Đề
cử Giải Nobel Văn Học 2017
Tác
phẩm Chiến Tranh & Hòa Bình Việt Nam của nhà văn
Nguyễn Quang được một Tổ chức Văn Hóa ở Âu Châu đề
cử Giải Nobel Văn Học 2017, dù được giải hay không,
đây cũng là niềm vinh dự của người Việt Nam, nhất là
đối với người Việt Tự Do, vì một tác phẩm để đủ
điều kiện ứng viên phải đúng
theo di chúc của Alfred
Nobel
“tác phẩm xuất sắc theo khuynh hướng lý
tưởng duy tâm, nguyên văn:
"den
som inom litteraturen har producerat det utmärktaste i idealisk
riktning".
Sau
đây là lời giới thiệu tác phẩm:
Đất nước Việt Nam trải
qua nhiều cuộc chiến tranh, chết chóc. Sự sống và cái
chết như quyện vào nhau. Những ai may mắn còn sống sót,
người nào còn lành lặn tiếp tục làm việc, ai muốn
viết văn làm thơ đều có cảm xúc về sự thật đã
từng xảy ra để viết, cũng như làm nhân chứng cho sự
thật. Tác phẩm Chiến tranh và Hòa bình Việt Nam, văn vẻ
cùng nhân vật không có hư cấu, nhiều khi thô thiển đến
ngỡ ngàng như chính những biến cố trên dòng đời mà
nạn nhân của chiến tranh đau thương là những người
chung quanh đã lãnh nhận những quả bom, trái mìn… bao
gia đình tan nát, những cuộc tình chia ly do những viên
đạn thật bất ngờ đến vô tình.
Các hồ sơ trưng dẫn
trước đây rất đáng ghi nhận, cho dù phần lớn các
thông tin nhằm phục vụ cho các thế lực chính trị,
không từ cái tâm, bản mặt thật của những gì đang thể
hiện tính thể của các nạn nhân trong chiến tranh. Có
thể nói được rằng, thực trạng tang thương nhưng trong
cách nhìn ngoại vi, ngày nay nhờ khoa lịch sử đối
chiếu, có thể nhận chân những gì gọi là sử sách vào
giai đoạn đầy nhiễu nhương của một nước Việt Nam
nhỏ bé, nhưng dư hận thù, ganh ghét, đố kỵ… mà lại
thiếu, thiếu quá nhiều tình thương, lượng bao dung, và
tinh thần tự trọng, lại chỉ dựa vào số tài liệu,
sách báo, lời phê bình chỉ trích từ Hoa Thịnh Đốn,
Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh. Điều đáng chua xót là những sách
báo, tài liệu, phê bình chỉ trích được họ dựa vào
đó để viết, để nói, để trưng dẫn, cũng được lựa
chọn theo khẩu vị, hơn là vô tư, chính xác, đúng sự
thật và truyện dài theo dòng lịch sử này đặc biệt
ghi lại tâm lý thần kinh người dân trong chiến tranh và
hòa bình không chỉ tại Việt Nam nhưng là tâm trạng bi
thương chung của các dân tộc chẳng may rơi vào hoàn cảnh
sinh hận thù đâm chém giết chóc lẫn nhau đến không
nhận ra nhau là người, đặc biệt khi cuộc chiến kết
thúc sự trả thù của kẻ chiến thắng càng tàn bạo hơn
cả trong chiến tranh. Đó là điểm đặc thù của cuộc
chiến Việt Nam.
