TS Phạm Cao Dương
Trong
một bài tham luận nhan đề “Lịch Sử, Sự Thật và Sử Học” đăng trên tờ Đoàn
Kết số 403, ấn hành vào tháng 6 năm 1988 tại Paris, nước Pháp, có lẽ
in lại từ tờ Tổ Quốc số tháng Giêng năm 1988, Hà Văn
Tấn, một sử gia có uy tín đương thời [i], đã nêu lên một số những nhận định quan
trọng liên hệ đến tình trạng nghiên cứu lịch sử nước nhà ở miền Bắc hồi trước
năm 1975 và ở toàn quốc từ sau năm này.
Đối với những người làm công việc nghiên cứu lịch sử, bài viết của Giáo
Sư Hà Văn Tấn có thể được coi là đơn giản và ngắn cho một vấn vô cùng rộng lớn
và là chủ yếu trong sinh hoạt tư tưởng nói riêng và văn hóa nói chung ở Việt
Nam hiện tại; nhưng đối với những người theo dõi các biến chuyển xảy ra ở trong
nước trong ngót ba thập niên vừa qua, nó đã phản ảnh một sự thay đổi
trong cách nhìn những công trình sử học đã được thực hiện, từ đó cuộc sống,
điều kiện làm việc và ước vọng của các nhà sử học Việt Nam dưới chế độ Xã Hội
Chủ Nghĩa là như thế nào.
Vào thời điểm bài của Hà Văn
Tấn được viết, người ta đã kỳ vọng rất nhiều vào một sự thay đổi và sự thay đổi
này đã được tờ Tổ Quốc gắn liền với công cuộc mà người Cộng Sản gọi là đổi mới.[ii] Điều này tiếc thay đã không xảy
ra. Ngược lại, sau ngót ba mươi năm nền sử học lại lâm vào một tình trạng
nhiều người cho là khủng hoảng: môn Sử có một lúc đã bị loại khỏi chương
trình học của bậc trung học phổ thông, sau đó được Quốc Hội Việt Nam quyết định
giữ lại; nhưng những người quan tâm đến vấn đế này và tương lai của nền
giáo dục Việt Nam vẫn không mấy tin tưởng mà vẫn còn thắc mắc là sử nào
sẽ được dạy và dạy như thếnào?
Trở về với bài của Giáo Sư Hà Văn Tấn, trong phần giới thiệu
bài này, tờ Tổ Quốc đã viết: “Trong cuộc đổi mới ở
trong nước, có lẽ các nhà khoa học xã hội là giới im lìm, thụ động nhất. Liệu bài
phê bình của Hà Văn Tấn có phải là con én báo hiệu mùa xuân của một ngành đáng
ra phải đi đầu trong việc suy nghĩ, nghiên cứu, và đặt lại một số vấn đề chính
trị, kinh tế, xã hội của đất nước?””
Mở đầu
bài tham luận, Hà Văn Tấn dẫn hai câu cuối cùng trong bài thơ cuối cùng của
mười bốn bàiMạn thuật của Nguyễn Trãi:
Ai ai đều đã
bằng câu hết
Nước chẳng còn có Sử
Ngư![iii]
và ông viết:
“”Thật
là cay đắng khi mà mọi người bị uốn cong như lưỡi câu, và chẳng ai nói lên sự
thật nữa, chẳng còn ai như Sử Ngư nữa. Sử Ngư là người chép sử nước Vệ đời Xuân
Thu nổi tiếng vì thẳng thắn, trung thực.
............
“ Ngày nay chúng ta
đang sống trong một giai đoạn mà nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật là yêu
cầu của nhân dân, của đất nước. Đã đến lúc những người chép sử, những nhà sử
học phải tự hỏi rằng: Sử bút của mình đã thật nghiêm chưa, đã viết
đúng sự thật lịch sử hay chưa?””
Hà Văn Tấn đã không trực tiếp trả lời câu hỏi kể trên nhưng gián tiếp người ta
hiểu là chưa! và nói trắng như qua lời giới thiệu của tờ Tổ Quốc, ông là người
viết bài đầu tiên phê bình một số bệnh ấu trĩ của nền sử học (Mácxít, chữ chua
thêm của người viết bài này) Việt Nam từ ba bốn chục năm nay.”Sự ấu
trĩ này đã được Hà Văn Tấn vạch ra qua hai phần nghiên cứu chuyên môn là phê
phán sử liệu và miêu tả sử liệu một bên, giải thích và đánh giá sử liệu một
bên.
Gs Trần Văn Giàu và phu nhân (ngồi) cùng các qui vị đứng từ
trái: GS. Trần Quốc Vượng, GS. Đinh Xuân Lâm, GS. Hà Văn Tấn và GS. Phan Huy
Lê.
Trong
sự phê phán sử liệu và miêu tả sử liệu, theo Hà Văn Tấn nhiều công trình nghiên
cứu sử học của Hà Nội đã sử dụng những nguồn sử liệu gián tiếp một cách thiếu
thận trọng để tìm hiểu lịch sử hiện đại, lịch sử đảng Cộng Sản cũng như lịch sử
của thời xa xưa, từ đó đã mắc phải những sai lầm trầm trọng.
Ba
trường hợp điển hình đã được ông nêu ra là trường hợp của bài thơ Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư, trường
hợp quyển Binh Thư Yếu Lược và trường của một bức thư của Hồ
Chí Minh gửi các học sinh. Bài Nam
Quốc Sơn Hà Nam
Đế Cư thường được người ta hiểu là của Lý Thường Kiệt. Nhưng
theo Hà Văn Tấn không có một sử liệu nào cho biết điều này cả và do đó không
một nhà sử học nào có thể chứng minh điều này được.
Cũng theo ông thì quyển Binh Thư Yếu Lược là một quyển sách
giả từ đầu đến cuối, đã được các nhà nghiên cứu ở Viện Hán Nôm của Hà Nội chứng
minh là giả nhưng khi viết về cuộc kháng chiến chống Nguyên hay về Trần Hưng
Đạo, một số người vẫn sử dụng quyển sách giả này. Thậm chí có lãnh tụ đã trích
dẫn nó trong diễn văn của mình. Còn bức thư của Hồ Chí Minh thì sai
rất nhiều so với văn bản đầu tiên còn được cất giữ ở Cục Lưu Trữ Trung Ương.[iv] Nhiều văn kiện khác, theo Hà Văn Tấn,
cũng vậy.
Trong
việc giải thích và đánh giá sử liệu, tác giả của bài tham luận đã chỉ trích các
nhà sử học Mácxít Hà Nội đã mắc bệnh thiên lệch, do đó đã bỏ qua nhiều sự thực
lịch sử. Để chứng minh, ông đã nêu lên sự kiện là do nhu cầu phải
tập trung tinh lực cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, các nhà viết sử chỉ
chú ý đến các trang sử chống ngoại xâm trong lịch sử dân tộc, trong khi hàng
loạt những vấn đề về kinh tế, xã hội đã không được chú ý đến một cách đầy
đủ. Đồng thời cũng để đề cao truyền thống, các vị này thường chỉ đánh giá
một chiều, chỉ nhìn thấy cái tốt và dường như không chấp nhận có truyền thống
xấu. Trong địa hạt kỹ thuật, ông cho việc đề cao quá đáng truyền thống kỹ
thuật của người Việt như trường hợp của ông Nghè Vũ Hữu hồi cuối thế kỷ XVI ,
người đã tính đủ số gạch xây tường không thừa, không thiếu một viên là một
việclàm lố bịch. Cũng vậy đối với cách định giá truyền thống làng xã cổ truyền
hay các nhân vật lịch sử.
Nhìn
chung và đứng về phương diện nghiên cứu sử học thuần túy mà xét, những nhận xét
của Hà Văn Tấn kể trên là rất nghiêm chỉnh và vô tư, khách quan, đặc biệt khi
ông viết về những nhận định của các nhà sử học Hà Nội về các nhân vật lịch sử.
Ông viết:
“ “Cũng thường
thiên lệch, khi chúng ta đánh giá các nhân vật lịch sử. Con người là cả một hệ
thống những mối liên hệ phức tạp, bị qui định bởi các điều kiện xã hội, tự
nhiên và lịch sử. Thiếu một sự xuất phát từ chủ nghĩa lịch sử dường như là căn
bệnh chung của chúng ta. Một số người đã chê trách các nhân vật lịch sử vì họ
không giống ta. Một số lại quá yêu các nhân vật đó, đến chỗ miêu tả tư duy và
hành động của họ cứ y như là họ đã được học tập chủ nghĩa Mác-Lênin”.”
Nhưng
chi tiết hơn và kỹ hơn để tìm kiếm những triệu chứng của sự đổi mới, người đọc
khó có thể đồng ý với người viết lời giới thiệu trên tờ Tổ Quốc, chưa nói tới
chuyện đi xa hơn, dù cho người ta có tính lạc quan cho rằng Hà Văn Tấn đã mượn
lời Nguyễn Trãi để nói lên tâm trạng của mình, đặc biệt khi ông viết:
“Cho
đến nay đọc câu thơ Nguyễn Trãi, chúng ta vẫn như tê tái với nỗi đau của ông.
Làm sao có thể sống nổi trong một xã hội mà mọi sự thật đều bị che đậy hay
xuyên tạc. Trong những thời kỳ như vậy, người chép sử, nhà sử học, những người
nói lên sự thật, không biết bị dằn vặt đến thế nào?””
Lý do
chính yếu khiến cho người ta phải dè dặt là những sự bất ổn - tôi không muốn
dùng hai chữ ấu trĩ của báo Tổ Quốc mà tôi nghĩ là quá nặng - kể trên chỉ là
những bất ổn có tính cách cục bộ nhất thời do một cá nhân hay một số các nhà
nghiên cứu sử hay liên hệ đến sử học mắc phải, còn bản chất của nền sử học Mác-
Xít thì vẫn còn nguyên vẹn. Các nhà sử học ở miền Bắc thời trước
năm 1975 và ở toàn quốc Việt Nam kể từ sau năm 1975, những đồng nghiệp của Hà
Văn Tấn vẫn tự coi là người Mácxít; đồng thời cũng theo Hà Văn Tấn có nhiều học
giả tư sản vẫn nghi ngờ tính cách khách quan của sử học, do đó trách nhiệm của
những người này là phải bác bỏ những luận điệu đó bằng cách chứng minh rằng nền
sử học của họ có khả năng đạt được sự thật khách quan thay vì tiếp tục góp thêm
chứng cứ cho những luận điệu đó.
Có
điều ai cũng biết là ở chế độ Cộng Sản kết quả của những công trình nghiên cứu
của các nhà chuyên môn trong các ngành học, đặc biệt là sử học, kể cả những tác
giả lớn, không được tự do phổ biến mà phải qua nhiều sự kiểm soát vô cùng kỹ
càng nếu không nói là khắt khe trước khi được đem ấn hành bởi các cơ sở của nhà
nước. Vậy tại sao các sơ hở kể trên lại có thể xảy ra được? Lỗi ấy
nếu đổ cho cá nhân các nhà nghiên cứu thì thật là tội nghiệp cho họ. Còn
nếu không đổ lỗi cho họ thì đổ lỗi cho ai bây giờ? Không lẽ bảo nó là lỗi
của cả chế độ hay đúng hơn của chính chủ nghĩa Mác-Lênin mà quan điểm của chủ
nghĩa này đã được các nhà sử học Việt Nam của chế độ vận dụng để tìm hiểu lịch
sử nước nhà chỉ là một phần.
Trong
bài tham khảo kể trên, trong phần nói về truyền thống đánh giặc giữ nước trong
lịch sử dân tộc, Hà Văn Tấn viết rằng: “Các nhà viết sử chỉ chú ý
đến các trang sử chống ngoại xâm…” Nhưng một sử gia khác, Văn Tạo,Viện
Trưởng Viện Sử Học, trong “Lời Giới Thiệu” tác phẩm Sử Học Việt Nam
Trên Đường Phát Triển do Ủy ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam thuộc Viện Sử
Học biên soạn [v], cũng như trong bài Khoa học lịch sử Viêt
Nam trong mấy chục năm qua in trong tác phẩm này [vi], lại khẳng định một cách rõ ràng là Đại
Hội Lần Thứ IV của Đảng đã chỉ ra rằng: Nhiệm vụ hàng đầu của các ngành
khoa học xã hội (trong đó có sử học -Văn Tạo chú thích thêm) là tiếp tục làm
sáng tỏ những đường lối, chính sách của cách mạng Việt nam dưới ánh sáng của
chủ nghĩa Mác-Lênin và trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm cách mạng đã tích
lũy được[vii] và sử học có thể cần thiêt phải đóng
góp một phần nhất định của mình vào nhiệm vụ trọng đại này[viii] nhằm góp phần đẩy mạnh sự nghiệp
đấu tranh dựng nước và giữ nước hiện nay”[ix].
