Đề cử Giải Nobel Văn Học 2017

Kết quả hình ảnh cho nobel văn học

Đề cử Giải Nobel Văn Học 2017

Tác phẩm Chiến Tranh & Hòa Bình Việt Nam của nhà văn Nguyễn Quang được một Tổ chức Văn Hóa ở Âu Châu đề cử Giải Nobel Văn Học 2017, dù được giải hay không, đây cũng là niềm vinh dự của người Việt Nam, nhất là đối với người Việt Tự Do, vì một tác phẩm để đủ điều kiện ứng viên phải đúng theo di chúc của Alfred Nobel “tác phẩm xuất sắc theo khuynh hướng lý tưởng duy tâm, nguyên văn: "den som inom litteraturen har producerat det utmärktaste i idealisk riktning".

Tác phẩm gồm 2 tập với 154 chương, tất cả 1000 trang.

Sau đây là lời giới thiệu tác phẩm:

Đất nước Việt Nam trải qua nhiều cuộc chiến tranh, chết chóc. Sự sống và cái chết như quyện vào nhau. Những ai may mắn còn sống sót, người nào còn lành lặn tiếp tục làm việc, ai muốn viết văn làm thơ đều có cảm xúc về sự thật đã từng xảy ra để viết, cũng như làm nhân chứng cho sự thật. Tác phẩm Chiến tranh và Hòa bình Việt Nam, văn vẻ cùng nhân vật không có hư cấu, nhiều khi thô thiển đến ngỡ ngàng như chính những biến cố trên dòng đời mà nạn nhân của chiến tranh đau thương là những người chung quanh đã lãnh nhận những quả bom, trái mìn… bao gia đình tan nát, những cuộc tình chia ly do những viên đạn thật bất ngờ đến vô tình.

Các hồ sơ trưng dẫn trước đây rất đáng ghi nhận, cho dù phần lớn các thông tin nhằm phục vụ cho các thế lực chính trị, không từ cái tâm, bản mặt thật của những gì đang thể hiện tính thể của các nạn nhân trong chiến tranh. Có thể nói được rằng, thực trạng tang thương nhưng trong cách nhìn ngoại vi, ngày nay nhờ khoa lịch sử đối chiếu, có thể nhận chân những gì gọi là sử sách vào giai đoạn đầy nhiễu nhương của một nước Việt Nam nhỏ bé, nhưng dư hận thù, ganh ghét, đố kỵ… mà lại thiếu, thiếu quá nhiều tình thương, lượng bao dung, và tinh thần tự trọng, lại chỉ dựa vào số tài liệu, sách báo, lời phê bình chỉ trích từ Hoa Thịnh Đốn, Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh. Điều đáng chua xót là những sách báo, tài liệu, phê bình chỉ trích được họ dựa vào đó để viết, để nói, để trưng dẫn, cũng được lựa chọn theo khẩu vị, hơn là vô tư, chính xác, đúng sự thật và truyện dài theo dòng lịch sử này đặc biệt ghi lại tâm lý thần kinh người dân trong chiến tranh và hòa bình không chỉ tại Việt Nam nhưng là tâm trạng bi thương chung của các dân tộc chẳng may rơi vào hoàn cảnh sinh hận thù đâm chém giết chóc lẫn nhau đến không nhận ra nhau là người, đặc biệt khi cuộc chiến kết thúc sự trả thù của kẻ chiến thắng càng tàn bạo hơn cả trong chiến tranh. Đó là điểm đặc thù của cuộc chiến Việt Nam.

Bà Lê thị Soi, như nhiều người cùng cảnh ngộ thuộc miền Trung Việt Nam, bà không còn muốn đi tránh đạn nữa, khi vùng này nay phe bên này, mai mốt phe bên kia, nhất là những lúc giao tranh. Một ngày kia bà chết vì tuổi già, chiếc quan tài bằng tre nứa đơn sơ đặt trước nhà bị máy bay ném bom, cái xác cùng áo quan văng ra tung tóe. Dân làng chạy đến vào lúc họ tin là không có đánh nhau và lấp vội người đàn bà xấu số không chết trong chiến tranh nhưng tan xác khi chuẩn bị được nằm yên vĩnh viễn. Các con cái của bà vẫn bình chân như vại, xem mọi việc đang diễn ra như không có gì xảy ra trên đất nước này: chiến tranh nó là như vậy. Với người dân Việt thấy đánh nhau biết là chiến tranh và trở lại với chính mình có chút yên bình đó là hòa bình.


***

Nội dung tác phẩm chia ra làm ba phần:
Phần 1 : Nạn nhân chiến tranh Việt Nam
Phần 2 : Nạn nhân chế độ lao tù Cộng Sản VN
Phần 3: Nạn nhân của các quan tham thời hòa bình.

***

Thiện Nam – tên của nhân vật chào đời vào thời điểm khoa sinh học phát minh ra yếu tố di truyền và công nghệ gene phát triển đến hoàn thiện, cũng như bắt đầu của thời nhân bản vô tính. Thiện Nam lớn lên giữa Trời và Đất như con cái của mọi gia đình, nhưng THIÊN THỜI, ĐỊA LỢI mà NHÂN chẳng HÒA

Sự lưỡng phân hay đa chiều trong mỗi cá nhân đã giúp con người như sự cảnh tỉnh mỗi khi làm điều ác hay hưng phấn khi hành thiện và cái gốc sâu xa nơi mỗi cá nhân khi được Đấng Tạo Hóa dựng nên đều có cơ hội tự đứng vững.

Nhìn lại cuộc chiến – nghĩa là nhìn lại sự giết người, sử gia đi đếm xác người, tổng kết những đạo luật, sắc luật, sắc lệnh cùng bao nghị quyết, quyết định trong chiến tranh để con người hợp thức hóa việc giết đồng loại. Ở đây trên ba triệu xác người Việt với nhau, trên năm mươi ngàn binh lính Mỹ và Đồng minh. Khi cuộc chiến chấm dứt, gọi là thời Hòa Bình với hơn một triệu người vì sợ hãi mà chạy trốn kẻ chiến thắng thiết lập thứ bạo quyền mới.

Vùng đất mới có thật sự là nơi thể hiện của một nền văn minh mới đang chuyển tiếp hay vẫn còn rải rác đâu đây sự nhân danh để tiếm đoạt của con người ‘mượn hoa cúng Phật để hòng kiếm ăn’. Chiến tranh đã để lại mối quan hệ thân tộc mới, trong gia đình không còn là cha hay mẹ, chỉ còn một hay không còn ai cả, vốn đã tạo nên tổ ấm này và ngay các từ cha, mẹ cũng sẽ thay đổi…vì sự sợ hãi khi gọi trực diện như thế, thần chết sẽ gọi người chúng ta yêu thương, kính trọng. Một nền tảng đạo đức mới được hình thành như đang và sẽ xảy ra trong thời nhân bản vô tính, mỗi chủ thể vẫn là nền tảng của xã hội, Cogito ero sum, I think so I am, sử gia nhìn lại từ quá khứ đến hiện tại chắc chắn rằng con người chỉ sáng tạo khi có tự do và mỗi cá nhân trong cuộc hành trình cùng nhân loại trong nền văn minh mới vẫn luôn phải trả giá rất cao mới có được Tự Do để sáng tạo.

Triết lý là sự đi đường đến Chân Thiện Mỹ của từng thời đại và để có được nhân loại phải trải qua bao thử thách, hy sinh, đau thương mất mát. Trong hơn nửa thế kỷ hậu bán thế kỷ hai mươi, Việt Nam cùng nhiều dân tộc khác có chiến tranh và hòa bình, nhất là thời hòa bình càng hỗn loạn hơn như bên bờ vực chiến tranh, khiến tâm lý thần kinh của người dân Việt Nam biến đổi từ nhẹ đến điên loạn, đó là Cái Giá Của Tự Do. Chính nó là yếu tính, bản chất của Chiến Tranh và Hòa Bình vậy.

Mỗi dân tộc có giá trị tinh thần riêng, người Việt đọc tác phẩm này, hy vọng sẽ không còn cảnh người Việt giết người Việt, hận thù rồi tìm cách trả thù khi nhận ra nhau Cội Nguồn là người Việt Nam.

Giới thiệu phần 2 của tác phẩm:
Gia tài của Cộng sản để lại, đó là một giỏ rắn Trung Hoa, một xã hội hỗn mang từ thượng tầng kiến trúc đến hạ tầng cơ cấu, những con rắn Hán gian, Việt gian ra vào hang trên khắp cả nước. Những con rắn nuốt chửng lẫn nhau và phun nọc độc lên dân tộc đã cưu mang nó.

Những nẻo đường đến địa ngục Việt Nam.

Câu chuyện triết học –The story of philosophy, của Ông Bà Will Durant khi giới thiệu vế Emmanuel Kant có viết: muốn trở thành triết gia phải là một Kant tử. Với một nhà văn cũng vậy, không phải thấy gì rồi vội viết ngay, song phải quan sát kiểm nghiệm để từ những hiểu biết thường nghiệm đến những giá trị phổ quát mới viết ra.

Địa ngục Việt Nam dễ vào và dễ đọc, nó rất ý vị vì bên kia núi hãy còn nhiều núi, câu chuyện không chỉ đơn thuần là những sự kiện được ghi chép lại như chuyện kể về ‘con người ăn cỏ, uống nước mương rãnh’, nằm trong nhà kỷ luật ‘vừa ăn vừa đi cầu trong một cái bát…’, nhai hết chăn màn và nhai hoài thấy ngọt. Nhưng quả là hình ảnh của một chế độ bạo tàn hiện lên bên sau những ngôn từ đó. Không phải những gì nhà văn viết để cho chúng ta xem, nhưng chính những gì được mời gọi chúng ta cùng phán đoán, quyết định hành trình, dấn thân và hy vọng. Từ địa ngục để thấy lại thiên đường đã mất, đó là hạnh phúc gia đình, những giá trị của bao chân lý cổ xưa, tiện nghi của nền văn minh hiện đại… mà bỗng chốc trong cơn nổi loạn đã phá tan mọi thứ và nhân loại sẽ còn sai lầm và nhầm lẫn nữa trong cái giả của thứ phê bình lý trí thuần tuý dẫn đến hệ lụy hiểu lầm nên sử dụng nhầm trên bình diện lý trí thực hành. Chủ nghĩa Mác là học thuyết phê phán sự vong thân của tư bản, nhưng dẫn đến bao nguỵ tín, tha hoá… mà nhân loại trong đó có Việt Nam lãnh hậu quả.

Mở đầu câu chuyện địa ngục với chương ‘Về đâu’, nếu đọc thoáng qua chỉ là hình ảnh nhơ nhớp mất vệ sinh trong nhà kỷ luật, nhưng đi sâu hơn đó là một đoạn văn viết lại Sách Sáng Thế Ký từ Thiên Chúa dựng nên Trời và Đất trong bảy ngày đêm và ngày nay có sự miêu tả việc tái tạo tuần lễ đầu tiên dưới bàn tay của quỷ Satan.

Vốn văn ‘tải đạo’ nghĩa là mang theo sứ mệnh gồm những chân lý truyền thống -old verities, hầu mở đường cho nhân loại cùng đi về phía trước, nên đòi hỏi người viết phải có một tri thức nhất định, nếu không muốn nói theo Kant đó là một sự kiểm nghiệm để đạt đến tri thức tiên thiên –connaissance apriori, nếu không chúng ta chỉ viết về những chiếc đũa gãy trong hiện tượng khúc xạ nhưng thật sự không có cái que nào bị cong như mắt thường quan sát. Và cả sự thưởng ngoạn của độc giả sẽ như nước chảy bèo trôi, một thái độ dễ dãi với cả người cầm bút và tha nhân.

Các chương ‘Thế Gian Như Thị’ hay ‘Mẹ Không Cần Vàng’ nói lên tính thể của con người thể hiện trong cuộc sống nơi bước đường cùng với những nếp gấp, ngả nghiêng của các hữu thể tại thế mà mỗi cá nhân trong điều kiện bình thường sẽ không nghĩ rằng tôi hiện hữu và sẽ hành xử như vây: một vị trung tá trong trại tù đòi phải chia cơm bằng cân tiểu ly mới công bình bên cạnh nhiều con mắt dõi theo có hơn kém nhau hạt nào.

Chương ‘Ta Là Kẻ Cứu Người’gợi lên hình ảnh các tiên tri giả, nếu chúng ta có dịp tìm hiểu Kinh Thánh qua sách Khải Huyền sẽ thấy đây là một dấu chỉ để cảnh cáo hãy cùng nhau đi trên con đường công chính.

Chương ‘Người Tiều Phu’ đặc sắc về sự ẩn dụ của lòng yêu nước với sự bạo phỉnh, dối trá đưa con người sa lưới vào cái bẫy yêu nước đến cái chết đau thương cho bao gia đình của cái gọi ‘con đường giải phóng các dân tộc’ với chủ nghĩa Mác Lê ‘Vùng vẫy, vùng vẫy…Đừng có dại nghe con, chớ có tai mà cái gì cũng nghe, chớ có nghe mà không phân biệt được tiếng nào cũng là tiến quốc. Yêu nước, yêu nước… Đừng có dại nghe con. Quốc trong tiếng Việt có nghĩa là nước, quốc gia. Ở đây nó mang nghĩa bóng là kêu gọi lòng yêu nước và bao con chim đã chết, sa lưới vì nghe theo tiếng gọi nhầm đàn.

Và với chương ‘Ta Có Toàn Quyền’ nói lên một xã hội công dân trong chế độ Cộng sản ‘Tôi có toàn quyền trên vùng bán đảo này… Ở đây không có nghị quyết, sắc luật, sắc lệnh hay Quốc hội gì hết, nhưng mọi sự tốt đẹp…’ và trong sự giết người nhưng bạo chúa vẫn luôn nguỵ tín của sự cứu người’.

Chương ‘Adam & Eva’, thân phận con người trong chế độ Cộng sản bị lột trần hết trong một hệ thống tham ô mà ‘trẫm có chết thì trạng cũng băng hà’ rồi đến thân phận người trí thức qua lời của một anh kỹ sư trong cơn đói khát đã nạo cái chảo bếp bị lủng, bị mang ra kiểm điểm và anh nói lời của kẻ đường cùng đáng thương cho thân phận con người: ‘Học nhiều để nạo vét thật kỹ’. Và trong một chế độ duy vật tha hoá như vậy chỉ có đồng tiền mới mang lại hy vọng cho ai đó, nhưng hậu quả chính họ rước lấy cái bi thảm tiếp theo, trở thành nạn nhân bị tước mất hết tiền tài song sẽ không được gì cả.

Phiên toà XHCH và tiếng kêu qua lời nói cuối cùng của các bị can đến LHQ về tình trạng vi phạm nhân quyền tại VN, nhưng cả hai tổ chức cũng chỉ là hình thức cho dù Hội Quốc Liên đến LHQ vẫn là niềm mong ước từ tác phẩm ‘Về Một Nền Hoà Bình Vĩnh Cửu’ của Kant. Nó vẫn chỉ là hàn lâm đến hàn lâm và nuôi dưỡng hàn lâm.

Chương về ‘Khu Tử Hình’ nơi huyệt mộ của những nạn nhân còn sống. Chính nơi đây trở thành một diễn đàn mà chúng ta có thể rút ra những khía cạnh nhân bản gồm các quan điểm chính trị như: tự do, chuyên chế, dân chủ cộng hoà, các học thuyết triết học… những khát vọng cao cả thật sự của con người trên một phần nào đó của hành tinh này ‘trong khi đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản, những người Cộng sản kiệt sức và tự chôn lấy chính mình’. ‘Cái gốc rễ của vấn đề là tỵ hiềm, lòng tham, hám danh lợi, thiếu nhân ái… nên mới sinh sợ hãi’. Và theo những tử tù sắp bị mang đi bắn ở đây ‘nước Mỹ sẽ không bao giờ có bình yên, bởi vì có quá nhiều người trông chờ ở họ’…Một nữ tử tù can tội giết chồng, rất im lặng, thỉnh thoảng có ai hỏi thăm tha thiết mới hé môi ‘ta tiếc chỉ giết được rất ít đàn ông, chủng loại được gọi có linh hồn, còn giống cái như ta bị cho là không có linh hồn’.

Và rồi tất cả đều lưu chảy, hư vô lưu chảy hư vô.
Các nạn nhân bị đưa đến các trại lao cải, con người bị đày đọa đến chết khiến các tù nhân thường xuyên phải quyết định chọn lựa giữa sống chết và thường là sự thất bại với cái chết diễn ra thường xuyên với các cuộc bạo loạn trốn trại không thành và bị bắn ngay tại chỗ dù có đưa hai tay lên đầu hàng. Với những ai ở lại trong sự chịu đựng thường đều mắc phải những trạng huống tâm thần khác nhau của triệu chứng rồi đến hội chứng loạn tâm thần bản thể. Tất cả các dạng tâm thần được mô tả dưới ánh sáng của khoa tâm thần học diễn dịch, với cách viết như các công án của Thiền minh tỏ.

Từ ám ảnh đến hoang tưởng, kể cả điên loạn tự tử, số còn sống sót mãn hạn tù trở lại đời thường trong nỗi kinh hoàng với bao ám ảnh trước các hội chứng rối loạn tâm thần: Nhà giam CS nơi hoàn tất việc trả thù!

***
Người dân chỉ ước mơ mong sao trên đất nước không còn thù hận vì ngay chính những kẻ đi gieo mầm không hận thù có khi lại trở thành kẻ thù của nhiều người. Kết thúc tác phẩm với những dòng được viết từ Kinh Lạy Cha trong sự kêu gọi con người hãy tự cứu mình, hãy cùng nhau cứu khổ cứu nạn trong cảnh khổ. Đơn giản từ một chút triết học cho thần học ‘Hãy tự cứu mình, Trời sẽ cứu mình’.

Lạy Con người tự thân Con người. Nguyện danh Con người tỏa sáng. Nước Con người trị đến: Ý Con người thể hiện như nguyên uỷ vốn Thiện. Xin cho Con người hằng ngày dùng đủ. Và tha thứ cho nhau như Con người đối xử với nhau cho ra Con người. Chớ làm cho nhau sa chước cám dỗ, nhưng cùng nhau cứu khổ, cứu nạn. Ước được như vậy. 
Quý vị có thể vào Amazon để xem thêm: