Chúng tôi có 
          phần nghiêng về định nghĩa “văn minh kinh đào” cho miền Hậu Giang của 
          Lương Thư Trung hơn là định nghĩa “văn minh miệt vườn” của Nguyễn Văn 
          Lục. (Nguyệt san “Đi Tới”, 2003). Tuy Đại Nam Nhất Thống Chí  
          ghi là giữa bốn con sông lớn ở miền Nam: Tiền Giang, Hậu Giang, sông 
          Sài Gòn, sông Đồng Nai có nhiều đường lạch và kinh chằng chịt nhau như 
          mạng nhện; thực sự vào đời  các vua Gia Long, Minh Mạng  chỉ có đào 
          bằng tay ở  Sông Tiền các kinh tương đối nhỏ và ngắn là kinh Bà Bèo 
          phía sông  Vàm Cỏ Tây, kinh Ông Hống, kinh Cái Cỏ nối rạch Cái Cái với 
          Svay Rieng (đào năm 1815), kinh Bảo Định dài 20 cây số, nối liền  sông 
          Vàm Cỏ Tây với sông Tiền Giang (đào năm 1819)  và có lẽ theo nhà văn 
          Nguyễn Hiến Lê, triều đình nhà Nguyễn Phước đã cho đào con kinh từ Tân 
          An đến Mỹ Tho, Pháp gọi là kinh Arroyo de La Poste. 
          L'auteur Tôn Thất Trình est ingénieur 
          agronome (INA Paris, promotion 1952). Il a ete plusieurs fois Ministre 
          de l'agriculture et da la reforme agraire du Sud VietNam. Après 1975, 
          il a été fonctionnaire principal de la FAO- Rome, Secrétaire de la 
          Commission internationale du Riz aussi de la F AO. L'article présente 
          un examen critique, selon le point de vue d'un développeur, depuis la 
          conquête du delta du Mékong par les Seigneurs Nguyen Phuoc et le 
          développement du delta du Mékong Postérieur ou Hậu Giang depuis cette 
          période jusqu’à maintenant. 
          
          
          
          A- 
          
          Đôi chút lịch sử: 
          Sáp  nhập  Trấn Hà Tiên, Biển Tây vào  Việt Nam năm 1708. nhưng sau 50 
          năm,  đến năm 1757, mới thật sự đặt cơ cấu cai quản  Hậu Giang,  bờ 
          biển và Biển Tây ngày nay. Nhưng vẫn phải tranh dành ảnh hưởng trên 
          đất Thủy Chân Lạp với Tiêm La (Thái Lan)
          
          
          1- Tranh ảnh 
          hưởng  với Tiêm La, dành  vùng đất Thủy Chân Lạp của Phù Nam  
          
          
          
          Chúng ta ít 
          dùng danh từ Biển Tây,  có lẽ vì vùng Vịnh này  được gọi là Vịnh Thái 
          Lan (Vịnh Tiêm hay  Xiêm La), từ thời Pháp thuộc phổ biến bản đồ địa 
          lý quốc tế. Thực tế thì vùng Vịnh này, cũng như châu thổ sông Cửu Long 
          là nơi tranh dành cựu vương quốc Phù Nam, tự biến dạng đi gần 10 thế 
          kỷ, từ thế  kỷ thứ VII (thứ bảy). Theo Phan Khoang (Việt sử: Xứ 
          Đàng Trong 1558- 1777, xuất bản 1967), dân Phù Nam thuộc giống Úc 
          -Á, trong đó có tộc dân tự xưng là giống Khmer, đã đến bán đảo Đông 
          Dương vài chục thế kỷ trước công nguyên tây lịch, tiêm nhiễm văn hóa 
          Ấn độ, theo Bà La Môn,  tôn giáo Ấn độ. Đầu  công nguyên Tây Lịch, Phù 
          Nam cường thịnh, kinh đô là Vyadhapura  (gần thành phố Banam ngày nay) 
          ở Đông Bắc Kampot, Tây Bắc Châu Đốc. Thuyền buôn các nước Ấn độ, Trung 
          Quốc, Mã Lai và cả La Mã lui tới Ốc Eo (gần chân núi Ba Thê), cửa biển 
          chánh Phù Nam. Thế kỷ thứ III, Phù Nam đã đánh Lâm Ấp (Chiêm Thành). 
          Thế kỷ thứ VI, một tiểu vương miền Sambor, phía Bắc Phù Nam, là nước 
          Kambuja (Tàu và ta gọi là Chân Lạp, riêng ta còn gọi là Cao Miên), đem 
          quân xuôi dòng sông Cửu Long chiếm kinh đô Vyadhapura lên ngôi vua. 
          Vùng đất sông ngòi  sông Cửu Long cho đến Biển Đông hay Biển Tây,  ta 
          gọi 1à Thủy Chân Lạp. Còn đất miền Trung Lào và Hạ Lào ta gọi là Lục 
          Chân Lạp. Dân Kambuja không quen khai thác đất thấp nên  nền bảo hộ 
          Thủy Chân Lạp của Kambuja  rất là lỏng lẻo, đất đai phần lớn để hoang 
          vu.  Kambuja chỉ phát triển nhiều Lục Chân Lạp và vùng đất Phù Nam 
          phần lớn bên kia biên giới Thái Lan và Cam bốt ngày nay. Hậu bán thế 
          kỷ thứ VIII, Chân Lạp bị bọn cướp biển Java cướp phá, rồi phải thần 
          thuộc Java. Năm 802, vua JayaVarman 11 thống nhất Chân Lạp, đặt nền 
          tảng cho đế quốc Khmer. Ở các thế kỷ sau, Chân Lạp chiến tranh với 
          Chiêm thành, có lúc người Chiêm chiếm kinh đô Angkor, có lúc Chân Lạp 
          chiếm kinh đô Vijaya (Trà Bàn hay Đồ Bàn - Bình Định) của Chiêm.  
          Tranh dành Phù Nam, là giữa dân tộc Việt (thay thế dân tộc Chăm, Chiêm 
          Thành), dân tộc Miên (Khmer) hay Cam bốt ngày nay và nhất là dân tộc 
          Thái Lan (Xiêm La). Dưới triều vua Ta Chay và con là Nippean Bat 
          (1340), Chân Lạp suy thóai, mất dần các thuộc địa bảo hộ ở Tiêm La, ở 
          Ai Lao và các miền lưu vực thượng lưu sông Menam. Năm 1350, Tiêm La 
          quyết đánh Chân Lạp nên dời đô về Ayuthya cho gần Angkor hơn. Angkor, 
          thủ đô Chân Lạp,  lúc bấy giờ, theo truyền thuyết đã được xây dựng một 
          phần bằng quân dân nô lệ Chiêm thành.  Năm 1351, Tiêm La chiếm Angkor 
          lần đầu tiên, Chân Lạp lấy lại năm 1357. Chiến tranh Tiêm La và Chân 
          Lạp xảy ra liên miên, vì hoàng gia Chân Lạp chia rẽ tranh nhau ngôi 
          vua.  Năm 1474, Tiêm La giúp hoàng thân Chân Lạp là Thommo Reachea phe 
          thân Tiêm lên làm vua, vị vua Chân Lạp đầu tiên do vua Tiêm đặt lên và 
          bảo hộ. Reacha nhường hai tỉnh Korat và Chantaboun cho Tiêm. Năm 1560, 
          vua Chân Lạp là Brom Reachea thu hồi được hai tỉnh Korat và Chantaboun. 
          Nhưng đến năm 1583, quân Tiêm lại chiếm Battambang, Pursat rồi Lovak, 
          kinh đô mới, dễ bảo vệ hơn Angkor. Năm 1603,  vua Tiêm cho Soryopor về 
          nước, lên ngôi Chân Lạp. Soryopor thần phục Tiêm La, buộc các đại thần 
          ăn mặc áo dài màu vàng như người Tiêm và áp dụng nghi lễ như triều 
          đình Tiêm Ayuthya. Nhưng năm 1618, vua Chey  Choetha phục hồi lại 
          triều nghi Chân Lạp, không thần phục Tiêm La nữa, và dời cung điện đến  
          U đông - Oudong.  Vua Chân Lạp xin cưới một con gái chúa Sãi là 
          công nương Ngọc Vạn làm hoàng hậu Chân Lạp, mong sự giúp đỡ của Chúa 
          Sãi chống lại Tiêm La. Sau đó các vua Chân Lạp vẫn dùng U đông làm thủ 
          đô, đến năm 1867 mới trở về lại Chaturmaka tức Phnom Penh, tên Việt là 
          Nam Vang, đã thiết lập năm 1434,  thay cho kinh đô Angkor hay bị Tiêm 
          xâm lấn, tàn phá. 
          
          
          2- Thiết lập uy quyền nước ta ở Côn sơn, phía 
          Nam Biển Đông và Hà Tiên - Phú Quốc, các đảo Biển 
          Tây 
          
          
          Việt Nam gọi hạ 
          lưu sông Mê Kông là sông Cửu Long, vì sông  chảy ra biển Đông theo 9 
          cửa sông lớn như chín con Rồng. Năm 1668, Thống suất Nguyễn hữu Cảnh 
          (hay Kính) vâng lệnh Chúa Minh Nguyễn Phước Chu, chia đất Đông Phố, 
          lấy  xứ Đồng Nai lập dinh Trấn Biên và xứ  Sài Côn lập dinh Phiên Trấn 
          (tức Gia Định). Ngòai khơi Biển Đông, quốc tế  gọi là Nam Hải (biển 
          Nam Trung Quốc - South China Sea), tháng 10 năm 1703, theo Đại Nam 
          Thực Lục Tiền Biên, chúa Minh sai  trấn thủ dinh Trấn Biên Trương 
          Phước Phan, lúc đó đã là Biên Hòa (tỉnh Đồng Nai ngày nay),  đem binh 
          thuyền ra Côn Lôn (Côn Sơn ngày nay, người Pháp gọi là Poulo Condore), 
          dùng người Mã Lai (tên gọi là Chà Và - Java thời bấy giờ) nổi lọan  
          giết  nhiều người thương điếm Công ty Ấn độ, có 8 chiến thuyền  người 
          Anh (sử ta gọi là man An liệt - English) chiếm cứ do Allen Catchpole 
          quản lý, gồm 5 ban gọi là ngũ ban. Đóng gông tên trưởng ban (?) bang 
          thứ 5 của ngũ ban, giải về dinh. Thu hết của cải bắt được của thương 
          điếm (chúng ta gọi là dân giặc biển) dâng nạp.  Xem các đảo Biển Đông 
          như Côn Sơn,  Trường Sa (Trung quốc gọi là Nam Sa) v.v... thuộc nước 
          ta. Nhưng ngòai khơi Biển Tây thì mãi đến  năm 1708,  sau  khi Mạc Cửu, 
          người Lôi Châu tỉnh Qủang Đông, đã lập xong 7 xã thôn, đặt tên đất là 
          Hà Tiên, dâng thư lên chúa Minh, dâng đất Hà Tiên, được chúa phong làm 
          tổng trấn Hà Tiên,  các đảo Phú Quốc, Thổ Chu cùng 100 đảo lớn nhỏ 
          khác ở Biển Tây mới thuộc nước ta.  Và cũng dùng trấn Hà Tiên làm bàn 
          đạp, chiếm dần phần đất Phù Nam của  châu thổ Sông Cửu Long. Diện tích 
          châu thổ phần Việt Nam ngày nay là 39 000 km2 hay 3900 000 ha. Đất Phù 
          Nam bên kia biên giới Thái Lan - Cam Bốt, đã bị Thái Lan  chiếm cứ 
          xong từ lâu và thiết lập kinh đô mới là Bang Kok. Kinh đô cũ là Chieng 
          Mai ở miền Bắc Thái Lan. Năm 1735 Mạc Cửu mất, chúa Ninh Nguyễn Phước 
          Trú cho con là Mạc Thiên Tứ, mẹ là người Việt, làm đô đốc Trấn Hà Tiên. 
          Thiên Tứ tự nhận là người Việt, cũng như nhiều người Tàu, đặc biệt là 
          dân Triều Châu ở Tiêm La, tự nhận là dân Tiêm hay dân Thái Lan vậy. 
          Thiên Tứ là một vị nho học, giỏi thơ văn, có nhiều tài năng. Ngòai 
          việc lập Chiêu Anh Các để người Việt và người Hoa giảng bàn học vấn, 
          xướng họa thơ văn, Thiên Tứ xây dựng thành lũy ở Hà Tiên,  lập quân 
          ngũ, đặt nha thuộc, khuếch trương phố chợ, tàu thuyền buôn bán với 
          ngọai quốc mậu dịch với cả Nhật Bản. Năm 1757, khi Thiên Tứ  lập  các 
          đạo (một khu vực hành chánh và quân sự, đất đai mới thu phục, có đồn 
          binh, lỵ sở hành chánh  đóng ở đó) Kiên Giang ở Rạch Giá, Long Xuyên ở 
          Cà Mau, bờ biển vùng Hậu Giang mới thật sự trở thành lãnh thổ Việt 
          Nam. Nặc Tôn hay Outey II vào năm này, còn cắt thêm 5 phủ là Cần Bột (Kampot), 
          Vũng Thơm hay Hương Úc (Kong Pong Som), Chân Rùm (nam bộ tỉnh Treang), 
          Sài Mạt (Bentey Méas) và Linh Quỳnh,  tạ ơn Thiên Tứ đã xin  tha tội 
          cho Nặc Tôn. Chúa Võ Nguyễn Phước Khóat cho 5 phủ này thuộc trấn Hà 
          tiên quản hạt.  Trước các cuộc tấn công xâm chiếm của thực dân Pháp,  
          không còn đủ sức Tây tiến cả ở Thủy Chân Lạp lẫn Tây Nguyên và Lào, 
          đời vua Tự Đức đã phải giao trả 5 phủ này cho Chân Lạp.  Ngoài biển Hà 
          Tiên, có nhiều hòn đảo hiểm trở hẻo lánh bọn cướp biển dùng làm sào 
          huyệt như các đảo Cổ Công, Cổ Cốt, Dần Khảm. Năm 1767, Thiên Tứ  đem 
          thuyền vây bắt một giặc biển giỏi chiến trận, người gốc Triều Châu là 
          Hoắc Nhiên và nhiều đồ đảng lập đồn trại ở Cổ Công bắt giết đi. Từ đó 
          thuyền buôn mới  bình yên đi lại buôn bán ở vùng Biển Tây này. Tuy vậy, 
          vì binh trấn ít ỏi, năm 1769 (hay 1771),  Hà Tiên bị quân vua Tiêm (Xiêm) 
          là Trịnh Quốc Anh, còn gọi là Phi Nhã Tân (Phya Tak), con của một 
          người Tàu Triều Châu tên là Yển và của một  người đàn bà Tiêm, sau khi 
          diệt  đạo quân Miến Điện, chiếm lại kinh đô A du đa (Ayuthya) tự lập 
          làm vua (1768) thân chinh chiếm cứ.  Mạc Thiên Tứ phải chạy xuống Kiên 
          Giang (Rạch Gía), rồi đình trú ở Trấn Giang (Cần Thơ). Tướng Tiêm Trần 
          Liên, một người Tàu Triều Châu, đuổi theo. Nhưng bị lưu thủ Long Hồ 
          Tống Phước Hợp đem binh thuyền tới cứu. Trần Liên thua chạy rút lui về 
          Hà Tiên. Năm 1772, vua Tiêm chiếm giữ kinh đô Chân Lạp Nam Vang, đuổi 
          Nặc Tôn, thân Việt và triều đình, lập Nặc Nộn, thân Tiêm, lên làm vua. 
          Năm 1772, Chúa Định Nguyễn Phước Thuần sai  Chưởng cơ Nguyễn Cửu Đàm 
          thống suất đem 10 000 quân thủy bộ hai dinh Bình Khương và Bình Thuận 
          và 30 chiến thuyền vào Gia Định đánh Chân Lạp. Tháng 6 năm 1772, hợp 
          với quân dinh Long Hồ, tiến quân lên Nam Vang, phá được quân Tiêm. Vua 
          Tiêm và Nặc Nộn đều bỏ chạy, quân ta thu phục Nam Vang và La Bích. Năm 
          1773, Vua Tiêm mới trả lại  các con của Mạc Thiên Tứ giam cầm ở Tiêm 
          La và triệu Trần Liên về. Nhưng Hà Tiên bị quân Tiêm phá tan gần hết, 
          nên Thiên Tứ sai con là Tử Hoàng về sửa sang, còn  mình thì ở lại Trấn 
          Giang (Cần Thơ).    
          
          
          B- Việc mở mang 
          khai thác vùng Hậu Giang 
          thời cha ông 
          rất khổ cực, nhưng tạo ra “văn minh kinh đào” Hậu Giang, có phần khác 
          “văn minh miệt vườn”  nhiều  “đất giồng” Tiền Giang.  
          
          
          
          1-                
          
          Đào kinh lớn 
          nhỏ, nhưng không trị nỗi lũ lụt, nên thời các Chúa Nguyễn và Nhà 
          Nguyễn độc lập, không khẩn hoang làm ruộng được bao nhiêu cả.
          
          
          Chúng tôi có 
          phần nghiêng về định nghĩa “văn minh kinh đào” cho miền Hậu Giang của 
          Lương Thư Trung hơn là định nghĩa “văn minh miệt vườn” của Nguyễn Văn 
          Lục. (Nguyệt san “Đi Tới”, 2003). Tuy Đại Nam Nhất Thống Chí  
          ghi là giữa bốn con sông lớn ở miền Nam: Tiền Giang, Hậu Giang, sông 
          Sài Gòn, sông Đồng Nai có nhiều đường lạch và kinh chằng chịt nhau như 
          mạng nhện; thực sự vào đời  các vua Gia Long, Minh Mạng  chỉ có đào 
          bằng tay ở  Sông Tiền các kinh tương đối nhỏ và ngắn là kinh Bà Bèo 
          phía sông  Vàm Cỏ Tây, kinh Ông Hống, kinh Cái Cỏ nối rạch Cái Cái với 
          Svay Rieng (đào năm 1815), kinh Bảo Định dài 20 cây số, nối liền  sông 
          Vàm Cỏ Tây với sông Tiền Giang (đào năm 1819)  và có lẽ theo nhà văn 
          Nguyễn Hiến Lê, triều đình nhà Nguyễn Phước đã cho đào con kinh từ Tân 
          An đến Mỹ Tho, Pháp gọi là kinh Arroyo de La Poste. Phía bờ biển Biển 
          Tây, ở vùng U Minh, đào tay  hai con kinh  Chắc Băng và  Cạnh Đền. 
          Cạnh Đền là nơi chúa Nguyễn Phước Ánh và gia quyến, chạy trốn quân Tây 
          Sơn,  tản lạc tới rừng hoang, đỉa, muỗi, khí hậu độc địa, nên công 
          chúa Ngọc Hạnh  chết bệnh thương hàn. Chúa sai quân sĩ chôn cất tại 
          bìa rừng này và lập một đền thờ bên cạnh mộ phần, nên dân cư vùng này 
          gọi là Cạnh Đền, truyền miệng nhau câu ca dao:
          
          
          “Đâu xa bằng xứ 
          Cạnh Đền, 
          
          
          Muổi kêu như 
          sáo thổi, đỉa lền như bánh canh”
          
          
          Trung bình mặt 
          đất đồng bằng sông Cửu Long phía Việt Nam  chỉ cao 0.8 m trên mức 
          trung bình mặt nước biển. Tuy nhiên,nhiều tiểu địa thế  khác nhau, ảnh 
          hưởng quan trọng đến điều kiện thoát thủy. Hai sông Tiền và sông Hậu 
          chảy qua nhiều đê thiên nhiên, hai bên là những trũng rộng lớn họat 
          động như những hồ tồn trữ nước lũ lụt. Gặp mùa lũ cao, phần trên châu 
          thổ chìm trong nước lũ, có nơi sâu 4.5 m. Khác hẳn với đất đai dọc bờ 
          biển Biển Đông, ảnh hưởng phối hợp giữa trầm tích sông  đọng lại và 
          thủy triều  làm ra một vùng có phần cao hơn đôi chút dọc bờ biển Đông, 
          nên lũ lụt ít trầm trọng hơn.   Dọc các đất  “giồng” và các đất tương 
          đối ít ngập lụt này, người Việt đặc biệt là lưu dân Ngũ Quảng (Quảng 
          Bình, Quảng Trị, Quảng Đức - Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi) ngoài 
          việc làm lúa cấy theo kinh nghiệm cổ truyền với đôi chút sửa đổi cho 
          thích nghi với phong thổ địa phương, (như Lê Qúi Đôn đã ghi chú rỏ rệt 
          ở Phủ Biên Tạp Lục) đào mương nhỏ xả phèn, ngăn mặn, lập gia cư, 
          lên vườn trồng cây ăn trái, trồng dừa, trồng rau đậu - vegetables.... 
          Hòa hợp với dân gốc Miên trên sóc (sok) đất cao, nhất là với dân Triều 
          Châu (bờ biển Triết Giang) tha phương cầu thực, biết rõ trồng lúa cấy, 
          e không thua kém  dân Ngũ Quảng, nhưng chuyên  trồng nhãn (lưu truyền 
          đến bây giờ như nhãn Long Bặc Liêu, nhãn Xuồng cơm vàng bánh xe, có lẽ 
          là nhãn Triều Châu Phúc Kiến, chuyên viên Thái cho là ngon nhất thế 
          giới...) trồng rau đậu và buôn bán, mau thu lợi hơn là trồng lúa cấy....
          
          
          2-                
          
          Kinh đào thời  
          các vua nhà Nguyễn độc lập, chỉ giải quyết giao thông, gìn giữ biên 
          cương miền Tây hơn là  khai thác thành công  làm ruộng  lúa 
          
          
          
          Trái lại ở vùng 
          văn minh kinh đào, đất thấp, đất phèn, đất than bùn  mà phần dưới cũng 
          là đất phèn (“đất không chưn ề), rất ít nơi áp dụng được kinh nghiệm 
          trồng lúa cấy cổ truyền miền Trung, miền Bắc. Kinh  phải đào sâu, rộng 
          lớn hơn, để  hy vọng đẩy nước lũ lụt ra biển. Vì mùa lũ sông Cửu Long 
          trùng với mùa mưa (từ tháng 4 đến tháng 10 ở phía Tây và từ tháng 5 
          đến tháng 11 ở những phía khác), nhiều vùng không chịu ảnh hưởng của 
          nước lũ sông, cũng bị các cơn mưa to địa phương làm ngập úng. Đặc biệt 
          ở bán đảo Cà Mau. Diện tích vùng ngập úng có thể lên đến 1.0 đến 1.2 
          triệu ha từ 2 đến 4 tháng một năm. Đào sâu hơn nên mặt đất phơi bày  
          lên hai bờ kinh đất nhiều  phèn  hơn, rửa phèn lâu hơn, rất khó tạo 
          vườn. Nước rửa nhiều phèn làm đọng mọi chất hữu cơ trong nước, khiến 
          cho nước nhiều kinh trong leo lẻo, không động vật nào sống nỗi, mọi 
          loại cá chết ngửa phơi bụng. Ai ở các vùng đất phèn đều biết uống nước 
          đỏ, nước đục,  ít đau bụng hơn là uống nước trong vắt, trong xanh. 
          Nước  rửa phèn kinh pha thêm màu vùng đất than bùn U Minh, có khi đen 
          ngòm.  Bên cạnh kinh là những cánh đồng đầy phèn cỏ năng kim, nước cỏ 
          thúi, đầy đỉa, bước xuống đỉa đeo đầy hai ống chân. Cực khổ nên kinh 
          đào thời các vua Gia Long, Minh Mạng, tuy muốn  khai khẩn phía hữu 
          sông Hậu Giang, nối qua vùng đồi núi Thất Sơn, chỉ hoàn thành mục đích 
          giao thông, liên lạc giữa các tỉnh, (thời này đã thành lập An Giang, 
          tách rời trấn Vĩnh Thanh) gìn giữ biên cương hơn là khai khẩn đất 
          hoang vu lập vườn, làm ruộng.  Hai kinh đào bằng tay, xem như nỗ lực 
          khai phá miền Tây, sau thời gian  nhà Nguyễn Phước khôi phục địa vị 
          trong tay  anh em nhà Nguyễn Tây Sơn là kinh Thoại Hà và kinh Vĩnh Tế. 
          Cả vùng Hậu Giang, ai cũng biết Thọai Ngọc Hầu là người có công huy 
          động dân tình đào hai con kinh nổi tiếng này. Năm 1818 (Gia Long thứ 
          17) đào sâu và mở rộng con sông thiên nhiên Tam Khê nối liền Rạch Giá 
          với Long Xuyên, vua đặt tên là Thọai Hà.  Năm Minh Mạng nguyên niên 
          (1820) bắt đầu đào kinh Vĩnh Tế, nối liền Châu Đốc với Hà Tiên, dài 
          146 cây số đào trong 5 năm mới xong. Chánh thất Thọai Ngọc Hầu là Châu 
          thị Tế, nhiều lần khổ cực thay chồng trông coi việc đào kinh. Vua khen 
          ngợi, lấy tên bà đặt tên con kinh này, gọi là kinh Vĩnh Tế. Ở trên, 
          chúng ta đã thấy tầm quan trọng các đường sông, kinh lớn về việc dùng  
          chiến thuyền chống giữ các thành lũy biên cương Châu Đốc - Hà Tiên.  
          Mong muốn phát triển đất đai làm ruộng ruộng cấy lúa theo cổ truyền 
          miền Bắc, miền Trung, đường lối giải quyết nhân mãn và kinh tế xã hội 
          thời bấy giờ,  không mấy thành công, kể cả  việc cử Tham tán Nguyễn 
          Công Trứ làm Dinh Điền Sứ,  người đã thành công xẻ kinh đê ngự hàn Kim 
          Sơn -Tiền Hải, mở mang ruộng đất bờ biển châu thổ Sông Hồng trước đó. 
          Dù to, lớn dài hơn cả mọi kinh đào tay nước ta, xuyên qua một vùng đầm 
          lầy, nước độc, nhiều đất phèn, đạo tặc ẩn núp..., có khúc lại là kỳ 
          công đào qua núi đá thạch cương, kinh Vĩnh Tế ước lượng chỉ chuyển ra 
          Biển Tây vào mùa nước lũ trung bình, chưa đến một phần tư lưu lượng lũ 
          đổ tràn bờ,  phần phía trên sông Tiền và sông Hậu. Năm 1836 (năm Minh 
          Mạng thứ 17), theo Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim (tái xuất  bản 
          năm 1971), diện tích đạt điền xong  ở Nam Kỳ tính ra được  hơn 630 075 
          mẫu ta hay 226 827 ha ruộng và đất, so với 4 063 892 mẩu ta hay 1 463 
          000 ha cả nước (Bắc, Trung, Nam Kỳ). Năm 1868, theo Trần văn Hữu 
          (1927) ruộng canh tác lúa cả Nam Kỳ chỉ có 215 000 ha.
          
          
          C. Thời Pháp thuộc, từ 1885,
          
          đào kinh phát 
          triển lúa gạo mau lẹ hơn nhiều, nhưng lại đào sâu thêm hố cách biệt 
          giữa các giai cấp nông thôn, tăng bất công xã hội và bóc lột, khai 
          thác tá điền, thành phần nông dân không có ruộng đất.
          
          
          Ngòai mục đích 
          bình định lãnh thổ, chống lại các ổ kháng chiến phong trào Cần Vương, 
          Văn Thân, Pháp xem Đông Dương (Việt, Miên,Lào) là thuộc địa khai thác 
          - colonies d’exploitation. Vùng đất Nam Kỳ đặc biệt chú trọng 
          đào kinh, cả bằng tay lẫn bằng xáng, để khai thác những cánh đồng đất 
          phèn, đầm lầy hoang vu làm ruộng  và chở lúa  xuất khẩu. Những vùng lũ 
          ngập sâu, may mắn du nhập thành công các giống lúa nổi  Tiêm La  thích 
          hợp,  là Nàng (Việt hóa tên gọi lúa của Tiêm là Neang) Rừng, Nàng Tây 
          Đùm, Tàu Binh,  v.v... Lúa nổi (riz flottants, floating rice) 
          là lúa thân lên cao dần đến 3- 4m theo mức nước lũ  và trổ bông, thu 
          họach khi nước rút xong. Bắt đầu bằng Trần Bá Lộc, đề nghị Pháp cho 
          đào những con kinh lớn nhỏ khai thác vùng Cái Bè - Mỹ Tho  và mở một 
          đồn điền  lớn phía Nam kinh Tổng Đốc Lộc, khai thác vùng trũng đất 
          phèn vùng Đồng Tháp Mười,  khởi sự thời kỳ điền chủ, bá hộ miền quê 
          miền Nam. Ở vùng Hậu Giang là  những kinh Thới Lai, Cờ Đỏ, Rạch Giá 
          như kinh Thị Đội...  cũng có mục đích  mở những  “đồn điền” ruộng lúa 
          nổi, kiều dân Pháp làm chủ, tại những đất hoang vu đầy năng, đầy lác 
          này. Theo Đào Duy Anh, (Việt Nam văn hóa sử cương - 
          1938, tái bản năm 1976), số lượng đất đào trung bình  là 7 233 000 m3 
          mỗi năm  trong thời gian 1920 - 1930, so với số lượng khơi, vét kinh 
          chỉ là 824 000 m3 mỗi năm trong thời gian 1890- 1900.  Sản xuất, diện 
          tích lúa gạo ở  miền Nam tăng nhanh. Từ năm 1868 đến năm1944, trong 
          thời gian 76 năm Pháp đô hộ, diện tích canh tác lúa ở miền Nam đã tăng 
          thêm 2 triệu ha, lên đến 2 245 000 ha vào năm 1944. Mức xuất khẩu năm 
          1860, chỉ  được 56 950 tấn lúa  gạo. Năm 1925 đã xuất khẩu 1 370 900 
          tấn và trung bình các năm 1934- 1938 là 1320 000 tấn một năm.  Song 
          song với đào vét kinh, chánh quyền thuộc địa Pháp cũng thành lâp, mở 
          rộng một số tỉnh lỵ mới như Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng, biến các 
          tỉnh này  thành những vựa lúa quan trọng của đất nước. (Sơn Nam,  
          Lịch sử khẩn hoang miền Nam, tái bản ở California năm 2000).  
          
          
          
           Kinh tế ruộng 
          đất phát triển, nhưng trên phương diện cơ cấu xã hội nông thôn lại có 
          phần bất công hơn cả chế độ ruộng đất thời các vua nhà Nguyễn Phước 
          độc lập. Những nhà nông học Pháp, có khuynh hướng xã hội như René 
          Dumont (La culture du riz dans le delta du Tonkin, tái bản ở 
          Bangkok năm 1995) hay chỉ là chuyên môn như Yves Henry (Economie 
          agricole de l’ Indochine francaise, các thập niên 1920-30) và  
          Angladette (Le Riz - 1966), viết rằng,  vào những năm 1930, 
          khoảng cách các giai cấp nông dân (tiểu nông, trung nông, đại nông và 
          bần cố nông - tá điền) ở miền Nam đã  lớn hơn  các giai cấp ở miền Bắc. 
          Trung nông (5-50ha)và đại nông (trên 50 ha) chiếm 82% đất trồng lúa. 
          Số đất còn lại phần lớn là công điền, chia cho tiểu nông (trung bình 
          1,78) khai thác. Ở châu thổ sông Cửu Long, vào năm 1945, chỉ có 2.5% 
          nông dân là  chủ điền, sở hữu chủ trên 50ha lại chiếm phân nửa diện 
          tích canh tác. Trong khi 70% người làm chủ ruộng dưới  5ha chỉ chiếm 
          12 % diện tích đất.  Theo King (Land Reform - a world survey, 
          London, 1977), hai phần ba nông dân là người không có ruộng đất. 
          Thường chỉ là tá điền, giá mướn ruộng- tô xuất rất cao  từ 30 đến 50 % 
          tổng số lúa thu hoạch, tùy loại ruộng.  Tá điền còn phải vay tiền canh 
          tác ruộng với lãi xuất cũng rất cao của chủ điền, 100% trong một mùa 
          vụ.  Đại nông  hay đúng hơn là đại điền chủ miền Nam, “ruộng cò bay 
          thẳng cánh”  ở các tỉnh Tiền Giang (Mỹ Tho), Cần Thơ, Bạc Liêu, Cà 
          Mau, có hàng ngàn mẫu ruộng, có hàng chục lẫm lúa, mỗi lẫm là một dãy 
          nhà ngói liên tiếp, rộng 4-5 m  bề dài từ vài chục đến hàng trăm thước. 
          Họ ít khi tự canh tác, thường cho người khác mướn hay thuê người đại 
          diện hay quản lý lo tổ chức việc canh tác, thu lúa ruộng cho chủ điền,  
          ít khi cải tiến kỹ thuật. 
          
          
          D- Cải cách 
          điền địa, phát triển Cách Mạng Xanh Lúa Gạo
          
          
          1-                
          
          Cải cách điền 
          địa 
          
          
           Theo 
          Angladette (1966) chương trình cải cách ruộng đất ở miền Nam (phần lớn 
          ở miền Hậu Giang) đã khởi xướng từ năm 1953, giới hạn sở hữu chủ ruộng 
          đất ở miền Nam là 100ha, giới hạn tô xuất mướn ruộng là 30% số lượng 
          lúa thu hoạch, nhưng chương trình này thi hành lệch lạc, vì bị các 
          thành phần có thế lực ở miền Nam, nhất là chủ điền Pháp chống đối. Đạo 
          luật 57, năm 1956, thời Đệ Nhất Cộng Hòa qui định đại điền chủ chỉ 
          được giữ 100 ha và thêm 15ha ruộng hương hỏa, số ruộng dư được phân 
          chia lại cho người đang canh tác, 5 ha mỗi gia đình. Tô xuất giới hạn 
          ở mức 15 % và cố điều chỉnh quan hệ giữa chủ điền và tá điền, an ninh 
          cho người thuê mướn. Thành phần đại điền chủ không còn nữa, nhưng đại 
          nông chủ điền trên 50 ha, lại tăng thêm 30 %.  Ở miền Tây, chương 
          trình  chỉ thành công nổi bật,  trên một số kinh ngang cạn và nhỏ đào 
          tay, ở Cái Sắn, định cư hơn 50 000 gia đình, trên 200 000 người, di cư 
          từ Bắc vào sau hiệp định Genève. Theo King (1977), mỗi gia đình này 
          được cấp 3 ha ruộng và tiền thuê ruộng chỉ còn 25% thu họach hàng năm. 
          Chương trình “Người cày có ruộng”, thời Đệ Nhị Cộng Hòa, thực 
          thi vào đầu năm 1970, giới hạn thêm quyền sở hữu ruộng lúa, chỉ còn 15 
          ha và 5 ruộng hương hỏa. Những người không có ruộng ở đồng bằng sông 
          Cửu Long được cấp miễn phí đến 3 ha tối đa. Chương trình này tốn kém 
          công quĩ, nhưng được tiền đối gía nhập cảng hàng hóa viện trợ Mỹ trợ 
          cấp dồi dào, đặc biệt tiền bồi hòan cho điền chủ bị truất hữu, thay 
          cho trái phiếu cải cách điền địa, nên dù gặp nhiều  khó khăn vì tình 
          trạng an ninh, cũng có thể được xem là khá thành công. Tuy vẫn còn 
          nhiều nông dân không có ruộng canh tác vì thiếu đất ruộng để phân chia. 
          
          
          
          2-                
          
          
          Cách Mạng Xanh lúa gạo chỉ mạnh tiến lại sau 
          thời “Đổi mới”       
          
          
          a- Cách mạng 
          Xanh lúa gạo khởi sự ở miền Nam, bị ngưng trệ vì chánh sách tập 
          thể “hợp tác xã” miền Bắc áp đặt, nông dân miền Nam không hưởng ứng .
          
          
          Cách Mạng Xanh 
          lúa gạo ở Việt Nam được phát động mạnh mẽ, sau khi đổi tên  giống lúa 
          lùn IR 8, lai tuyển chọn ở Trung tâm Lúa gạo Quốc tế Los Banos - Phi 
          luật Tân (IRRI) năm 1965, thành lúa Thần Nông 8, hầu kích động tiềm 
          thức nông dân vùng Sông Cửu Long cải tiến kỹ thuật, tăng gia sản xuất 
          lúa gạo, vào các năm 1967-1968.  Các giống lúa  Thần Nông (IR 5, IR20, 
          IR 36... hay IR 64 là giống lúa Việt Nam  trồng nhiều nhất để xuất 
          khẩu) cây lùn (quốc tế gọi là nữa lùn - semidwarf) mới, cao 
          năng, ngắn ngày  và không có tính quang kỳ, trồng tháng nào cũng theo 
          đúng kỳ sinh trưởng trở bông và chín hột thay vì  đa số giống lúa cũ 
          đến tháng mười ngày ngắn hơn đêm mới trổ bông, giúp làm nhiều vụ  
          trong một năm.  Hai đặc điểm khác của Cách Mạng Xanh ở Việt Nam ở miền 
          Nam là tăng vụ tưới tiêu và sử dụng phân đạm hóa học. Tưới tiêu mùa 
          nắng  trong đê bao ngạn, bằng trọng lực  hay bằng bơm điện. Nếu năm 
          1956, 5000 tấn phân đạm urê - urea ngọai viện Mỹ chất đống ở 
          nhiều kho, tồn trử lâu bị ẩm độ làm đóng cục hư hại nhiều,  nông dân 
          không biết sử dụng, chỉ thích dùng phân Thần Nông là một lọai phân lân 
          (phosphát) có tiềm năng khử phèn  phần  nào. Ở miền Nam, vụ mùa 
          1973-74,diện tích trồng các lúa Thần Nông đã  chiếm 890 000 ha, 32 %  
          số diện tích canh tác ruộng miền Nam  và năng xuất trung bình lên 4 
          tấn/ ha một vụ. Tăng vụ tưới tiêu, dùng rộng rãi phân đạm hóa học, đã 
          đưa năng xuất trung bình lúa gạo nước ta, vào các thập niên 1960-1970 
          ít khi thu họach được 2 tấn lúa một ha, một mùa vụ, lên trên 4.1-4.2 
          tấn một ha vào các năm 1999- 2001. Sản xuất  từ 8-7 triệu tấn lúa thập 
          niên 1960 cũng lên  31 -32 triệu tấn vào các năm 1999 -2001 (theo 
          thống kê FAO - 2000).   Từ năm 1968- 69, miền Bắc cũng du nhập giống 
          IR8 và cũng đổi tên gọi là lúa Nông Nghiệp  NN8. Lúa NN8 chỉ được 
          trồng đại trà  năm 1989 và có lúc chiếm 50% diện tích trồng ở miền Bắc. 
          Chương trình Cách Mạng Xanh, cải tiến kỹ thuật tiểu nông,  bị gián 
          đọan  sau 1975 ở miền Nam Việt Nam, vì chánh quyền áp dụng  chánh sách 
          điều chỉnh ruộng đất,”cào bằng”, hợp tác hóa nông nghiệp theo hai hình 
          thức hợp tác xã  (312 ha một đơn vị)  và tập đòan sản xuất (trung bình 
          40 ha và 38 gia đình (hộ) mỗi đơn vị, dù rằng từ năm 1973, các hợp tác 
          xã nông nghiệp miền Bắc đã bị khủng hoảng. Năm 1980, miền Nam có 1518 
          hợp tác xã và  3 935 tập đòan sản xuất, thu hút 35%  số nông hộ toàn 
          miền (Nguyễn Sinh Cúc, 1995). Đất đai thuộc sở hữu nhà nước, người 
          nông dân sản xuất trong cơ chế - cấp-phát- giao -  nộp.  Nhà nước thu 
          thuế và thu mua lúa với giá ấn định  của các nông trại quốc doanh qua 
          các hợp tác xã.  Nông dân  là những nhóm lao động được tính  công bằng 
          số giờ làm việc, chứ không phải bằng sản xuất. Từ năm 1975 đến năm 
          1980, sản xuất lúa gạo cả nước ngưng trệ. Từ năm 1981 đến năm 1987 nhà 
          nước “cọng sản” thi hành chánh sách mới gọi là “khoán 100”, từ khóan 
          việc sang khóan sản phẩm, từ khóan đội sang khóan gia đình; cho các 
          gia đình nông dân thuê đất ruộng, giữ tối đa là 5% đất ruộng để làm 
          thí điểm.  Nhưng hợp tác xã vẫn là chủ yếu, phân phối các phương tiện 
          canh tác, thu thuế và thu mua lúa. Thay đổi  không khích lệ sản xuất 
          bao nhiêu cả và Việt Nam vẫn phải còn nhập cảng gạo. Năm 1986,  mức 
          nhập cảng gạo là 482 500 tấn (FAO Stat, 1999).
          
          
          b- Thời kỳ  
          “đổi mới” sau 1988,  chấp nhận thực thi nhiều quyền sở hữu, chuyển 
          nhượng đất đai, tự do lựa chọn kế họach canh tác và buôn bán lúa gạo, 
          và kế tiếp áp dụng triệt để cải tiến kỹ thuật của Cuộc Cách Mạng Xanh
          
          
          
          Nghị quyết số 
          10 của Bộ Chính trị Đảng vào tháng 4 năm 1988 về “đổi mới” cơ chế quản 
          lý nông nghiệp, công nhận nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông 
          thôn, thừa nhận quyền sở hữu máy móc, trâu bò,  nông cụ v.v....  của 
          hộ xã viên. Nghị quyết số 5 vào tháng 6 -1993,  nới rộng thêm quyền 
          của người sử dụng đất như quyền chuyển nhượng, chuyển đổi, cho thuê, 
          thừa kế, thế chấp  quyền sử dụng đất đai. Nông dân được thuê đất đến 
          20 năm cho cây hàng niên và 50 năm cho cây đa niên. Nông dân được tự 
          do quyết định kế họach sản xuất của họ và mua các phương tiện canh tác 
          tùy ý, không phải qua hợp tác xã nữa. (Lê Hồng Nhu, 1999). Như vậy 
          trên phương diện nông nghiệp  “đổi mới” cũng chỉ là quay về lề lối cải 
          tiến truyền thống, hợp với kỹ thuật cách mạng xanh tiểu nông lúa gạo, 
          thế giới tự do áp dụng vào cuối thập niên 1960   Nông dân hưởng ứng 
          mạnh mẽ chánh sách  “đổi mới”, đặc biệt là buôn bán lúa gạo tự do. Chỉ 
          trong một năm, từ 1988 đến 1989,Việt Nam đã chuyển hướng từ một nước 
          nhập khẩu thành một nước xuất khẩu, nhờ sản lượng lúa tăng hơn 1 triệu 
          tấn trong một năm. Thành quả tốt đẹp này, các năm sau còn đựợc bổ 
          sung  bằng những cải tiến kỹ thuật của  cuộc Cách Mạng Xanh, đặc biệt 
          là tăng vụ với tưới tiêu  và sử dụng phân đạm hóa học,càng ngày càng 
          nhiều thêm, song song với phân lân (phosphát). Năm 2000, diện tích 
          trồng lúa cả nước là 7 654 000 ha,  trong  đó có 4.2 triêu ha đất có 
          tưới tiêu, làm được 2-3 vụ lúa  mỗi năm. Thống kê FAO STAT (1999) cho 
          biết  năm 1998, Việt Nam đã nhập khẩu 1 778 000 tấn phân bón hóa học, 
          phần lớn là phân đạm u rê (urea) tổng hợp từ khí naphta hay khí dầu 
          thiên nhiên. Nay có năm nhập khẩu trên 2 triệu tấn phân hóa học, có 
          thể trù liệu làm nhiều nhà máy phân đạm tổng hợp hóa học dùng khí dầu 
          của cả Biển Đông lẫn BiễnTây, từ Nam chí Bắc (và ngay cả Vịnh Bắc Bộ 
          nay đã tìm ra được nhiều mỏ  khí dầu thiên nhiên). Thời Đệ Nhất Cọng 
          Hòa, dự trù ở mỏ than Nông Sơn một nhà máy chỉ khoảng 50 000 tấn phân 
          đạm urê mà cũng là quá thừa thãi dung lượng theo nhu cầu tiêu thụ đạm 
          cho nông nghiệp lúc đó. Cũng vào thời kỳ này, nông nghiệp Đài Loan và 
          Nam Hàn, theo kỹ thuật Nhật đã dùng nhiều phân bón hóa học tăng năng 
          xuất lúa và đã và đang phát triển những nhà máy cở kinh tế bằng khí 
          naphta ở Cao Hùng (cực Nam Đài Loan) và Pusan (cực Nam Nam Hàn), dù  
          gặp nhiều khó khăn cản trở  từ phía Nhật  lẫn Hoa Kỳ.Thời đệ nhị Cộng 
          Hòa, Mỹ không chịu đài thọ và viện trợ kỹ thuật làm nhà máy phân bón, 
          vì đã quá thừa thải urê ở các nhà máy  lớn tư bản Mỹ đầu tư ở 
          Trinidad... Nhật cũng quá thừa phân đạm urê nên cũng chỉ muốn xuất 
          khẩu, hay chỉ muốn bán các nhà máy, máy móc kỹ thuật lỗi thời.   v.v... 
          Trên 600 000 ha trũng sâu đồng bằng miền Tây và vùng  Đồng Tháp,  thời 
          Pháp thuộc chỉ  trồng lúa nỗi một mùa, năng xuất  độ 1.2 tấn một ha, 
          nay  hầu như đã hòan tòan biến thành vùng lúa hai mùa vụ (có khi ba), 
          mỗi   mùa vụ  năng xuất trên 4 tấn một ha. Nhờ lúa Thần nông ngắn ngày, 
          nhờ dùng phân urê và kỹ thuật đê bao ngạn tưới tiêu bằng bơm nước đuôi 
          tôm - out board, hors bord  lật ngược và bơm điện.
          
          
          E- Nay đã xuất 
          khẩu nhiều hơn nhu cầu an ninh lương thực-lúa 
          gạo cho nước nhà, cần  thóat vòng  kềm kẹp nghèo đói của quan niệm chủ 
          yếu lúa gạo cỗ truyền, chuyển đổi qua những ưu tiên phát triển nông 
          nghiệp khác, e có khi ngòai nông nghiệp nữa 
          
          
          1-                
          
          Diện tích bình 
          quân cho mỗi người ở nông thôn nhỏ hẹp hơn trước vì dân số gia tăng, 
          lợi tức kém cỏi nghèo khổ, khuynh hướng giá lúa gạo thị trường tự do 
          quốc tế gia giảm.
          
          
           Tuy đã xuất 
          khẩu mấy năm gần đây, mỗi năm 3-4 triệu tấn gạo, nói chung nông dân 
          Việt Nam vẫn là giới nghèo khổ nhất nước nhà so với các giới khác. 
          Thời lập dinh Phiên Trấn, tỉnh Gia Định, gồm luôn cả đại phố Mỹ Tho, 
          dân số chỉ có 4 vạn hộ (gia đình).  Năm 1970, nông thôn Việt Nam có 
          gần 35 triệu người trên tống số là 42.7 triệu. Năm 2000, nông thôn 
          chiếm trên 64 triệu, trên tổng số  cả nông dân lẫn thị dân gần 80 
          triệu.Diện tích canh tác tính hai ba mùa vụ một năm, năm 1970 là trên 
          4.7 triệu ha và năm 2000 là  trên 7.6 triệu ha. Như vậy bình quân mỗi 
          người dân nông thôn năm 2000 (0.1187 m2) khai thác còn ít đất ruộng 
          sinh sống hơn 30 năm trước (0.1342 m2). Một gia đình nông thôn 6 người, 
          bình quân chỉ canh tác 1ha đất ruộng. Sản lượng lúa tăng hơn gấp ba 
          lần, từ 10.173  triệu tấn năm 1970 lên 32.554 triệu tấn năm 2000,  nhờ 
          mùa vụ tăng và năng xuất tăng gấp đôi, bình quân mỗi người nông dân 
          cũng tăng từ 290.6 kg lúa lên 508.6 kg trong thời gian này. Nhưng bình 
          quân giá gạo xuất khẩu trên thế giới trong suốt 30 năm qua đã giảm hơn 
          bốn lần, từ 765 USD năm 1976 xuống chỉ còn 176 USD  tháng 5 năm 2000, 
          khi mọi quốc gia Á châu: Việt Nam, Thái Lan, Ấn Độ, Trung Quốc xuất 
          khẩu gạo, không có tài trợ của chánh phủ như Hoa Kỳ, đều được mùa. Giá 
          gạo Việt Nam lại luôn luôn thấp hơn gía gạo đồng hạng và đồng chất 
          lượng từ 20 đến 60 USD. Do đó, dù cải tiến kỹ thuật theo Cách Mạng 
          Xanh phát triển mau lẹ ở Việt Nam, theo kịp đà cải tiến thế giới, phổ 
          thông thêm các giống lúa mới  cao năng hơn các giống lúa lùn “Thần 
          Nông” như các lúa lai - hybrid rice đời một - F1 của Trung Quốc ở miền 
          Bắc và Bắc Trung Bộ  (lúa lai được phát triển đại trà ở Trung Quốc từ 
          năm 1975, năm 1994 đã chiếm 15.7 triệu ha, nghĩa là 50% tổng diện tích 
          trồng lúa ở Trung Quốc.  Việt Nam khởi sự trồng 100ha lúa lai từ năm 
          1991,  năm 2000 qua sự giúp đở kỹ thuật của Lương Nông Quốc tế - FAO 
          từ năm 1991-94,  đã chiếm diện tích 340 000 ha, năng xuất một vụ trung 
          bình là 6,45 tấn/ha); tương lai sẽ là kiểu lúa siêu năng (super 
          rice là lúa có cơ cấu thân lá, gié...hấp thu quang tổng hợp lớn 
          hơn kiểu thân lùn thế hệ lúa Thần Nông, chỉ mới cố gắng lai tuyển, 
          chưa thành công ở IRRI) hay  lúa C4,  chu kỳ hấp thu ánh sáng như cây 
          bắp  không bao giờ bảo hòa theo 4 carbon thay vì C3 như cây lúa hiện 
          tại, hoặc như các lúa thay đổi gen MGO v.v..., cao năng cao phẩm kháng 
          sâu, kháng bệnh, thích hợp đất đai nghèo nàn khó khăn.... hơn nữa. 
          Nhưng lợi tức trồng lúa và đời sống nông dân Việt Nam vẫn còn rất thấp. 
          Ở đồng bằng sông Cửu Long,  trung bình một gia đình  6 người  thu được 
          lợi tức 570 USD, nghĩa là  96 USD cho mỗi người, mỗi vụ lúa (D. Dawe, 
          IRRI - 2000), dưới xa mức lợi tức trung bình dân  chậm tiến nghèo khổ 
          là 300 USD mỗi người. Con đường tăng xuất khẩu thêm lúa gạo lâm vào 
          ngỏ bí, nhất là khi thị trường lúa gạo xuất khẩu trên thế giới tương 
          đối eo hẹp. Năm 1999, mức xuất khẩu lúa gạo tòan thế giới chỉ đạt 25 
          triệu tấn, 4% tổng sản lượng thế giới, trong khi năm 1998 lúa mì đạt 
          108 triệu tấn chiếm 18% tổng sản lượng  và bắp đạt 75 triệu tấn, chiếm 
          12 % tổng sản lượng. Phải tìm cách đổi hướng phát triển, thoát ly vòng 
          kiềm tỏa nghèo đói của lúa gạo; e có khi còn phải thóat  ly cả đặt ưu 
          tiên phát triển nông nghiệp nữa?  
          
          
          2-                
          
          Quan niệm lại 
          vấn đề nước
          
          
          a-                
          
          
          Xét lại chương trình làm ngọt trồng nhiều vụ lúa
          
          
          Vì hướng về 
          nông nghiệp, nên các chương trình trị thủy, thủy lợi từ trước đến nay 
          ở các tỉnh Hậu Giang cũng như Tiền Giang, đều đặt ưu tiên đào kinh 
          tránh lũ lụt, tăng vụ lúa. Nhưng lũ lụt sau 1975, lại có phần làm ngập 
          sâu hơn, thời gian lâu hơn  trước (Nguyễn Minh Quang, tạp chí Đi 
          Tới số 25 - 2000). Vì các công trình thủy lợi phục vụ nông nghiệp 
          thực hiện quá nhanh trong vùng trồng lúa nổi, và đê đập ngăn mặn xây 
          dựng ở cuối đường thóat thủy hạ lưu vùng bờ biển Đông, bờ biển Tây. 
          Thêm vào đó, một số  đường giao thông mới cũng làm cản trở lũ Đồng 
          Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên thóat ra biển Đông và biển Tây.  Cũng 
          như phát triển kinh rạch ở Cam Bốt làm số lượng  nước chảy tràn qua 
          biên giới Miên -Việt  nhiều hơn.  Các kinh đào mới ở Tứ giác  Long 
          Xuyên Đào theo hướng Tây Bắc- Đông Nam nối kinh Vĩnh Tế với kinh Mạc 
          Cần Dương  từ Châu Đốc đến Tịnh Biên (Nhà Bàng), đặc biệt là kinh Trà 
          Sư, tạo điều kiện cho nước lũ từ Cam Bốt chảy vào Việt Nam. Phong trào 
          nuôi tôm, cá nước lợ, nước mặn... tăng nhiều lợi tức cho nông dân và 
          thâu nhiều ngọai tệ cho nước nhà, hơn là trồng nhiều vụ lúa ở  vùng  
          bờ biển Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng v.v... Vì vậy nông dân  không 
          hưởng ứng  chương trình  ngăn mặn làm ngọt cácvùng này, hầu tăng vụ. 
          Ban đêm ở vùng U Minh, họp nhau phá đập ngăn mặn, “dẫn mặn nhập điền”, 
          khi không được phép chuyển đổi một hai vụ lúa như ở vài huyện phía nam 
          quốc lộ 1A, tỉnh Bạc Liêu, qua nuôi trồng thủy hải sản.
          
          
           b- Làm đường 
          đê lớn chống lũ tràn và  bao ngạn phát triển bảo vệ thị trấn mới cũ, 
          không phải để tưới tiêu. Tạo dựng “một văn minh kinh - đường xa lộ”, 
          “văn minh thành thị, thay “văn minh xã thôn nông dã - agrarian” 
          thay cầu khỉ, cầu ván bằng cầu bê tông vồng cao trên sông như cầu Long 
          Biên (Doumer) trên sông Hồng, khởi sự bằng cầu Mỹ thuận trên sông Tiền, 
          cầu Cần Thơ trên sông Hậu đang làm?
          
          
          Nước lũ tràn bờ 
          sông Hậu chỉ độ 20% tổng lượng nước lũ tràn bờ sông Tiền  phía tả ngạn 
          sông này vào các vùng trũng Đồng tháp Mười. Vậy không có lý do gì 
          không nâng cấp, nâng cao con đường huyết mạch số 91, nối liền Cần Thơ, 
          Châu Đốc  và qua Nhà Bàng (Tịnh Biên) lên Tà Keo trên  lãnh thổ Miên, 
          sau khi đã nâng cấp quốc lộ 1A, con đường vựa lúa,  vựa cá tôm,  nối 
          Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu,  Năm Căn (Ngọc Hiền) đến tận Rạch Tàu, 
          Đất Mũi. Và mở rộng thêm các con đường 80, 61, và đặc biệt là con 
          đường (và Kinh chảy suôi dòng) 63, nối liền Rạch Giá với Cà Mau... Đê 
          đường  này phải hoàn toàn chống lũ tràn bờ sông Hậu, như cha ông chúng 
          ta đã làm từ các đời Lý, đời Trần dọc theo Sông Hồng miền Bắc với 
          những phương tiện thô sơ hơn. Tuy không đông bằng nông thôn, thị dân 
          nước ta năm 2000 đã trên 16 triệu, vấn đề mở mang thị trấn, đặc biệt 
          các thị trấn nông thôn định cư các hộ vô gia cư, nhà cửa khang trang 
          thay vì tường đất lợp lá dừa nước lụp xụp, dọc dài các kinh lớn nhỏ 
          hiện nay ở nông thôn miền Nam. Đê đường bao ngạn là để bảo vệ các thị 
          trấn mới cũ, ở các vùng ngập lũ,  lũ sông Cửu Long hay ngập úng vì mùa 
          mưa địa phương như đã đề cập ở trên.  Trong vòng đê, vét thêm đất 
          trũng làm hồ chứa lũ và tích trử nước ngọt mùa nắng cho thị trấn. Nơi 
          đất đắp lên cao, dùng làm hạ tầng cơ sở hành chánh, xã hội, giáo dục, 
          y tế, nhiên hậu núp tránh lũ lụt quá cao hay lỡ khi đê vỡ hay bị sóng 
          thần - tsunami phá hại như ở Gò Công, gọi là bảo lụt khốc liệt năm 
          Thìn 1904 (?) v.v... Tóm lại kích cầu giai đọan mới không đương nhiên 
          là đa nghiệp hóa nông nghiệp, dù rằng các vùng đất không cầm thủy, ráo 
          nước  dưới bóng dừa, chôm chôm hay nhãn... có thể trồng xen kẻ cây ca 
          cao công nghệ. Bớt trồng lúa, thay vào đó xây dựng hạ tầng cơ sở thị 
          trấn, chỉnh trang gia cư nông thôn miền đồng bằng, phát triển công 
          nghệ và dịch vụ. Tiếp tục công trình xây dựng Hà Tiên, Phú Quốc, Thổ 
          Chu, bờ biển từ Hà Tiên đến Rạch Giá thành một vùng du lịch biển như 
          suốt bờ biển duyên hải Nam Trung Bộ từ Nha Trang đến Vũng Tàu. Xây 
          dựng mau lẹ hơn hạ tầng cơ sở  công nghệ dầu khí, hoặc ở Cà Mau (coi 
          chừng đất than  bùn không chưn lún sập hư hết hạ tầng cơ sở như ở châu 
          thổ các sông  vùng  Vịnh San Francisco) hoặc ở Sóc Trăng (quận huyện 
          còn nhiều đất trống), dựa trên khám phá dầu khí Thổ Chu và có khi cả 
          vùng Nam Côn Sơn  (Vĩnh Châu - Bạc Liêu chỉ cách Côn Sơn chừng 100 hải 
          lý) và vùng vịnh Biển Tây khác (cần dò tìm thêm dầu, khí cộng tác thêm 
          với Cam bốt và Thái Lan, ngoài Mã lai hiện nay). Kỹ thuật làm đê đường, 
          kinh mương, tái tạo vài vùng ẩm thấp làm độn giữ nước lụt và nước biển 
          dâng cao,  phải học theo lề lối tân tiến kỹ sư Hoà Lan trên đất nước 
          châu thổ Hoà Lan,  đã lấp biển Zuyderzee trước đây, nhưng nay phải tạo 
          thêm nhiều hồ chứa để đất than bùn khỏi sập lún và để tích trử nước lũ 
          ra vào,  như những Biển Hồ Tonle Sap nhỏ Hậu Giang v.v...Xét lại chính 
          sách đất đai gia cư, như đã xét lại chính sách ruộng đất tập thể, 
          thiết lập một hệ thống ngân hàng mới cầm cố thế chấp đất đai,  nhà cửa 
          tư nhân như đã làm trên phương diện nông nghiệp với Nông tín cuộc, với 
          Ngân hàng phát triển nông nghiệp thời Cộng Hòa, nhưng tân tiến hơn v.v...
          
          
          3-                
          
          Xử lý hợp lý 
          nguồn nước sông Hậu cũng như sông Tiền
          
          
          Mặc dù thừa 
          nước bị  lũ lụt, ngập úng mùa mưa, vùng Hậu Giang cũng như Châu thổ 
          sông Cửu Long sẽ thiếu nước dùng trong 30 năm tới, đặc biệt vào mùa 
          nắng (Pingali và Rosegrant  Confronting the environmental 
          consequences of the green revolution -1996). Do đó, e phải tạo 
          thêm (chứ không phải chống đối vô hiệu như trường hợp các đập thượng 
          nguồn sông Mê Kông ở Trung Quốc, nhưng tăng thêm nghiên cứu địa chất 
          sâu rộng, giảm thiểu tối đa tai hại môi sinh, đập vở hay tràn bùn, 
          thiếu nước v.v..) hồ đập thủy điện miền núi phía Bắc, trên dãy Trường 
          Sơn, hồ lớn chứa lũ, nhiên hậu cung cấp nước sạch phèn, không ô nhiễm 
          cho vùng Đồng Tháp Muời, khu Tứ giác Long Xuyên v.v... Trong tương lai, 
          e có lẽ còn phải nghĩ đến  đào kinh kinh ngầm (hay cầu nước cao 
          aqueduc nếu cần) từ Kratíe hay trên nữa từ Stung Streng, đưa nước sông 
          Cửu Long tiếp sông Bé - sông Đồng Nai, sông Vàm Cỏ Đông  (như Ca Li đã 
          làm, đưa nước miền Bắc hay Arizona, Colorado về cho miền Nam Ca Li như 
          đã thực hiện từ thập niên 1930, ở Hoa Kỳ) cung cấp nước cho miền Đông 
          Nam Bộ, đã có nhiều dấu hiệu thiếu nước rồi đó.
          
          
          (California  
          tháng 8, có bổ sung vào giữa tháng 9 năm 2005)
          
          
          * Tôn Thất 
          Trình: Tốt nghiệp kỹ sư nông học (Pháp, 1952); nguyên Bộ trưởng Canh 
          nông và Cải cách Điền địa của Việt Nam Cộng Hòa. Sau 1975 làm việc cho 
          tổ chức Lương Nông Quốc Tế (FAO) tại Rome với tư cách Thư Ký của  Ủy 
          Hội Quốc tế về Lúa Gạo (Secrétaire de la Commission Internationale du 
          Riz de la F AO).