Các
tác giả khác có bài in trong tác phẩm kể trên cũng luôn luôn nói tới (hay bắt
buộc phải nói tới) vai trò lãnh đạo của Đảng và nhiệm vụ của sử học theo chiều
hướng tương tự. Nguyễn Hồng Phong lại còn nói rõ hơn về nhiệm vụ chính trị của
sử học trong phần mở đầu của bài viết của ông như sau:
“”Bởi
vì sự phát triển của khoa học không bao giờ chỉ là do những nhu cầu đại học, có
tính hàn lâm viện, hoặc do sự xuất hiện những tài năng bác học nào đó, mà trước
hết là do yêu cầu của cuộc sống, của thực tiễn đấu tranh và phát triển xã hội,
cho nên sử học, một bộ môn khoa học xã hội có tính cách chiến đấu, tính chính
trị cao, đã phát triển mạnh trong hai cuộc kháng chiến vừa qua, nhất là thời kỳ
xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống Mỹ cứu nước là có thể cắt nghĩa được.”
Trong
hoàn cảnh kể trên, bảo rằng các nhà viết sử chỉ chú ý đến các trang sử chống
ngoại xâm thì quả là tội nghiệp cho họ. Nhu cầu đã được nêu lên, mục tiêu
đã được vạch rõ, đường lối, quan điểm đã có sẵn coi như ánh sánh soi đường,
dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng, qua những văn kiện,
những nghị quyết của Đảng, bằng những lời căn dặn của các lãnh tụ như Trường
Chinh..., với tư cách thay mặt cho Trung Ương Đảng trong hội nghị tổng
kết 10 năm công tác sử học (tháng 12 năm 1963), các nhà sử học kể trên còn có
thể làm gì khác hơn là ráng sức tuân theo, không còn con đường nào khác.
Trong
khi đó trong việc lựa chọn đề tài nghiên cứu, người ta không thể loại ra ngoài
ý muốn, sự thích thú, khả năng và kinh nghiệm chuyên môn của người làm công
tác. Không có cảm tình, không cảm thấy thú vị, không thấy việc làm hấp
dẫn, người ta khó có thể chuyên tâm, dốc hết thì giờ, lòng dạ vào công tác
được. Những lỗi lầm do đó dễ dàng bị nhắm mắt bỏ qua, đặc biệt khi những
lỗi lầm đó lại phục vụ cho nhu cầu chính trị liên hệ tới nhiệm vụ mà ngành sử
học bị Đảng đòi hỏi phải có, dẫn xuất từ Đảng tính và chiến đấu tính của
nó.
Cũng
vậy, sử học đã mất đi tính cách nghệ thuật phần nào nó có. Trường hợp của
Văn Tạo khi ông viết và cho xuất tác phẩm Sử Học và Hiện Thực là điển
hình trong đó ông đã dùng 10 chương để viết về 10 cuộc đổi mới trong lịch sử
Việt Nam[x]. Sách được xuất bản năm 1999, sau hơn mười
năm chính sách đổi mới được thi hành và chế độ Cộng Sản tỏ ra vẫn còn vững
mạnh. Hai chữ đổi mới đã được ông dùng song hành với hai chữ cải cách và
thay thế cho hai chữ cách mạng thông dụng trước đó, đặc biệt trong thời gian
người Cộng Sản mới chiếm được miền Nam., thời cách mạng đã trở thành đồng nghĩa
với chế độ, với chính quyền, với quyền uy, với quyền sinh, quyền sát.
Liên
hệ tới sự thực và sử học, sau Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng , một sử gia kiêm
giáo sư sử học uy tín khác của miền Bắc Việt Nam thời trước năm 1975 và của cả
Việt Nam sau năm này, trong dịp qua Mỹ vào cuối thập niên 1980 đầu thập niên
1990 khi cho xuất bản một tuyển tập trong đó có 5 bài viết của ông ở hải ngoại
dưới nhan đề Trong Cõi, Những Ý Kiến về Lịch Sử, Truyền Thống và Hiện
Trạng Dân Tộc của Một Sử Gia Trong Nước[xi] cũng hé mở cho người thấy ít nhiều
chi tiết quan trọng.
Tiếc
rằng, nói như lời của Nhà Xuất Bản của tác phẩm này, ông chỉ là con chim lạ đến
đây ngứa cổ hót chơi, nhưng lại không được hót trên quê hương mình[xii]. Người ta chờ đợi ông viết thêm nhưng
cũng theo nhà xuất bản sách của ông: “Sau này, chúng tôi đã đọc được
một số bài viết đả kích đích danh cá nhân của ông trên các báo chí nhà nước.
Ông được cho nghỉ dạy, cô lập, về hưu non, với số lương hàng tháng mà ông cho
là chỉ vừa đủ uống 3 chai bia (ông vẫn đùa với chính mình). Chúng tôi
cũng nghe nói, tên tuổi của ông, cũng như Bùi Tín hay Dương Thu Hương, đã trở
nên một điều cấm kị trên những cơ sở truyền thông trong nước”.[xiii]
Mới
hơn và được nhiều người biết tới hơn là sự tiết lộ của một sử gia kiêm giáo sư
uy tín khác, Phan Huy Lê. Giáo Sư Phan Huy Lê ngoài tư cách là một giáo
sư sử học với nhiều công trình xuất bàn có giá trị còn là chủ tịch Hội Khoa Học
Lịch Sử Việt Nam, khi trả lời một cuộc phỏng vấn của Nhật Báo Người
Việt xuất bản ở Orange County thuộc tiểu bang California, Hoa Kỳ, ngày
18 tháng Ba năm 2005 và được lập lại trong cuộc phỏng vấn của ký giả Khôi
Nguyên, cũng của Nhật báo Người Việt và được đăng trong giai phẩm Xuân
Bính Tuất của báo này về hình tượng anh hùng Lê Văn Tám, một nhân vật hoàn toàn
không có thật[xiv] cũng như một số nhân vật lịch sử
khác như Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn....
Theo
Giáo Sư Lê, nhân vật Lê Văn Tám này do Trần Huy Liệu, một sử gia tiền bối của
ông, người đã từng làm viện trưởng Viện Sử Học và chủ biên của tờ Nghiên
Cứu Lịch Sử trong thời chiến tranh, ngụy tạo ra và Trần Huy Liệu có
nhờ Giáo Sư Lê sau này nói lại khi có dịp. Giáo Sư Lê có hứa là sẽ công
bố sự thật một cách dầy dủ trong nay mai thôi và khuyên độc giả hãy kiên nhẫn
chờ.
Nhưng
không cần phải có thêm chi tiết, chỉ riêng với mấy chữ hoàn toàn không
có thật là đủ để người ta đánh giá Trần Huy Liệu và những công trình
của sử gia Mácxít này, cũng như của một phần không nhỏ của những công trình của
nền sử học Mácxít Việt Nam.
Nhiều câu hỏi cần phải được đặt ra và các người nghiên cứu lịch sử Việt Nam trong tương
lai sẽ phải vô cùng vất vả mới tìm ra sự thật.
Đó là chưa kể tới nguồn gốc bộ trưởng Bộ Tuyên Truyền trong chính phủ đầu tiên
của Trần Huy Liệu trong chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh thời cuối năm 1945. Một
người cầm đầu guồng máy tuyên truyền mà lại cầm đầu ngành sử học ở trong nước
thì ngành sử học ấy sẽ là như thế nào?
Bên cạnh Trần Huy Liệu, ta cũng cần phải kể thêm Trần Văn Giàu, một giáo sử học
tiên khởi khác của nền sử học Mác xít Việt Nam, người đã bị người dân miền Nam,
đặc biệt là các tín đồ của Phật Giáo Hòa Hảo tố giác là đã có trách nhiệm trong
vụ ám hại Giáo Chủ Huỳnh Phú Xổ của họ cũng như nhiều nhân vật lịch sử của miền
Nam khác trong đó có Bùi Quang Chiêu. Ông Trần Văn Giàu vẫn còn sống và đã giữ
im lặng khi bị hỏi về sự kiện này kể cả hỏi trực tiếp ở trong nước cũng như khi
ông sang Pháp, viện cớ “là chuyện đã xảy ra lâu rồi và vì hồi đó Cách Mạng cò
ấu trĩ” theo lời một giáo sư đại học Việt Nam ở Pháp.
Không
trả lời khi bị hỏi phần nào cho phép người hỏi tự trả lời rằng điều mình muốn
biết là có thật, không còn gì phải thắc mắc nữa nhất là cho một sự kiện quan
trọng như vậy. Nhưng đó mới chỉ là một vấn đề liên hệ tới con người như là một
con người bình thường. Trong phạm vi nghiên cứu khoa học, người nghiên cứu ngụy
tạo ra sự kiện, ngụy tạo ra nhân vật là một việc làm không thể tha thứ được.
Tuy nhiên có một điều người ta thắc mắc là các vị giáo sư tiên khởi của nền sử
học Mácxít Việt Nam
này đã được huấn luyện ở đâu và như thế nào để sau này lãnh những nhiệm vụ mà
họ được trao phó?
Bây giờ nói tới quan điểm Mácxít, quan điểm được những người Cộng Sản Việt Nam (phân biệt
với các sử giavà các nhà sử học) ca tụng như một nền sử học tiến bộ của cả nhân
loại, là siêu việt. Quan điểm này đã hình thành từ trong hoàn cảnh của thế giới
tây phương của hơn một thế kỷ trước, căn cứ vào những hiểu biết về lịch sử nhân
loại, được hiểu là nhân loại tây phương của hơn một thế kỷ trước và bởi một nhà
tư tưởng có căn bản học vấn và kiến thức nặng về triết học hơn là sử học, ở đây
là triết học và sử học của thế giới tây phương thời đó. Từ đó tới nay nhân loại
đã không dậm chân tại chỗ và sử học đã trở thành một khoa học vừa độc lập vừa
tổng hợp.
Những
thành quả của sử học trong hơn một thế kỷ qua ở hay về tất cả các lục địa, Âu
Châu, Á Châu, Mỹ Châu chắc chắn đã vượt xa khả năng nhận định của một cá nhân
rất nhiều, nếu nói một cách khiêm nhường như vậy. Các nhà sử học bị gán
cho, bị bắt buộc phải, hay tự nhận là Mác xít Việt Nam trong hoàn cảnh của ít ra là
quá khứ trước đây, chắc chắn đã không có dịp thấy được tất cả những tiến bộ đó.
Thế nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng các vị này đã đưa ra những nhận xét như đã
hết thời rồi các quan điểm coi sử học như là sử ký, tức chỉ ghi lại những sự
kiện lịch sử mà thôi, hay sử học tư sản và phong kiến chỉ qui vào nhiệm
vụ xác định sử liệu miêu tả biến cố..., hay các sử gia phong kiến, tư sản coi
lịch sử chủ yếu là lịch sử cá nhân xuất chúng, còn quần chúng nhân dân thì bị
gạt ra ngoài đối tượng của sử học, xem lịch sử là sự kết hợp ngẫu nhiên những
mặt sinh hoạt và hoạt động khác nhau của con người trong xã hội, mà trong đó
hoạt động trí thức, hoạt động tư tưởng, văn hóa... có vai trò chi phối, thậm
chí quyết định nhất, xem lịch sử chỉ là những hoạt động của những cộng đồng
người đã đạt tới một trình độ văn minh nào đó.
Còn
hàng loạt dân tộc bị coi là dã man đều bị loại ra bên lề đối tượng của sử
học... Thật là đáng tiếc! Phải chi những nhận xét này chỉ áp dụng giới hạn vào
Việt Nam
thì may ra còn có thể chấp nhận được. Từ những qui luật đã có sẵn, người ta đã
buộc các sử gia Việt Nam
phải tìm ra những giai đoạn - cũng được vạch sẵn - phát triển của dân tộc, cũng
nguyên thủy, cũng chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ
nghĩa..vân...vân...
Trong khi đó thì các sự kiện căn bản liên hệ tới toàn thể mọi khía cạnh của cuộc sống của dân tộc chưa được khôi phục một cách đầy đủ, trọn vẹn và chính xác, cũng như các tài liệu chưa được sưu tầm đầy đủ và cặn kẽ, vô tư vì hoàn cảnh chiến tranh, nghèo nàn, chậm tiến của đất nước.
Trong khi đó thì các sự kiện căn bản liên hệ tới toàn thể mọi khía cạnh của cuộc sống của dân tộc chưa được khôi phục một cách đầy đủ, trọn vẹn và chính xác, cũng như các tài liệu chưa được sưu tầm đầy đủ và cặn kẽ, vô tư vì hoàn cảnh chiến tranh, nghèo nàn, chậm tiến của đất nước.
Người ta không thể chỉ dựa trên một khía cạnh đơn thuần của tổ chức xã hội,
luôn cả một khía cạnh của sinh hoạt của một xã hội ở một thời điểm nào đó để
xác định bản chất nào đó , từ đó qui luật phát triển của xã hội đó. Lý do
là vì đời sống con người phức tạp, xã hội con người do đó không đơn giản để
người ta có thể qui về một lý luận có tính cách nhất nguyên và quyết
định.
Nhưng
những người chủ trương theo quan điểm Mácxít phải hiểu là tại sao ở các nước
không Cộng Sản, nơi các sử gia không có Đảng lãnh đạo, không có các lãnh tụ căn
dặn, chỉ đường lại không mấy ai theo Mácxít. Lý do là vì trong việc tìm
hiểu quá khứ vô cùng phong phú, vô cùng phức tạp của một dân tộc, nói riêng,
của cả loài người, nói chung, người ta không muốn tự đóng khuôn mình vào một
đường lối duy nhất để rồi phải uốn cong các sự kiện lịch sử, các biến cố lịch
sử theo một phong cách lý luận đã có sẵn, giống hệt như khi đi du ngoạn trên
một cánh đồng đầy hoa cỏ, chim muông mà phải đi theo một con đường độc đạo vào
lúc mặt trời đã khuất, dưới ánh sáng của môt ngọn đèn bấm.
Người
du ngoạn trong trường hợp này chỉ còn nhận ra sự vật bằng thị giác qua ánh sáng
của ngọn đèn bấm mà thôi, còn bao nhiêu những chỗ khác đã bỏ sót, những hiện
tượng khác đã không thấy được. Bao nhiêu giác quan khác đã không được sử
dụng. Đó là ta chưa nói tới hình thể, màu sắc của sự vật dưới ánh sáng của ngọn
đèn bấm đã bị đổi dạng, đổi màu. Các giai đoạn của quá khứ của dân tộc đó
đã bị gán cho những cái tên chưa chắc đã có. Giới nông dân bị biến thành
giai cấp trong khi thực sự thì trong những thế kỷ trước và luôn cả trong thế kỷ
vừa qua hoạt động kinh tế căn bản của giới này có gì khác hơn là làm ruộng và
đa số người Việt Nam
ai chẳng xuất thân từ giới làm ruộng.
Làm gì
có một giai cấp nông dân, làm gì có một giai cấp của những người làm ruộng với
tất cả những điều kiện hình thành và tồn tại của nó giống như ở các nước tây
phương hay Ấn Độ thời cổ. Ở đây người ta phải ghi nhận một thái độ khách
quan của một số các nhà sử học Hà Nội khi các vị này đã khẳng định là không có
nô lệ trong xã hội cổ Việt nam, mặc dầu để làm vừa lòng chế độ, các vị này đã
phải đã nói đến chế độ nô tì. Cũng vậy khi nói đến vấn đề suy tàn của chế
độ bị gọi là phong kiến trong lịch sử nước nhà. Nhưng tất cả đã bị ngừng ở đó.
Sử học ở miền Bắc Việt Nam trong những năm 50 và 60 của thế kỷ trước và luôn cả
trong hiện tại (hy vọng người viết không hoàn toàn đúng ở thời điểm này) vẫn do
Đảng lãnh đạo, vẫn chỉ có một chủ nghĩa là chủ nghĩa Mác-Lênin soi đường, vẫn
coi Hồ Chí Minh là người đặt nền móng, vẫn có những lãnh tụ như Trường Chinh,
Lê Duẩn căn dặn, chỉ đường, vẫn phải mang nhưng tính như tính đảng, tính chiến
đấu, với những mục tiêu giai đoạn, kể cả mục tiêu chống bá quyền của Trung
Quốc, mục tiêu chống Mỹ cứu nước, chống những thế lực thù nghịch...bây giờ là
hỗ trợ đổi mới, vẫn chỉ có những nhà xuất bản do nhà nước quản lý. Nói
cách khác, sử học luôn luôn phải lý luận theo quan điểm nhị nguyên, luôn luôn
có ta và địch, có yêu nước và phản quốc, có cách mạng và phản cách mạng... Con
én Hà Văn Tấn - nếu quả thật là con én - còn rất lâu mới kéo theo được cả đàn
én để đem lại mùa xuân như câu hỏi người viết lời giới thiệu bài tham luận của
ông nêu lên trên báo Tổ Quốc non hai chục năm trước đây.
Các
nhà sử học Mácxít Việt Nam như vậy có nhiều phần còn phải giữ im lặng một
cách xót xa hay ít ra là trong dằn vặt - dùng chữ của Hà Văn Tấn - trước những
vấn đề trong đại và căn bản của đất nước, y hệt họ đã giữ im lặng trước vấn đề
các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong những thập niên 50, 60 và đầu 70 của
thế kỷ trước. Cũng vậy, các vị này cũng phải tránh né một số vấn đề liên
hệ tới Chủ Tịch Hồ Chí Minh và nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong nửa thế kỷ
qua hay xa hơn nữa, vì nói gì được khi Hồ Chí Minh đã được thần thánh hóa coi
như biểu tượng của chế độ cũng như của chính phủ do ông thành lập. Dè dặt
nhưng những ai đã để tâm theo dõi lịch sử nước nhà vẫn có quyền chờ đợi và hy
vọng. Chờ đợi và hy vọng câu trả lời cho câu hỏi đã được Hà Văn Tấn nêu
lên: ‘Đã đến lúc những người chép sử, những nhà sử học phải tự hỏi
rẳng “Sử bút của mình đã thật nghiêm chưa, đã viết đúng sự thật lịch sử
chưa?””
Để kết luận, người ta có thể nói rằng nền sử học
Mácxít Việt Nam, phân biệt với nền sử học Việt Nam dù là ở miền Bắc trước năm
1975 và trên toàn quốc sau năm 1975, với những thành tích sửa đổi văn bản, ngụy
tạo nhân vật, uốn cong các dữ kiện lịch sử, tránh né sự thật hay chỉa đưa ra
một phần sự thật, chắc chắn thay vì mở đường cho việc tìm hiểu lịch sử nước nhà
sẽ làm cho các nhà sử học tương lai phải mệt nhọc lắm mới tìm ra được một số
không nhỏ những sự thực...
Nỗi chua xót, dằn vặt và cay đắng của Hà Văn Tấn phải chăng phần lớn nằm ở chỗ
này, chưa kể dù muốn hay không ông cũng vẫn là người Việt Nam và là người Việt
Nam yêu nước, một nhà sử học và một người thày cả đời làm bạn với bảng đen,
phấn trắng và với những thế hệ tương lai. Tất cả những hoạt động của ông cũng
như của hai sử gia đồng nghiệp với ông không cho phép ông lẩn tránh và nhất là
chấp nhận những gì phản lại sự thật.
Phạm Cao Dương
[i] Bài này sau được in lại trong
tác phẩm nhan đề Một Số Vấn Đề Lý Luận Sử Học của tác giả do Nhà
Xuất Bản Đại Học Quốc Gia Hà Nội ấn hành năm 2007, tr. 29-40.
[ii] Gọi là đổi mới nhưng thực sự
thì đó chỉ là một sự trở lại với cuộc sông bình thường của nhân loại hay của
một dân tộc sống bình thường, diễn tiến bình thường , không trải qua những đột
biến, nhất là đột biến bằng bạo lực..
[iii] Nguyên Trãi Toàn Tập.
Hà Nội: Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam, Viện Sử Học, 1976, tr.
407.
[iv] Hà Văn Tấn không nói rõ thư gửi
năm nào. Nếu là bức thư mở đầu bằng câu Các em hãy nghe lời tôi, lời của một
người anh lớn...” thì đúng là bức thư mà mọi học sinh trung và tiểu học thời
đó, thời 1945 -1946, trong đỗ có người viết bài này, đã phải đọc và học
thuộc lòng và nhớ mãi. Một câu hỏi được đặt ra là phải chăng Hồ Chí Minh
là người đầu tiên và chính thức gọi cacù học sinh ở tuổi con nhỏ nhất hay cháu
nội ngoại của mình là em, là các em thay vì các con mở đầu cho một cách xưng hô
mới giữa thày và trò trong học đường Việt Nam về sau này. Trước đó nó chỉ được
dùng bỉ các huấn luyện viên thể dục .
[v] Hà Nội, Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã
Hội, 1981
[vi] Sử Học Việt Nam Trên Đương
Phát Triển, tr. 9 - 35.
[vii] - nt -, tr.7.
[viii] - nt -
[ix] - nt -, tr.10.
[x] Hà Nội, Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã
Hội, 1999.
[xi] Garden
Grove, California, USA, 1993.
[xii] - nt - , tr. 286.
[xiii] - nt - , tr. 287.
[xiv] Khôi Nguyên, Trò truyện cùng Giáo
Sư Phan Huy Lê, Chủ Tịch Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam, Ai sẽ viết lịch sử của
người Việt tị nạn, trong Người Việt, Giai Phẩm Xuân Bính Tuất 2006,
Westminster, California, tr. 45 - 48..
Nguồn: