chút cử nhân nội hoá, máu mặt như đồng
chí trưởng Sở văn hoá Yên Bái (?) thì phải là tiến sĩ
ngoại mới hài lòng! Nhạc sĩ Tô Hải báo động, chưa
bao giờ giáo sư, tiến sĩ dẫy đầy trong các tổ chức
nhà nước như hiện nay. Xưa ra ngõ gặp anh hùng, nay ra
đường dẫm lên tiến sĩ!
Người ta sắm bằng cấp, ngoài việc để được mau mắn
và dễ dàng thăng quan tiến chức, quan trọng hơn là để
được ngồi vào bàn Trí thức. Là vì họ nghĩ rằng, Trí
thức đơn giản là người có bằng cấp. Tiếc rằng,
đây cũng là lối nghĩ của hầu hết người Việt hiện
nay. Các kiểu nói phổ cập như: Thì cùng một đám
Trí thức với nhau cả! Giới Trí thức trong nước...! Ông
đó là một Đại Trí thức (vì ông có nhiều bằng cao)!
V.v. cho thấy lối nghĩ phổ biến đó. Chỗ này, đúng ra
phải dùng chữ „Thì cùng một đám học thức“ hay
„Giới học thức trong nước“ hoặc nếu muốn nhấn
mạnh đó là những người có bằng cấp cao thì „giới
Khoa bảng trong nước“ thì đúng hơn.
Đó là một ngộ nhận hoặc hiểu sai quan trọng về khái
niệm „Trí thức“.
Trí thức, như đã nói, là một mẫu sống, chứ
không hẳn là người có bằng cấp. Yếu tố quyết định
nơi mẫu sống Trí thức là thái độ dấn thân cho một
mục tiêu (cao cả), chứ không phải miếng bằng.
Thế thì „Trí thức“ là gì? - Thưa là „Intellectuels“,
chứ không là gì khác!
Mà „Intellectuels“ xuất phát từ đâu, với í nghĩa gì ?
Nguồn gốc và phát triển của Trí thức
„Trí thức“ là chữ người Việt dùng để chuyển
nghĩa chữ „Intellectuels“ của Pháp. Nó không dùng để
dịch từ „Académiques/Akademiker“ (người xuất thân đại
học), „Cultivés/Gebildete“ (người có học, học thức),
hay „hauts diplômés/hoch Diplomierte“ (người bằng cấp
cao, khoa bảng). „Trí thức“ bước vào Việt Nam trong
thời gian giữa hai thế chiến với việc Pháp thay thế
nền Nho học bởi Tân học.
Tại Pháp trước năm 1894, là năm xẩy ra vụ án khiên
cưỡng đối với đại uý Alfred Dreyfus gốc người
Do-thái, từ ngữ Intellectuels cũng đã xuất hiện đây đó,
nhưng chẳng mang nghĩa gì đặc biệt. Việc toà án Paris
bất chấp luật pháp quy kết Dreyfus vào tội gián điệp
đã tạo ra nhiều giao động trong dư luận Pháp. Cái án
đó chỉ là giả tạo. Thật ra là vì Dreyfus và đồng bạn
quảng bá và kêu gọi Dân chủ. Cũng giống i như bản án
„trốn thuế“ của Điếu Cày Nguyễn Văn Hải hôm nay!
Đặc biệt sau khi nhà văn Émile Zola viết lên bản cáo
trạng („J´ accuse“, 1898) về vụ xử án kia thì xã hội
Pháp phân thành hai chiến tuyến. Phía theo và phía chống
Dreyfus kịch liệt tấn công nhau. Những cuộc sát phạt
sau đó không còn hạn chế trong vòng Paris nữa mà vượt
cả biên giới Pháp ra các nước Âu châu. Phe theo Dreyfus
từ đây dùng chữ „Intellectuels“ làm biểu tượng nhận
diện phe mình. Họ tự gọi mình là „Intellectuels“. Họ
tung lên khẩu hiệu đó trong mọi cuộc tranh luận, kẻ nó
lên cờ, viết lên báo. Họ ra „Manifeste des intellectuels“
(Tuyên Ngôn Của Các Trí Thức) để cổ xuý cho các mục
tiêu họ theo đuổi: „dân chủ“, nghe theo „lương tâm“,
chỉ tuân phục thứ „chân lí“ có nền tảng „khoa
học“. Họ còn tự nhận mình là đệ tử trung thành đấu
tranh cho các „nhân quyền“ đã được xướng lên từ
cuộc cách mạng 1789.
Tắt lại, „Trí thức“, thoạt kì thủy, đồng nghĩa
với tiến bộ, biết điều, chân chính, dân chủ, tự do.
Đối lại, phe lề phải theo nhà nước lúc đó ra sức
chửi đám „Trí thức“ là bọn „phản quốc“, bọn
„do-thái“, vô tài bất tướng“, „đĩ điếm“,
„không tim thiếu óc“, „vô bản năng“…
Như đã nói, cuộc tranh luận đã vượt ra ngoài biên giới
Pháp. Ở Pháp, dù phe lề phải đa số không ngừng đập
Trí thức, nhưng họ cũng không để „mất trí“ trong
cuộc tranh luận. Nghĩa là họ vẫn công nhận nét đẹp
đâu đó của „intellectuels“, khi họ vẫn tự nhận mình
mới là Trí thức thứ thiệt, chứ không phải như kiểu
của đám Dreyfus!
Đối lại, ở nước Đức bên cạnh, ít ra cho tới 1945,
chữ Intellectuels không bao giờ mang nghĩa tích cực. „Trí
thức“ ở đây mang nội dung hoàn toàn tiêu cực. Nó là
quan điểm nối dài của cánh lề phải bên Pháp. Năm
1903, trong cuộc đại hội Đảng Xã Hội Đức (SPD),
August Babel được cả hội trường hoan hô nhiệt liệt
khi ông phát biểu: Phải xét cho kĩ những người xin gia
nhập Đảng, „và nếu như đó là một tay có bằng
cấp hay một Trí thức thì ta phải xét kĩ gấp đôi hoặc
gấp ba"! Và để tránh khái niệm xấu đó, người
Đức lúc đó đã tạo ra một từ thay thế: „Geistiger“
(người Trí tuệ, kẻ có đầu óc): Người Trí tuệ là
kẻ làm cách mạng thực sự, còn Trí thức chỉ là những
tay ba láp!
Những nét xấu đó của Trí thức dù sao dưới thời Cộng
hoà Weimar ở Đức (1918-1933) cũng chỉ là những lập luận
mang tính tuyên truyền. Sang thời Quốc Xã (1933-1945), ngôn
ngữ tuyên truyền kia biến thành chính sách của đảng
cầm quyền. Dưới con mắt và trong chủ trương của Quốc
xã, Trí thức chỉ là bọn „vô cảm“, „do-thái“, „ảo
tưởng“, „bất tài vô trí“, đầu óc bị nhiễm độc
vì ăn phải bã dân chủ và chủ hoà của báo chí do-thái.
Hitler than khóc: Rất tiếc là chúng ta phải cần Trí thức,
chứ nếu không thì nay mai chúng có thể bị người ta
diệt hết mất (còn đâu mà dùng)! Tắt lại, theo Quốc
xã, Trí thức không phải là thứ người Đức (undeutsch).
Quốc xã dùng khái niệm này như một dụng cụ để diệt
đối thủ, diệt những ai mà chúng không thích.
Còn sau thế chiến? Các chính thể dân chủ tại Đức sau
đó đã cố gắng tìm lại í nghĩa cho các khái niệm đã
bị Quốc xã xuyên tạc. Nhưng số phận Intellectuels cũng
không sáng hơn. Franz Joseph Strauß, thủ hiến tiểu bang và
là con sư tử của Bayern, đã mỉa mai: Trí thức là đám
chuột và ruồi nhặng (Ratten und Schmeißfliegen)!
Ngày nay, „Trí thức“ ở Đức tuy không còn tính chất
tiêu cực, nhưng người ta cũng ít bàn tới một khái niệm
được coi là „ngoại lai“ này.
Trí thức trong thế giới cộng sản
Chuyện kể: Đảng (ta) chỉ thị cho nhà nước (ta) xây
một trung tâm sinh hoạt. Căn lầu 4 tầng „hoành tráng“
không kém gì lâu đài „Con ngỗng trắng“ (Neuschwanstein,
nơi mỗi năm có nhiều triệu du khách tới tham quan) do ông
vua cuối cùng của bang Bayern xây trên đỉnh núi tại miền
Nam Đức xây trong thế kỉ 19. Tầng dưới căn lầu được
dành cho các cháu nhi đồng, tầng kế cho các cán bộ,
tầng ba cho các trí thức văn nghệ sĩ nhà nước – dưới
sự lãnh đạo của đồng chí Hữu Ước, và tầng trên
cùng cho các lãnh đạo Đảng và nhà nước. Nhưng, cũng
như lâu đài Ngỗng Trắng ở Đức, trung tâm sinh hoạt
kia không có một cầu tiêu nào cả. Khi được Quốc hội
(ta) chất vấn thì khâu thiết kế báo cáo như sau: Thưa
các đồng chí, tầng trệt không cần cầu tiêu, vì các
cháu đã có bô đựng; tầng của cán bộ cũng không cần,
vì bọn này suốt ngày lo đi cải thiện ở đâu, chứ có
bao giờ có mặt ở sở đâu; tầng cho trí thức văn nghệ
sĩ cũng không cần, vì bọn này khi cần chúng ỉa lên mặt
nhau chứ đâu vào nhà xí; và tầng lãnh đạo lại càng
không cần, vì đã có đám bưng bô đứng chực sẵn.
Dành cho trí thức văn nghệ sĩ (dù là trí thức của
Đảng) cả một lầu là chuyện rất mới, một xuyên tạc
giáo lí chính thống. Biến cố này chỉ mới xẩy ra sau
ngày Đảng (ta) „đổi mới“, nghĩa là sau khi chủ nghĩa
cộng sản tự nguồn cội đã ngủm cù đeo.
Giáo
lí cộng sản coi Trí thức là thành phần có học, thành
phần „lao động trí óc“ (dĩ nhiên trong đó không có
anh luật sư Lênin, kẻ được mệnh danh là „người lao
động trí óc cho cách mạng“), thành phần không sản
xuất, chây lười lao động, dễ chao đảo, quen thoả
hiệp, chủ bại, tiểu tư sản phản động, nguỵ và đủ
mọi thứ biếm ngữ đê tiện khác, tùy sáng kiến của
các đảng cộng sản. Nói tóm lại Trí thức là một cái
bãi – hay nói đúng bài bản theo Lênin, là một giai cấp
„Giai cấp Trí thức“, nơi đó dùng để đổ tất cả
những thứ rác rưởi bị xem là phản động chống lại
Đảng, chống lại giai cấp vô sản, chống nhà nước của
Đảng cộng sản!
Cái nhìn tiêu cực kia về Trí thức được khởi đi từ
Lênin. Ông này học được luận điệu của đám lề phải
khi đang phải lang thang tị nạn ở Âu châu. Và ông đã
biến luận điệu đó thành giáo lí cho phù hợp với giáo
thuyết đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản. Thật
ra đó cũng chỉ là một thứ bình phong lí luận. Cộng
sản là một thứ tôn giáo với chủ trương cướp giữ
quyền lực tuyệt đối. Họ cần tín đồ cuồng tín chứ
không cần giáo sĩ (những người học thức, những người
có chút suy nghĩ độc lập), đặc biệt là những giáo sĩ
không xuất phát từ lò của họ. Đây là thành phần mà
họ coi là lừng khừng, không dễ khuất phục trước
những bạo hành tuỳ tiện của chúng; là thành phần mà
họ đánh giá là vì khả năng hiểu biết dễ ảnh hưởng
lên quần chúng, dễ chống lại chúng, cần phải đề
phòng và ngăn diệt kịp thời.
Chính sách truy diệt kia được cụ thể hoá ở Việt Nam
với khẩu hiệu „Trí, phú, địa hào, đào tận gốc
trốc tận rễ“; ở Cam-bốt qua Pôn-pốt với trên
dưới hai triệu nhân mạng, đặc biệt là những người
biết chữ; ở Nga với 25 ngàn trí thức Ba-lan bị Stalin
vùi chung ở cánh rừng Katyn; ở Tàu với hàng triệu nạn
nhân đặc biệt trong cuộc „cách mạng văn hoá“, là vì
theo Mao, Trí thức không bằng cục phân, phân còn dùng
được để bón ruộng! Một vài thí du tiêu biểu.
Tóm lại, đối với thành phần được/bị gọi là Trí
thức, Cộng sản và Quốc xã có cùng một chính sách như
nhau, dù ngôn từ khẩu hiệu có hơi khác.
Trí thức trong quan niệm của J.P. Sartre
Như đã nói, nước Pháp là nơi đẻ ra „Trí thức“, và
trong cuộc tranh luận dai dẳng về từ ngữ này, người
Pháp đã không nản chí như người Đức và đã không mất
trí như Quốc xã và Cộng sản trong nỗ lực kiếm tìm
nội dung cho khái niệm này.
Một người Pháp được biết nhiều trong nỗ lực này là
triết gia Jean Paul Sartre.
Sartre bảo, Trí thức là „sản phẩm quái gỡ của
những xã hội quái lạ“ (monstrueux produit des sociétés
monstrueuses). Như vậy theo ông, Trí thức là những Quái
vật (monstres), vì chúng chẳng giống ai. Trí thức có thể
xuất hiện tuỳ vào hoàn cảnh đặc biệt của từng xã
hội. Họ là con đẻ của từng xã hội, nhưng không nhất
thiết là sản phẩm của xã hội đó. Tại sao? Vì họ
vẫn là một thành phần của „quần chúng nhân dân“,
nhưng đồng thời lại không là quần chúng nhân dân; họ
có thể xuất thân từ đám „đại gia“ nhưng đồng
thời tách khỏi đám đại gia thất đức. Họ là thành
phần ngô chẳng ra ngô khoai chẳng ra khoai. Không ai yêu
cầu hay ép họ ra nông nỗi như thế. Mà tự họ muốn
thế, họ tự cảm thấy bị thôi thúc làm quái vật. Như
vậy Quái vật, trước hết, trong hai tính cách: Trí thức
là một người của quần chúng, ở giữa quần chúng,
nhưng lại không giống quần chúng, vượt ra khỏi quần
chúng; thứ đến, Trí thức là Quái vật, vì chẳng ai
hiểu được họ: Trong lúc họ làm những điều mà họ
cho là phải làm, thì vợ con đồng nghiệp lại chửi họ
là thứ „ăn cơm nhà vác ngà voi“, thứ làm „chuyện
ruồi bu“, là „những đứa ngu“ tự chuốc hoạ vào
thân!
Việc lên tiếng bênh vực 6 tín hữu công giáo ở Cồn
Dầu của luật gia Cù Huy Hà Vũ bị / được coi là hành
động của một con quái vật. Trong lúc những vị lãnh
đạo tinh thần trực tiếp của họ khôn ngoan im lặng
hoặc khôn khéo bán cái (Giáo quyền nằm trong tay Chính
quyền), thì ông luật gia kia là thằng ngu (!), chẳng mất
ông mất cha gì lại tự chuốc hoạ vào thân, làm khổ
cho Đảng và công an (ta) phải nhọc sức tốn của bày
mưu tác kế để bắt ông. Ông nhà văn Trần Mạnh Hảo
cũng là một quái vật, khi đang không ngớ ngẩn nói ra
những sự thật giữa một đám kên kên đểu trá đang
chờ lệnh để xé thịt.
Song nếu gặp may, những Quái vật kia sẽ được phong
thánh, trở thành những Quái vật thánh (Sartre: monstres
sacrés), không ai còn dám đụng đến, như kiểu tổng
thống De Gaulle đã trả lời khi cơ quan an ninh xin phép bắt
tên triết gia chuyên khuấy rối: Không thể bắt một
người như Sartre được! Họ có thể lại được giải
Nobel, như ông Lưu Hiểu Ba vừa rồi, để may ra thoát tù,
thoát chết. (Trước đây Sartre cũng được trao giải,
nhưng ông đã không nhận, với lập luận rằng, nếu
nhận, ông sẽ được/bị đưa vào ngồi chiếu trên,
không còn được ngồi bệt xuống đất với quần chúng
nữa). Trái lại, nếu không may, những Quái vật đó sẽ
bị bịt miệng, bị „quần chúng tự phát“ đánh gẫy
xương vỡ đầu hay bị tù vì tội „lợi dụng dân chủ“,
„âm mưu lật đổ chính quyền xã hội chủ nghĩa“ hoặc
kẹt quá thì „tội trốn thuế“, „tội ở khách sạn
… với bao cao su đã qua sử dụng (!)“, thậm chí có khi
được xe mật vụ cộng sản tông đưa về gặp cụ Mác
cụ Mao.
Trên đây là vài điểm khác người của Trí thức.
Nhưng Trí thức từ đâu ra và khi nào thì được gọi là
Trí thức?
Để trả lời, trước hết phải hiểu Sartre quan niệm về
con người thế nào đã. Có thể tóm tắt tư tưởng của
ông như sau: Con người là một „dự án“ sáng tạo luôn
hướng tới một cái gì còn trong tương lai, chưa có.
Chẳng hạn: Người thợ được trả lương và anh ta/ bà
ta luôn tìm cách để làm sao có được lương cao hơn;
người nông dân cố gắng lam lũ để tương lai đỡ cực;
người khoa học luôn đi tìm những khám phá mới; người
dân trong một chính quyền áp bức luôn tìm cách để có
được tự do... Mà muốn đạt được cái chưa có đó,
con người phải có khả năng vượt ra khỏi tình trạng
hiện tại để dùng đầu óc đưa mình hướng tới những
mục tiêu nhắm tới. Và, dưới ánh sáng của cái mục
tiêu nhắm tới đó, họ „phủ định“ hiện tại (không
thể sống mãi như thế này được!), họ đánh giá hiện
tại (một xã hội bóc lột!), đồng thời nghĩ ra phương
cách làm sao để thoát ra tình trạng đó. Theo Sartre, con
người làm việc này (phủ định, đánh giá, tìm phương
cách giải quyết) trong suốt mọi giây mọi phút cuộc đời
mình, không ngưng nghỉ. Hành động liên tục phản kháng
hiện tại và tìm cách đạt tới cái chưa có đó là minh
chứng cụ thể nhất cho sự hiện hữu của con người.
Ông nói: „Cách học hỏi duy nhất là thắc mắc, là
đặt lại vấn đề. Đó cũng là cách duy nhất để người
trở thành người“.
Trên nguyên tắc, theo Sartre, mọi người, bất luận ai,
đều có khả năng nghi ngờ thực tại và tự đặt vấn
đề để đi tới. Tuy nhiên, không phải ai cũng có khả
năng nghĩ ra được phương cách để giúp mình thực hiện
ước vọng. Ở đây, sự phân công xã hội đã tạo ra
một nhóm người có khả năng nhìn ra được những phương
cách để đạt mục tiêu, đó là thành phần mà ông gọi
là những „Kĩ thuật gia về kiến thức thực tế“,
mà nay ta có thể nói là thành phần tốt nghiệp đại
học, gồm các kĩ sư, các nhà khoa học, bác sĩ, luật sư,
nhà giáo… Cứ theo lập luận của Sartre thì sự phân
công xã hội đã tạo ra ba hạng người: thành phần lãnh
đạo, tầng lớp kĩ thuật gia và công nhân. Thành phần
lãnh đạo đặt ra mục tiêu (chẳng hạn cần điện
nguyên tử), các kĩ thuật gia nghĩ ra các kế hoạch xây
dựng nhà máy và tầng lớp công nhân thực hiện các kế
hoạch đó. Trí thức xuất thân từ thành phần Kĩ thuật
gia, chứ không từ đâu khác. Ở điểm này, lí luận của
Sartre hơi mâu thuẫn. Một mặt ông bảo Trí thức xuất
thân từ thành phần Kĩ thuật gia – là thành phần có
học, nhưng mặt khác, ông vẫn giữ quan điểm là ai ai
cũng có thể trở thành Trí thức. Nhưng Kĩ thuật gia chưa
hẳn là Trí thức. Trí thức chỉ xuất hiện, khi nhà
kĩ thuật í thức được những mâu thuẫn (xã hội) và
dám đứng dậy đặt vấn đề để thoát ra khỏi tình
trạng mâu thuẫn đó, chứ không nhắm mắt làm ngơ, chấp
nhận thoả hiệp hay nín thở qua sông.
Như vậy, theo Sartre, Trí thức là những tác nhân chính
tạo biến chuyển, đưa xã hội và nhân quần đi tới;
vai trò của họ là „chỉ ra, chứng minh, lột mặt nạ
và dùng chất cường toan phê phán phá đổ đi những
huyền thoại lẫn linh vật“. Tắt lại: „Trí thức
là một số đông người nhờ công việc tri thức của
mình mà đạt được một sự nổi tiếng nào đó, và họ
đã lạm dụng sự nổi tiếng này để bước ra khỏi
lãnh vực chuyên môn của mình để phê phán xã hội và
trật tự đang có nhân danh một nhân sinh quan mang tính
toàn cầu và giáo điều
“.
“.
(Ở đây chỉ bàn tới lí luận của Sartre về Trí thức,
không bàn đến con người với một số hành vi phản Trí
thức cụ thể của Sartre)
Đi tìm một nội dung thích hợp
Sartre vừa đưa ra mẫu Trí thức như thế thì đùng một
cái xẩy ra biến cố 68 ở Pháp. Và biến cố này đã làm
đảo lộn nhận thức của ông. Ông hiểu ra, loại Trí
thức kiểu tổng quát, toàn diện – mà ông gọi là „Trí
thức cũ“ - như ông nghĩ khó mà có. Cuộc biến động
68 tại Pháp đã như cơn sóng thần làm thay đổi tận căn
xã hội Pháp trên nhiều lãnh vực, nhưng biến động đó
lại không do một ông bà được gọi là Trí thức (nhà
văn, nhà thơ, triết gia, khoa học gia...) nào tạo ra cả.
Sartre hiểu ra, không thể có loại Trí thức „cũ“,
nghĩa là không thể có được hạng người thông suốt
được mọi mặt của xã hội và cuộc sống, để từ đó
phê phán, đưa ra lời giải đúng đắn cho mọi vấn đề.
Vì thế, giờ đây ông nói tới một loại Trí thức
„mới“. Theo ông, đây là những chuyên viên, những
người có thẩm quyền trong những lãnh vực chuyên môn.
Xã hội hiện đại và hậu hiện đại ngày nay càng ngày
càng chuyên môn hoá rất cao, không thể có được loại
người thông biết mọi chuyện được. Mà đã là chuyên
viên thì không thể ai ai cũng là Trí thức được. Một
thay đổi nữa nơi Sartre do ảnh hưởng biến cố 68 là
quan niệm Trí thức phải gần dân, luôn phải trong dân,
theo dân. Trí thức „cũ“ có thể gần dân hoặc xa dân,
có thể ngồi trong tháp ngà mà lên tiếng. Nhưng Trí thức
„mới“ thì phải dứt khoát đội nón xuống đường
cùng với dân oan đòi lại đất đai nhà cửa, cùng với
sinh viên hô lên Hoàng sa Trường Sa là của Việt Nam!
Hẳn nhiên, cả hai quan niệm Trí thức „cũ“ và „mới“
của Sartre đều bất cập. Không thể có một hạng người
có tri thức toàn diện, mà cũng chẳng có hạng Trí thức
luôn phải ở trong dân, luôn phải bám sát theo dân thì
mới có thể đạt đích được.
Nhưng, dựa trên quan điểm của Sartre và quan điểm chung,
có hai yếu tố nổi bật nơi người Trí thức: Tri thức
(Connaissance/Wissen) và Đức hạnh (Vertu/Tugend). Ở Á Đông
còn gọi là Tài và Đức. Tri thức /Tài trước đây gần
như chỉ có được thông qua trường lớp. Nó dính dáng
nhiều với tầng lớp xuất thân đại học và khoa bảng,
nhưng hẳn nhiên không chỉ hạn chế trong hạng người
đó.
Xã hội hậu hiện đại hiện nay với cuộc cách mạng
truyền thông và sự phổ cập nền giáo dục đang dần
dần lấy đi nền tảng bằng cấp của loại Trí thức cổ
điển. Trước đây chỉ có thứ truyền thông chữ viết,
nên các cuộc tranh luận chỉ giới hạn trong một thành
phần ưu tuyển và có học nào đó, và xem ra chì có giới
học cao hiểu rộng mới là tác viên tạo ra những thay
đổi xã hội qua việc lên tiếng phản bác thực tại và
mở lối tương lai. Nay tác viên tạo chuyển động xã hội
có thể là các tổ chức dân sự (Nhân quyền quốc tế,
Attack, Tổ chứ Xanh...) hoặc màn ảnh truyền hình, đặc
biệt mạng lưới vi tính (Internet). Chữ viết chuyển sang
hình ảnh. Độc quyền của một nhóm chuyển sang tập thể
mọi giới. Chỉ cần tung lên tấm ảnh linh mục Lý bị
bịt miệng cũng đủ làm chùn tay cả một chế độ. Một
vài tin tức hay tấm hình về sóng thần hoặc lũ lụt đủ
làm thức tỉnh lương tâm nhân loại. Chỉ cần một nhấn
nút trên mạng Facebook là hàng ngàn sinh viên học sinh Iran
xuống đường chống lại gian lận bầu cử. Sự phổ
thông hoá nền giáo dục đại học (ở phương Tây) làm
cho yếu tố bằng cấp nơi Trí thức càng thêm mờ nhạt.
Kiến thức ngày nay không còn là độc quyền của trường
ốc nữa. Internet cũng có thể cung cấp cho một người
những kiến thức tổng quát và chuyên môn không thua gì
nơi đại học.
Vì thế giới hàn lâm hiện nay có khuynh hướng nhấn mạnh
tới Đức hạnh, không còn chú í nhiều tới Tri thức.
Nhưng dấn thân vì lí do gì và ở lãnh lực nào, thì lại
là chuyện không đơn giản. Ở Đức, người ta nói đến
hai mẫu Trí thức: Lí thuyết (Theoretiker) và Đức hạnh
(Tugend). Người Lí thuyết nhìn thấy sự kiện; người
Đức hạnh nhìn thấy con người. Qua vụ Cồn Dầu, Trí
thức lí thuyết thấy „một cuộc đấu tranh chống lại
cướp đất, chống lại bạo quyền, thấy sự sai trái
của luật đất đai“; Trí thức đức hạnh trái lại
thấy „nỗi khổ nhục và đau thương của những người
dân bị đàn áp, bị cướp mất nhà cửa ruộng vườn“.
Làm sao để nối hai cái nhìn đó lại? Làm sao để có
được một lí do và lãnh vực dấn thân phổ quát
mà không sợ sai, sợ lầm do ảnh hưởng bởi hoàn cảnh,
thời đại hay í thức hệ? Và suy tư đã đưa người ta
đến niềm tin vào í niệm Nhân phẩm. Theo đó,
người Trí thức, bất luận với tên gọi nào, là kẻ
sẵn sàng bất chấp nguy hiểm bản thân dám dấn thân lên
tiếng, khi thấy phẩm giá con người - bất luận hạng
người nào - bị xúc phạm, chà đạp, khinh rẻ. Bởi vì
chung quy lại, mọi chế độ chính trị chân chính, mọi
luật pháp chân chính, mọi tôn giáo chân chính, kì cùng
ra, đều hướng tới một mục tiêu bản lề: Bảo vệ và
phát huy nhân phẩm, thăng hoa con người.
Như vậy, chúng ta có thể kết luận với những vế như
sau. Được gọi là Trí thức, khi người đó:
1) nhờ sinh hoạt tri thức của mình mà đạt được một
nổi tiếng nào đó
2) sẵn sàng chấp nhận nguy hiểm bản thân để lên tiếng
phê bình, phản kháng lại thực tại mâu thuẫn xã hội
mà mình nhận ra, nhưng
3) tiếng nói của họ phải vượt lên trên ảnh hưởng
phe phái chính trị, cũng như
4) vượt lên trên tầm nhìn hạn chế của một chuyên
viên, và
5) luôn với một mục tiêu rõ rệt trước mắt: đấu
tranh cho phẩm giá con người.
Augsburg, ngày 15.11.2010
Tham khảo:
- Károly Méhes, Die Intellektuellen und Europa – ein
intelligentes Europa.
- Dietz Bering, „Intellektueller“: Schimpfwort –
Diskursbegriff – Grabmal?
- Barbara Winken, Die Intellektuelle: gestern, heute, morgen.
- Dorothea Wildenburg, Sartres „heilige Monster“.
Tất cả đăng trong Aus Politik und Zeitgeschichte, số
40/2010. Các trích dẫn đều từ các tài liệu thượng
dẫn.