Bà
Lê thị Soi, như nhiều người cùng cảnh ngộ thuộc miền
Trung Việt Nam, bà không còn muốn đi tránh đạn nữa, khi
vùng này nay phe bên này, mai mốt phe bên kia, nhất là
những lúc giao tranh. Một ngày kia bà chết vì tuổi già,
chiếc quan tài bằng tre nứa đơn sơ đặt trước nhà bị
máy bay ném bom, cái xác cùng áo quan văng ra tung tóe. Dân
làng chạy đến vào lúc họ tin là không có đánh nhau và
lấp vội người đàn bà xấu số không chết trong chiến
tranh nhưng tan xác khi chuẩn bị được nằm yên vĩnh
viễn. Các con cái của bà vẫn bình chân như vại, xem mọi
việc đang diễn ra như không có gì xảy ra trên đất nước
này: chiến tranh nó là như vậy. Với
người dân Việt thấy đánh nhau biết là chiến tranh và
trở lại với chính mình có chút yên bình đó là hòa
bình.
***
Nội dung tác phẩm chia ra
làm ba phần:
Phần 1 : Nạn nhân chiến
tranh Việt Nam
Phần 2 : Nạn nhân chế
độ lao tù Cộng Sản VN
Phần 3: Nạn nhân của
các quan tham thời hòa bình.
***
Thiện Nam – tên của
nhân vật chào đời vào thời điểm khoa sinh học phát
minh ra yếu tố di truyền và công nghệ gene phát triển
đến hoàn thiện, cũng như bắt đầu của thời nhân bản
vô tính. Thiện Nam lớn lên giữa Trời và Đất như con
cái của mọi gia đình, nhưng THIÊN THỜI, ĐỊA LỢI mà
NHÂN chẳng HÒA
Sự lưỡng phân hay đa
chiều trong mỗi cá nhân đã giúp con người như sự cảnh
tỉnh mỗi khi làm điều ác hay hưng phấn khi hành thiện
và cái gốc sâu xa nơi mỗi cá nhân khi được Đấng Tạo
Hóa dựng nên đều có cơ hội tự đứng vững.
Nhìn lại cuộc chiến –
nghĩa là nhìn lại sự giết người, sử gia đi đếm xác
người, tổng kết những đạo luật, sắc luật, sắc
lệnh cùng bao nghị quyết, quyết định trong chiến tranh
để con người hợp thức hóa việc giết đồng loại. Ở
đây trên ba triệu xác người Việt với nhau, trên năm
mươi ngàn binh lính Mỹ và Đồng minh. Khi cuộc chiến
chấm dứt, gọi là thời Hòa Bình với hơn một triệu
người vì sợ hãi mà chạy trốn kẻ chiến thắng thiết
lập thứ bạo quyền mới.
Vùng
đất mới có thật sự là nơi thể hiện của một nền
văn minh mới đang chuyển tiếp hay vẫn còn rải rác đâu
đây sự nhân danh để tiếm đoạt của con người ‘mượn
hoa cúng Phật để hòng kiếm ăn’. Chiến tranh đã để
lại mối quan hệ thân tộc mới, trong gia đình không còn
là cha hay mẹ, chỉ còn một hay không còn ai cả, vốn đã
tạo nên tổ ấm này và ngay các từ cha, mẹ cũng sẽ
thay đổi…vì sự sợ hãi khi gọi trực diện như thế,
thần chết sẽ gọi người chúng ta yêu thương, kính
trọng. Một nền tảng đạo đức mới được hình thành
như đang và sẽ xảy ra trong thời nhân bản vô tính, mỗi
chủ thể vẫn là nền tảng của xã hội, Cogito
ero sum,
I
think so I am,
sử gia nhìn lại từ quá khứ đến hiện tại chắc chắn
rằng con người chỉ sáng tạo khi có tự do và mỗi cá
nhân trong cuộc hành trình cùng nhân loại trong nền văn
minh mới vẫn luôn phải trả giá rất cao mới có được
Tự Do để sáng tạo.
Triết lý là sự đi đường
đến Chân Thiện Mỹ của từng thời đại và để có
được nhân loại phải trải qua bao thử thách, hy sinh,
đau thương mất mát. Trong hơn nửa thế kỷ hậu bán thế
kỷ hai mươi, Việt Nam cùng nhiều dân tộc khác có chiến
tranh và hòa bình, nhất là thời hòa bình càng hỗn loạn
hơn như bên bờ vực chiến tranh, khiến tâm lý thần kinh
của người dân Việt Nam biến đổi từ nhẹ đến điên
loạn, đó là Cái Giá Của Tự Do. Chính nó là yếu tính,
bản chất của Chiến Tranh và Hòa Bình vậy.
Mỗi
dân tộc có giá trị tinh thần riêng, người Việt đọc
tác phẩm này, hy vọng sẽ không còn cảnh người Việt
giết người Việt, hận thù rồi tìm cách trả thù khi
nhận ra nhau Cội Nguồn là người Việt Nam.
Giới
thiệu phần 2 của tác phẩm:
Gia
tài của Cộng sản để lại, đó là một giỏ rắn Trung
Hoa, một xã hội hỗn mang từ thượng tầng kiến trúc
đến hạ tầng cơ cấu, những con rắn Hán gian, Việt
gian ra vào hang trên khắp cả nước. Những con rắn nuốt
chửng lẫn nhau và phun nọc độc lên dân tộc đã cưu
mang nó.
Những nẻo đường đến
địa ngục Việt Nam.
Câu chuyện triết học
–The story of philosophy, của Ông Bà Will Durant khi giới
thiệu vế Emmanuel Kant có viết: muốn trở thành triết
gia phải là một Kant tử. Với một nhà văn cũng vậy,
không phải thấy gì rồi vội viết ngay, song phải quan
sát kiểm nghiệm để từ những hiểu biết thường
nghiệm đến những giá trị phổ quát mới viết ra.
Địa ngục Việt Nam dễ
vào và dễ đọc, nó rất ý vị vì bên kia núi hãy còn
nhiều núi, câu chuyện không chỉ đơn thuần là những sự
kiện được ghi chép lại như chuyện kể về ‘con người
ăn cỏ, uống nước mương rãnh’, nằm trong nhà kỷ luật
‘vừa ăn vừa đi cầu trong một cái bát…’, nhai hết
chăn màn và nhai hoài thấy ngọt. Nhưng quả là hình ảnh
của một chế độ bạo tàn hiện lên bên sau những ngôn
từ đó. Không phải những gì nhà văn viết để cho chúng
ta xem, nhưng chính những gì được mời gọi chúng ta cùng
phán đoán, quyết định hành trình, dấn thân và hy vọng.
Từ địa ngục để thấy lại thiên đường đã mất, đó
là hạnh phúc gia đình, những giá trị của bao chân lý
cổ xưa, tiện nghi của nền văn minh hiện đại… mà
bỗng chốc trong cơn nổi loạn đã phá tan mọi thứ và
nhân loại sẽ còn sai lầm và nhầm lẫn nữa trong cái
giả của thứ phê bình lý trí thuần tuý dẫn đến hệ
lụy hiểu lầm nên sử dụng nhầm trên bình diện lý trí
thực hành. Chủ nghĩa Mác là học thuyết phê phán sự
vong thân của tư bản, nhưng dẫn đến bao nguỵ tín, tha
hoá… mà nhân loại trong đó có Việt Nam lãnh hậu quả.
Mở đầu câu chuyện địa
ngục với chương ‘Về đâu’, nếu đọc thoáng qua chỉ
là hình ảnh nhơ nhớp mất vệ sinh trong nhà kỷ luật,
nhưng đi sâu hơn đó là một đoạn văn viết lại Sách
Sáng Thế Ký từ Thiên Chúa dựng nên Trời và Đất trong
bảy ngày đêm và ngày nay có sự miêu tả việc tái tạo
tuần lễ đầu tiên dưới bàn tay của quỷ Satan.
Vốn văn ‘tải đạo’
nghĩa là mang theo sứ mệnh gồm những chân lý truyền
thống -old verities, hầu mở đường cho nhân loại cùng đi
về phía trước, nên đòi hỏi người viết phải có một
tri thức nhất định, nếu không muốn nói theo Kant đó là
một sự kiểm nghiệm để đạt đến tri thức tiên thiên
–connaissance apriori, nếu không chúng ta chỉ viết về
những chiếc đũa gãy trong hiện tượng khúc xạ nhưng
thật sự không có cái que nào bị cong như mắt thường
quan sát. Và cả sự thưởng ngoạn của độc giả sẽ
như nước chảy bèo trôi, một thái độ dễ dãi với cả
người cầm bút và tha nhân.
Các chương ‘Thế
Gian Như Thị’ hay
‘Mẹ Không Cần
Vàng’ nói lên
tính thể của con người thể hiện trong cuộc sống nơi
bước đường cùng với những nếp gấp, ngả nghiêng của
các hữu thể tại thế mà mỗi cá nhân trong điều kiện
bình thường sẽ không nghĩ rằng tôi hiện hữu và sẽ
hành xử như vây: một vị trung tá trong trại tù đòi
phải chia cơm bằng cân tiểu ly mới công bình bên cạnh
nhiều con mắt dõi theo có hơn kém nhau hạt nào.
Chương ‘Ta
Là Kẻ Cứu Người’gợi
lên hình ảnh các tiên tri giả, nếu chúng ta có dịp tìm
hiểu Kinh Thánh qua sách Khải Huyền sẽ thấy đây là một
dấu chỉ để cảnh cáo hãy cùng nhau đi trên con đường
công chính.
Chương ‘Người
Tiều Phu’ đặc
sắc về sự ẩn dụ của lòng yêu nước với sự bạo
phỉnh, dối trá đưa con người sa lưới vào cái bẫy yêu
nước đến cái chết đau thương cho bao gia đình của cái
gọi ‘con đường giải phóng các dân tộc’ với chủ
nghĩa Mác Lê ‘Vùng vẫy, vùng vẫy…Đừng có dại nghe
con, chớ có tai mà cái gì cũng nghe, chớ có nghe mà không
phân biệt được tiếng nào cũng là tiến quốc. Yêu
nước, yêu nước… Đừng có dại nghe con. Quốc trong
tiếng Việt có nghĩa là nước, quốc gia. Ở đây nó mang
nghĩa bóng là kêu gọi lòng yêu nước và bao con chim đã
chết, sa lưới vì nghe theo tiếng gọi nhầm đàn.
Và với chương ‘Ta
Có Toàn Quyền’
nói lên một xã hội công dân trong chế độ Cộng sản
‘Tôi có toàn quyền trên vùng bán đảo này… Ở đây
không có nghị quyết, sắc luật, sắc lệnh hay Quốc hội
gì hết, nhưng mọi sự tốt đẹp…’ và trong sự giết
người nhưng bạo chúa vẫn luôn nguỵ tín của sự cứu
người’.
Chương ‘Adam & Eva’,
thân phận con người trong chế độ Cộng sản bị lột
trần hết trong một hệ thống tham ô mà ‘trẫm có chết
thì trạng cũng băng hà’ rồi đến thân phận người
trí thức qua lời của một anh kỹ sư trong cơn đói khát
đã nạo cái chảo bếp bị lủng, bị mang ra kiểm điểm
và anh nói lời của kẻ đường cùng đáng thương cho
thân phận con người: ‘Học nhiều để nạo vét thật
kỹ’. Và trong một chế độ duy vật tha hoá như vậy
chỉ có đồng tiền mới mang lại hy vọng cho ai đó,
nhưng hậu quả chính họ rước lấy cái bi thảm tiếp
theo, trở thành nạn nhân bị tước mất hết tiền tài
song sẽ không được gì cả.
Phiên toà XHCH và tiếng
kêu qua lời nói cuối cùng của các bị can đến LHQ về
tình trạng vi phạm nhân quyền tại VN, nhưng cả hai tổ
chức cũng chỉ là hình thức cho dù Hội Quốc Liên đến
LHQ vẫn là niềm mong ước từ tác phẩm ‘Về
Một Nền Hoà Bình Vĩnh Cửu’
của Kant. Nó vẫn chỉ là hàn lâm đến hàn lâm và nuôi
dưỡng hàn lâm.
Chương về ‘Khu
Tử Hình’ nơi
huyệt mộ của những nạn nhân còn sống. Chính nơi đây
trở thành một diễn đàn mà chúng ta có thể rút ra những
khía cạnh nhân bản gồm các quan điểm chính trị như:
tự do, chuyên chế, dân chủ cộng hoà, các học thuyết
triết học… những khát vọng cao cả thật sự của con
người trên một phần nào đó của hành tinh này ‘trong
khi đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản, những người Cộng
sản kiệt sức và tự chôn lấy chính mình’. ‘Cái gốc
rễ của vấn đề là tỵ hiềm, lòng tham, hám danh lợi,
thiếu nhân ái… nên mới sinh sợ hãi’. Và theo những
tử tù sắp bị mang đi bắn ở đây ‘nước Mỹ sẽ
không bao giờ có bình yên, bởi vì có quá nhiều người
trông chờ ở họ’…Một nữ tử tù can tội giết
chồng, rất im lặng, thỉnh thoảng có ai hỏi thăm tha
thiết mới hé môi ‘ta tiếc chỉ giết được rất ít
đàn ông, chủng loại được gọi có linh hồn, còn giống
cái như ta bị cho là không có linh hồn’.
Và rồi tất cả đều
lưu chảy, hư vô lưu chảy hư vô.
Các nạn nhân bị đưa
đến các trại lao cải, con người bị đày đọa đến
chết khiến các tù nhân thường xuyên phải quyết định
chọn lựa giữa sống chết và thường là sự thất bại
với cái chết diễn ra thường xuyên với các cuộc bạo
loạn trốn trại không thành và bị bắn ngay tại chỗ dù
có đưa hai tay lên đầu hàng. Với những ai ở lại trong
sự chịu đựng thường đều mắc phải những trạng
huống tâm thần khác nhau của triệu chứng rồi đến hội
chứng loạn tâm thần bản thể. Tất cả các dạng tâm
thần được mô tả dưới ánh sáng của khoa tâm thần
học diễn dịch, với cách viết như các công án của
Thiền minh tỏ.
Từ ám ảnh đến hoang
tưởng, kể cả điên loạn tự tử, số còn sống sót
mãn hạn tù trở lại đời thường trong nỗi kinh hoàng
với bao ám ảnh trước các hội chứng rối loạn tâm
thần: Nhà giam CS nơi hoàn tất việc trả thù!
***
Người dân chỉ ước mơ
mong sao trên đất nước không còn thù hận vì ngay chính
những kẻ đi gieo mầm không hận thù có khi lại trở
thành kẻ thù của nhiều người. Kết thúc tác phẩm với
những dòng được viết từ Kinh Lạy Cha trong sự kêu gọi
con người hãy tự cứu mình, hãy cùng nhau cứu khổ cứu
nạn trong cảnh khổ. Đơn giản từ một chút triết học
cho thần học ‘Hãy tự cứu mình, Trời sẽ cứu mình’.
Lạy Con người tự thân
Con người. Nguyện danh Con người tỏa sáng. Nước Con
người trị đến: Ý Con người thể hiện như nguyên uỷ
vốn Thiện. Xin cho Con người hằng ngày dùng đủ. Và tha
thứ cho nhau như Con người đối xử với nhau cho ra Con
người. Chớ làm cho nhau sa chước cám dỗ, nhưng cùng
nhau cứu khổ, cứu nạn. Ước được như vậy.
Quý vị có thể vào
Amazon để xem thêm: