Ngày 15 tháng 12 vừa qua Phòng Báo Chí Toà Thánh đã tổ chức cuộc họp báo giới thiệu Sứ điệp ĐTC Phanxicô gửi Ngày Hoà Bình Thế Giới 2016 về đề tài “Hãy chiến thắng dửng dưng và chinh phục hoà bình”. Sứ điệp đề ngày mùng 8 tháng 12 gồm 8 đoạn. Sau đây chúng tôi xin gửi tới quý vị nội dung sứ điệp. Mở đầu sứ điệp ĐTC viết:
1. “Thiên Chúa không dửng dưng! Đối
với Thiên Chúa Nhân loại quan trọng, Thiên Chúa không bỏ rơi nó! Bắt đầu năm
mới với xác tín sâu thẳm này của mình tôi muốn kèm theo các lời cầu chúc
phước lành và hoà bình tràn đầy, trong dấu chỉ của niềm hy vọng, cho tương lai
của từng người nam nữ, của từng gia đình, dân tộc và quốc gia trên thế giới,
cũng như cho các Quốc Trưởng và Chính Quyền và Giới Lãnh Đạo tôn giáo. Thật
thế, chúng ta không mất hy vọng rằng năm 2016 trông thấy chúng ta tất cả dấn
thân một cách cương quyết và mạnh mẽ, trên mọi bình diện, để thực hiện công lý
và hoạt động cho hoà bình. Phải, hoà bình là món quà của Thiên Chúa và là công
trình của con người. Hoà bình là ơn của Thiên Chúa, nhưng được ủy thác cho tất
cả mọi người nam nữ được mời gọi hiện thực nó.
Duy trì các lý do của niềm hy vọng
2. Các chiến tranh và hành động khủng
bố, với các hậu quả thê thảm của chúng, các vụ bắt cóc người, các bách hại vì
các lý do chủng tộc hay tôn giáo, các lạm dụng đã ghi dấu từ đầu tới cuối năm
vừa qua gia tăng một cách đau đớn tại nhiều vùng trên thế giới, đến độ có các
hình thể có thể gọi là “một đệ tam thế chiến từng mảnh”. Nhưng cũng có vài biến
cố của các năm qua và của năm vừa qua mời gọi tôi, trong viễn tượng của
năm mới, canh tân lời khích lệ đừng mất hy vọng nơi khả năng của con người, với
ơn của Thiên Chúa, vượt thắng sự dữ và không buông xuôi cho thái độ chịu trận
và thờ ơ. Các biến cố mà tôi muốn nhắc đến diễn tả khả năng của nhân loại hoạt
động trong tình liên đới, vượt ngoài các lợi lộc cá nhân, sự vô cảm và dửng
dưng trước các tình trạng nguy kịch.
Trong số các biến cố ấy tôi muốn nhắc
tới nỗ lực tạo thuận tiện cho cuộc gặp gỡ của giới lãnh đạo thế giới trong bối
cảnh của hội nghị COP 21, nhằm tìm ra các con đường mới giúp đương đầu với các
thay đổi khí hậu và cứu vãn sức khỏe của Trái Đất, căn nhà chung của chúng ta.
Và điều này quy chiếu về hai biến cố trước đó trên bình diện toàn cầu: đó là
Hội nghị thượng đỉnh tại Addis Abeba nhằm quyên góp ngân qũy cho việc phát
triển có thể chịu đựng nổi của thế giới; và việc Liên Hiệp Quốc chấp nhận Lịch
trình 2030 cho việc phát triển có thể chịu đựng nổi, nhằm bảo đảm cho mọi người
dân, nhất là cho các dân tộc nghèo của hành tinh, từ nay cho tới đó có một cuộc
sống xứng đáng hơn.
Năm 2015 đã là một năm đặc biệt
đối với Giáo Hội, cũng bởi vì Giáo Hội kỷ niệm 50 năm công bố hai tài liệu của
Công Đồng Chung Vaticăng II diễn tả một cách rất hùng hồn ý thức liên đới
của Giáo Hội đối với thế giới. Khi khai mạc Công Đồng ĐGH Gioan XXIII muốn mở
toang các cửa sổ của Giáo Hội để giữa Giáo Hội và thế giới có sự truyền thông
rộng mở hơn. Hai tài liệu: Nostra aetate và Gaudium et Spes, là các diễn tả
biểu hiệu cho tương quan mới của sự đối thoại, tình liên đới và đồng hành mà
Giáo Hội cố ý đưa vào bên trong nhân loại. Trong Tuyên ngôn Nostra aetate Giáo
Hội được mời gọi rộng mở cho việc đối thoại với các tôn giáo không kitô. Trong
Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, từ lúc “các niềm vui, các hy vọng, buồn sầu và
lo lắng của con người ngày nay, của người nghèo và nhất là của tất cả những
người đau khổ, cũng là các niềm vui và các hy vọng, các buồn sầu và các âu lo
của các môn đệ Chúa Kitô” (GS, 1), thì Giáo Hội đã ước mong thiết lập một cuộc
đối thoại với gia đình nhân loại liên quan tới các vấn đề của thế giới, như dấu
chỉ của tình liên đới và sự trìu mến tôn trọng (GS, 3).
Cũng trong viễn tượng này với Năm
Thánh Lòng Thương Xót tôi muốn mời gọi Giáo Hội cầu nguyện và hoạt động để mọi
tín hữu kitô có thể có một con tim chín mùi khiêm nhường và từ bi, có khả năng
loan báo và làm chứng cho lòng thương xót, “tha thứ và cho đi”, rộng mở “cho
những ai sống trong các vùng ngoại biên rải rác nhất của cuộc sống, mà thế giới
tân tiến thường tạo ra một cách thê thảm”, không “rơi vào sự dửng dưng hạ nhục,
không rơi vào thái độ quen nhờn làm tê liệt tâm trí và ngăn cản khám phá
ra sự mới mẻ, không rơi vào thái độ vô liêm sỉ tàn phá.” (Misericordiae
vultus, 14-15)
ĐTC viết tiếp trong sứ điệp: Có nhiều
lý do giúp tin vào khả năng của nhân loại cùng nhau hành động trong tình liên
đới, trong việc nhận ra sự nối kết giữa nhau và tuỳ thuộc nhau, bằng cách lo
lắng cho các thành phần yếu đuối nhất, và cứu vãn thiện ích chung. Thái độ liên
đới đồng trách nhiệm này là gốc rễ ơn gọi nền tảng cho tình huynh đệ và cho
cuộc sống chung. Phẩm giá và các tương quan liên bản vị khiến cho chúng ta là
người, được Thiên Chúa muốn là hình ảnh của Ngài và giống Ngài. Như là các thụ
tạo được phú bẩm phẩm giá bất khả nhượng, chúng ta hiện hữu trong tương quan
với các anh chị em khác, mà chúng ta có trách nhiệm đối với họ và chúng ta hành
động trong tình liên đới với họ. Bên ngoài tương quan này, chúng ta sẽ ít là
người hơn. Chính vì thế sự dửng dưng là một đe dọa đối với gia đình nhân loại.
Trong khi chúng ta bước tới một năm mới, tôi muốn kêu mời tất cả mọi người thừa
nhận sự kiện này, để chiến thắng dửng dưng và chinh phục hoà bình.
Vài hình thức dửng dưng
3. Chắc chắn rằng thái độ dửng dưng, của
người đóng kín con tim để không chú ý tới tha nhân, của người nhắm mắt để không
trông thấy điều chung quanh, hay tránh né để không bị dụng chạm bởi các vấn đề
của người khác, định tính một loại người khá phổ biến và hiện diện trong mọi
thời đại của lịch sử. Tuy nhiên, ngày nay nó đã vĩnh viễn vượt quá lãnh
vực cá nhân để mang chiều kích toàn cầu, và tạo ra hiện tượng của “việc toàn
cầu hóa sự dửng dưng”.
Hình thái thứ nhất của sự thờ ơ trong
xã hội con người là sự dửng dưng đối với Thiên Chúa, từ đó cũng nảy sinh ra sự
dửng dưng đối với tha nhân và với thụ tạo. Đây là một trong các hậu quả trầm
trọng nhất của một chủ thuyết nhân bản giả dối, và của chủ thuyết duy vật thực
tiễn, trộn lẫn với một tư tưởng duy tương đối và duy hư vô. Con người nghĩ rằng
nó là tác giả của chính mình, của cuộc sống mình và của xã hội; nó cảm thấy tự
đủ và không chỉ nhắm lấy mình thay thế Thiên Chúa, mà còn sống không cần tới
Thiên Chúa nữa; hậu quả, nó nghĩ mình không nợ ai gì cả, ngoại trừ chính nó, và
nó yêu sách chỉ có các quyền lợi mà thôi (Caritas in veritate. 43). Chống lại
sự tự hiểu biết sai lầm này của con người, ĐGH Biển Đức XVI nhắc nhở rằng:
không phải con người cũng không phải sự phát triển của nó có khả năng tự
ban cho nó ý nghĩa cuối cùng của nó (Caritas in veritate, 16) ; và trước ngài
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI cũng đã khẳng định rằng “không có chủ thuyết nhân bản
đích thật nào cống hiến ý tưởng đích thật của cuộc sống con người, nếu không
rộng mở cho Đấng Tuyệt Đối” (Populorum progresio, 42).
Sự dửng dưng đối với tha nhân mang
nhiều bộ mặt khác nhau. Có người được thông tin rõ ràng, lắng nghe radio, đọc
báo chí hay coi các chương trình truyền hình, nhưng làm một cách hâm hẩm, hầu
như trong một điều kiện quen thuộc: những người này biết một cách mù mờ các
thảm cảnh khiến cho nhân loại khổ đau, nhưng họ không cảm thấy bị lôi cuốn, họ
không sống sự cảm thương. Đây là thái độ của người biết, nhưng có cái nhìn, tư
tưởng và hành động hướng tới chính mình. Rất tiếc chúng ta phải ghi nhận rằng
việc gia tăng các tin tức, chính trong thời đại chúng ta, tự nó không có nghĩa
là gia tăng sự chú ý tới các vấn đề, nếu nó không được đi kèm bởi một sự rộng
mở lương tâm trong nghĩa liên đới (Caritas in veritate, 19). Trái lại, nó có
thể bao gồm một sự bão hoà làm tê liệt, và trong một mức độ nào đó, tương đối
hoá tầm nghiêm trọng của các vấn đề. “Có vài người, một cách đơn sơ, lại vui
mừng đổ lỗi cho người nghèo và các nước nghèo về các sự dữ của họ, với
các tổng quát hoá không xóa bỏ được, và họ yêu sách tìm ra giải pháp trong một
việc “giáo dục” trấn an và biến họ trở thành những người bị thuần hoá và vô
hại. Điều này lại càng trở nên nhức nhối hơn, nếu các người bị loại trừ trông
thấy bênh ung thư xã hội gia tăng là sự thối nát đâm rễ sâu trong nhiều nuớc –
nơi các chính quyền, trong giới doanh thương và trong các cơ cấu – bất cứ ý
thức hệ chính trị nào của giới lãnh đạo” (Evangelii gaudium, 60).
Trong các trường hợp khác, sự dửng
dưng biểu lộ ra như là việc thiếu chú ý đối với thực tại chung quanh, đặc biệt
đối với thực tại ở xa. Có vài người ưa thích không tìm kiếm, không hỏi thăm tin
tức, và sống sự phong phú và thoải mái của họ, điếc trước tiếng kêu than của
nhân loại khổ đau. Hầu như không nhận ra điều đó, chúng ta đã trở nên không có
khả năng cảm thương những người khác, đối với các thảm cảnh của họ, chúng ta
không chú ý lo lắng cho họ, làm như thể điều xảy ra cho họ là một trách nhiệm
xa lạ đối với chúng ta, không thuộc bổn phận của chúng ta (Ibid. 54). “Khi
chúng ta khỏe mạnh và cảm thấy thoải mái, chắc chắn chúng ta quên những người
khác (đó là điều mà Thiên Chúa Cha không bao giờ làm), chúng ta không chú ý tới
các vấn đề của họ, các khổ đau, và các bất công họ phải chịu… Khi đó con tim
của chúng ta rơi vào sự dửng dưng: trong khi tôi tương đối khoẻ mạnh và thoải
mái, tôi quên những người không khỏe mạnh” (Sứ điệp mùa chay 2015).
Khi sống trong một căn nhà chung,
chúng ta không thể không tự hỏi về tình trạng sức khỏe của nó, như tôi đã làm
trong Thông điệp Laudato si’. Sự ô nhiễm các nguồn nước và không khí,
việc khai thác rừng già không phân biệt, việc tàn phá môi sinh thường là hậu
quả của sự dửng dưng của con người đối với những người khác, bởi vì tất cả có
tương quan với nhau. Cũng như thái độ hành xử của con người đối với thú vật ảnh
hưởng trên các tương quan của nó với người khác (Laudato si’, 92), để không nói
đến việc ai cho phép mình làm tại nơi khác điều họ không dám làm trong nhà họ
(Ibid. 51).
Trong các trường hợp này và các trường
hợp khác nữa, sự dửng dưng tạo ra thái độ khép kín và không dấn thân, và như
thế nó kết thúc bằng việc góp phần vào sự vắng bóng hoà bình với Thiên Chúa,
vói tha nhân và với thụ tạo.
Hoà bình bị đe dọa bởi sự dửng dưng
toàn cầu hóa
4. Sự thờ ơ với Thiên Chúa vượt
quá phạm vi nội tâm và tinh thần của bản vị riêng rẽ, và xâm lấn phạm vi công
cộng xã hội. Như ĐTC Biển Đức XVI đã khẳng định, “có một nối kết mật
thiết giữa việc vinh danh Thiên Chúa và hoà bình của con người trên trái
đất” (Diễn văn trrước ngoại giao đoàn cạnh Toà Thánh 7-1-2013). Thật thế,
“không có sự rộng mở siêu việt, con người dễ dàng trở thành mồi cho chủ thuyết
duy tương đối và rồi sẽ khó mà hành động theo công lý và dấn thân cho hòa bình”
(Ibidem.). Việc lãng quên và khước từ Thiên Chúa dẫn đưa con người tới chỗ
không thừa nhận luật lệ cao hơn mình nữa, và chỉ lấy mình làm quy tắc, và chúng
đã tạo ra sự tàn ác và bạo lực vô chừng mực (Biển Đức XVI, Phát
biểu ngày liên tôn cầu nguyện cho công lý và hoà bình tại Assisi 27-10-2011).
Trên bình diện ca nhân và cộng đoàn sự
thờ ơ đối với tha nhân, con đẻ của sự dửng dưng đối với Thiên Chúa, mang dáng
vẻ của sự bất động và không dấn thân, chúng dưỡng nuôi việc kéo dài các tình
trạng bất công và mất quân bình xã hội trầm trọng. Tới lượt mình chúng có thể
dẫn đưa tới các xung đột, hay trong mọi trường hợp, làm nảy sinh ra một bầu
không khí bất mãn có nguy cơ, mau hay chậm, bùng nổ thành bạo lực và bất an.
Trong nghĩa này sự dửng dưng và không
dấn thân như hậu quả tạo thành một thiếu sót trầm trọng đối với bổn phận mà mỗi
người phải đóng góp trong mức độ các khả năng của mình và của vai trò mình có
trong xã hội, cho công ích, đặc biệt là cho nền hoà bình, là một trong các
thiện ích quý báu nhất của nhân loại (Evangelii gaudium, 217-237).
Thế rồi, khi nó đụng chạm tới lãnh vực
cơ cấu, thì sự dửng dưng đối với tha nhân, phẩm giá, các quyền nền tảng và sự
tự do của họ, cộng với một nền văn hóa ghi đậm dấu lợi nhuận và chủ trương
hưởng thụ, tạo thuận tiện và đôi khi biện minh cho các hành động và chính sách
rốt cuộc tạo ra các đe dọa đối với hoà bình. Thái độ thờ ơ như thế cũng có thể
đi đến chỗ biện minh cho vài chính sách kinh tế đáng phiền trách, làm sinh sôi
nay nở các bất công, chia rẽ và bạo lực, nhằm đạt sự phong phú riêng tử hay của
quốc gia. Thật vậy, không hiếm các dự án kinh tế và chính trị của con người
nhắm mục đích chinh phục hay duy trì quyền bính và giầu sang, cả khi có
chà đạp các quyền lợi và các đòi buộc nền tảng của người khác đi nữa. Khi các
dân tộc thấy các quyền lợi sơ đẳng của họ như quyền có thực phẩm, nước uống,
được săn sóc sức khỏe, hay có công ăn việc làm, bị khước từ, thì họ bị cám dỗ
chiến hữu chúng bằng bạo lực (GS 59).
Ngoài ra, sự thờ ơ đối với môi sinh
thiên nhiên, bằng cách tạo thuận tiện cho việc tàn phá rừng già, gây ô nhiễm và
tạo ra các tai ương thiên nhiên, khiến cho toàn các cộng đoàn bị nhổ khỏi gốc
rễ môi sinh của họ, cách cuỡng bách họ sống cảnh tạm bợ và bất ổn, tạo ra
các nghèo túng mới, các tình trạng bất công mới bởi các hậu qủa tàn hại liên
quan tới an ninh và hoà bình xã hội. Có biết bao nhiêu chiến tranh đã xảy ra và
sẽ có biết bao nhiêu chiến cuộc khác sẽ bùng nổ vì thiếu các tài nguyên hay để
đáp ứng đòi hỏi tài nguyên thiên nhiên vô độ?
Từ sự dửng dưng tới lòng thương xót:
việc hoán cải con tim
5. Cách đây một năm trong sứ điệp cho
Ngày Hoà Bình Thế Giới “Không còn là nô lệ nữa nhưng là anh em”, tôi đã nhắc
tới hình ảnh kinh thánh đầu tiên của tình huynh đệ nhân loại, đó là hình ảnh
của Cain và Abel (x. St 4,1-6) để lôi kéo sự chú ý trên sự kiện tình huynh đệ
đầu tiên đã bị phản bội như thế nào. Cain và Abel là anh em. Cả hai đều phát
xuất từ cùng một cung lòng, bình đẳng trong phẩm giá và được tạo dựng nên theo
hình ảnh và giống Thiên Chúa; nhưng tình anh em của họ bị bẻ gẫy. “Cain không
những không chịu được em mình là Abel, mà còn giết em vì ghen tương nữa”
(Sứ điệp Ngày Hoà Bình Thế Giới 2015, 2). Khi đó việc giết em trở thành hình
thức của sự phản bội, và việc khưóc từ tình huynh đệ của Abel từ phiá Cain là
sự đổ bể đầu tiên trong các tương quan gia đình của tình huynh đệ, liên đới và
tôn trọng lẫn nhau.
Khi đó, Thiên Chúa can thiệp để mời
gọi tinh thần trách nhiệm của con người đối với người đồng loại, y như Ngài đã
làm khi Ađam và Evà, ông bà nguyên tổ. đã bẻ gẫy sự hiệp thông với Đấng Tạo
Hóa. “Khi đó Chúa nói với Cain: “Abel em ngươi đâu rồi?”. Cain thưa: “Con không
biết. Con là người canh giữ em con hay sao?”. Chúa phán: “Ngươi đã làm gì vậy?
Từ dưới đất tiếng máu của em ngươi đang kêu tới Ta” (St 4,9-10).
Cain
nói rằng mình không biết điều gì đã xảy ra cho em mình, rằng mình không phải là
người canh giữ em. Anh ta không cảm thấy có trách nhiệm đối với sự sống của em,
đối với số phận của em. Anh không cảm thấy bị liên lụy. Anh dửng dưng đối vói
em mình, mặc dù họ được nối kết với nhau bởi nguồn gốc chung. Thật buồn biết
bao! Thật là thảm cảnh huynh đệ, gia đình và nhân loại! Đó đã là biểu lộ đầu
tiên của sự thờ ơ giữa anh em với nhau. Thiên Chúa, trái lại, không thờ ơ: máu
của Abel có gia trị lớn dưới mắt Ngài và Ngài đòi Cain phải trả lẽ. Như thế
Thiên Chúa tự vén mở ngay từ đầu như là Đấng chú ý tới số phận của con người.
Sau này khi con cái Israel sống kiếp nô lệ bên Ai Cập, Thiên Chúa can thiệp và
Ngài đã nghe tiếng họ kêu than vì các giám thị; “Thật thế, Ta biết các đau khổ
của ngươi. Ta đã xuống để giải phóng ngươi khỏi bàn tay của Ai Cập và làm cho
ngươi ra khỏi xứ sở ấy để đi về một xứ sở xinh đẹp và rộng rãi, về một xứ sở
nơi chảy sữa và mật ong” (Xh 3,7-8). Thật là quan trọng ghi nhận các động từ
miêu tả sự can thiệp của Thiên Chúa: Ngài quan sát, lắng nghe, hiểu biết,
xuống, giải thoát. Thiên Chúa không dửng dưng. Ngài chú ý và hành động.
Cũng thế, trong Đức Giêsu Con Ngài,
Thiên Chúa đã xuống giữa loài người, đã nhập thể và tỏ ra liên đới với nhân
loại: “trưởng tử giữa nhiều em” (Rm 8,29). Ngài đã không hài lòng dậy dỗ dân
chúng, mà cũng lo lắng cho họ nữa, đặc biệt khi trông thấy họ đói (x. Mc
6,34-44) hay không có công ăn việc làm (x. Mt 20,3). Cái nhìn của Ngài không
chỉ hướng tới con người, mà cũng hướng tới cá biển, chim trời, cây cối lớn nhỏ;
Ngài ôm trọn toàn thụ tạo trong vòng tay. Ngài trông thấy, chắc chắn rồi, nhưng
không chỉ hạn chế vào việc này, bởi vì Ngài đụng chạm tới con người, nói chuyện
với họ, hoạt động cho họ và làm ích cho người túng thiếu. Nhưng không chỉ như
thế, Ngài còn để cho mình xúc động và khóc nữa (x. Ga 11,33-44). Và ngài hành
động để chấm dứt sự khổ đau, buồn sầu, bần cùng và cái chết.
Chúa Giêsu dậy chúng ta thương xót như
Thiên Chúa Cha (x. Lc 6,36). Trong dụ ngôn người Samaritano nhân hậu (x. Lc
10,29-37) Ngài tố cáo việc bỏ sót cứu giúp trước sự cấp thiết của tha nhân:
“ông thấy và đi qua” (x. Lc 10,31.32). Đồng thời, qua thí dụ này, Chúa mời gọi
các thính giả của Ngài, đặc biệt là các môn đệ của Ngài, học dừng lại trước các
khổ đau của thế giới này để làm vơi nhẹ chúng, dừng lại trước các vết thương
của người khác để chữa trị chúng, với các phương tiện họ có, bắt đầu từ thời
gian, mặc dù có biết bao bận rộn. Thật vậy, sự dửng dưng thường tìm cớ: trong
việc tuân giữ các điều luật nghi lễ, trong hàng đống việc phải làm, trong các
đối kháng khiến cho chúng ta xa nhau, trong các thành kiến đủ loại ngăn cản
chúng ta đến gần nhau.
Lòng thương xót là con tim của Thiên
Chúa. Vì thế nó cũng phải là con tim của tất cả những ai tự nhận mình là chi
thể của đại gia đình duy nhất của các con cái Ngài; một con tim dấn thân mạnh
mẽ đập nhịp phẩm giá con người tại khắp mọi nơi phản ánh gương mặt của Thiên
Chúa nơi các thụ tạo của Ngài. Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta: tình yêu đối
với tha nhân – khách ngoại kiều, người đau yếu, các tù nhân, người không nhà,
cho tới cả kẻ thù, là thước đo Thiên Chúa dùng để phán xử các hành động
của chúng ta. Số phận đời đời của chúng ta tuỳ thuộc vào đó. Thật không đáng
ngạc nhiên, khi thánh Phaolô tông đồ mời gọi các kitô hữu Roma vui với người
vui, khóc với người khóc (x. Rm 12,15) hay khuyên tín hữu Côrintô tổ chức các
cuộc lạc quyên như dấu chỉ tình liên đới với các chi thể khổ đau của Giáo Hội
(x. 1 Cr 16,2-3). Còn thánh Gioan thì viết: “Nếu ai có của cải thế gian và thấy
anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình
yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?”(1 Ga 3,17; x. Gc 2,15-16).
Đo đó tại sao lại là điều “định đoạt
đối với Giáo Hội và tính cách đáng tin cậy của lời loan báo, việc Giáo Hội sống
và đích thân làm chứng cho lòng thương xót. Ngôn ngữ và các cử chỉ của Giáo Hội
phải thông truyền lòng thương xót để vào thấu trái tim con người và khiêu
khích họ tìm ra con đường trở về với Thiên Chúa Cha. Sự thật đầu tiên của Giáo
Hội là tình yêu của Chúa Kitô. Giáo Hội là tôi tớ và trung gian của tình yêu ấy
nơi con người, tình yêu đi tới chỗ tha thứ và trao ban chính mình. Vì thế, nơi
đâu có Giáo Hội hiện diện, thì ở đó lòng thương xót của Thiên Chúa Cha phải
hiển nhiên. Nghĩa là trong các giáo xứ, cộng đoàn, hiệp hội và phong trào của
chúng ta, bất cứ nơi nào có các kitô hữu, thì bất cứ ai cũng phải tìm được một
ốc đảo của lòng thương xót (Misericordiae vulnus, 12).
Như vậy, cả chúng ta nữa cũng được mời
gọi biến tình yêu, lòng trắc ẩn, thương xót và tình liên đới trở thành chương
trình sống, trở thành một kiểu hành xử trong các tương quan với nhau
(Ibid., 13). Điều này đòi hỏi việc hoán cải con tim: nghĩa là ơn của Thiên Chúa
biến đổi con tim bằng đá của chúng ta thành con tim bằng thịt (x. Ed 36,26), có
khả năng rộng mở cho tha nhân với tình liên đới đích thật. Thật thế, tình liên
đới là điều nhiều hơn một “tình cảm của lòng trắc ẩn mơ hồ hay một mềm
yếu hời hợt đối với các khổ đau của biết bao người gần xa (Sollecitudo
rei socialis, 38). Tình liên đới là “sự quyết tâm vững vàng và kiên trì
dấn thần cho công ích: hay cho hạnh phúc của tất cả mọi người và từng người,
bởi vì tất cả chúng ta đều thực sự có trách nhiệm đối với mọi người” (Ibid.,),
bởi vì sự trắc ẩn nảy sinh từ tình huynh đệ.
Được hiểu như thế, tình liên đới là
thái độ luân lý đạo đức và xã hội, đáp trả lại một cách tốt nhất ý thức của
lương tâm về các vết thương của thời đại chúng ta và về sự tuỳ thuộc lẫn nhau
luôn luôn hiện hữu, đặc biệt trong một thế giới toàn cầu hóa, giữa cuộc
sống của từng người và của cộng đoàn trong một nơi xác định và cuộc sống của
các người nam nữ khác trên thế giới (Ibid.,).
Thăng tiến một nền văn hóa liên đới và
thuơng xót để chiến thắng sự dửng dưng
6. Tình liên đới như nhân đức luân lý
và thái độ xã hội, hoa trái của sự hoán cải cá nhân, đòi buộc một dấn thân từ
phía đông đảo các chủ thể có trách nhiệm trong lãnh vực giáo dục và đào tạo.
Tư tưởng đầu tiên của tôi hướng tới
các gia đình được mời gọi cho một sứ mệnh giáo dục đầu tiên và không thể khước
từ được. Các gia đình là nơi chốn đầu tiên, trong đó người ta sống các giá trị
của tình yêu thương, tình huynh đệ, việc chung sống, chia sẻ, sự chú ý và săn
sóc người khác. Các gia đình cũng là môi trường đặc tuyển cho việc thông truyền
đức tin, bắt đầu từ các cử chỉ đạo đức đơn sơ nhất, mà các bà mẹ dậy cho con
cái (Ibid.,).
Liên quan tới các nhà giáo dục và đào
tạo, trong trường học hay các trung tâm quy tụ khác của trẻ em và người trẻ, có
bổn phận giáo dục chúng, họ được mời gọi ý thức rằng trách nhiệm của họ liên
quan tới các chiều kích luân lý, tinh thần và xã hội của con người. Các giá trị
của sự tự do, lòng tôn trọng lẫn nhau và tình liên đới có thể được thông truyền
ngay từ tuổi còn thơ. Khi hướng tới các vị hữu trách của các cơ cấu có nhiệm vụ
giáo dục, Đức Biển Đức XVI đã khẳng định rằng: “Mỗi một môi trường giáo dục có
thể là nơi của sự rộng mở cho siêu việt và tha nhân: nơi của đối thoại, của sức
mạnh nối kết và lắng nghe, trong đó người trẻ cảm thấy được đánh giá trong các
tiềm năng và phong phú nội tâm, và học qúy chuộng các anh chị em khác. Ước chi
nó có thể dậy cho biết nếm hưởng niềm vui nảy sinh từ việc từng ngày sống tình
bác ái và trắc ẩn đối với người lân cận, và từ việc tham dự tích cực vào việc
xây dựng một xã hội nhân bản và huynh đệ hơn” (Sứ điệp cho Ngày Hoà Bình Thế Giới
2012, 2).
Cả các người hoạt động văn hóa và
truyền thông xã hội cũng có trách nhiệm trong lãnh vực giáo dục và đào tạo, đặc
biệt trong các xã hội ngày nay, trong đó việc sử dụng các phương tiện thông tin
và truyền thông ngày càng phổ biến. Trước hết họ có nhiệm vụ phục vụ sự thật
chứ không phải phục vụ các lợi lộc riêng tư. Thật thế, các phương tiện truyền
thông “không chỉ thông tin, mà cũng đào tạo tinh thần các đối tượng của chúng
nữa, và vì vậy có thể góp phần đáng kể vào việc giáo dục người trẻ. Thật là
quan trọng chú ý tới tương quan rất chặt chẽ giữa giáo dục và truyền thông:
thật thế, giáo dục đến qua truyền thông, nó ảnh hưởng một cách tích cực hay
tiêu cực trên việc đào tạo con người” (Ibid.,). Các nhân viên văn hóa và truyền
thông cũng phải canh chừng để kiểu tiếp nhận và phổ biến các tin tức của họ
luôn được hợp pháp trên bình diện pháp lý và luân lý.
Hoà bình: hoa trái của một nền văn hoá
liên đới, thương xót và trắc ẩn
7. Ý thức được sự đe dọa của một việc
toàn cầu hóa sự dửng dưng, chúng ta không thể không thừa nhận rằng, trong bối
cảnh như miêu tả trên đây, cũng có nhiều sáng kiến và hoạt động tích cực làm
chứng cho sự trắc ẩn, lòng thương xót và tình liên đới mà con người có khả năng
làm được. Tôi muốn nhắc tới vài thí dụ dấn thân đáng ca ngợi chứng minh cho
thấy làm sao mỗi người có thể chiến thắng sự thờ ơ, khi lựa chọn không rời cái
nhìn khỏi người lân cận của mình, và chúng có thể trở thành các thực hành tốt
trên con đường tiến tới một xã hội nhân bản hơn.
Có biết bao nhiêu tổ chức phi chính
quyền và các nhóm bác ái, bên trong cũng như bên ngoài Giáo Hội, mà các thành
viên, trong các dịp dịch tễ, thiên tai hay xung khắc vũ trang, đương đầu với
các mệt nhọc và nguy hiểm để săn sóc những người bị thương và các bệnh nhân, và
để chôn cất các người đã chết. Bên cạnh họ tôi muối nhắc đến những người và
những hiệp hội cứu giúp các người di cư băng qua các sa mạc và biển cả để đi
tìm các điều kiện sống tốt đẹp hơn. Các hoạt động này là các công tác của lòng
thương xót thể lý và tinh thần, dựa trên đó chúng ta sẽ bị phán xử vào cuối
cuộc sống của mình.
Tôi cũng nghĩ tới các nhà báo và các
chuyên viên chụp hình thông tin tức cho dư luận công cộng liên quan tới các
tình hình khó khăn gọi hỏi lương tâm, và tất cả những người dấn thân bảo vệ các
quyền con người, bảo vệ các phụ nữ và trẻ em, và tất cả những ai sống trong các
điều kiện dễ bị tổn thương hơn. Giữa những người đó cũng có các linh mục và
thừa sai, như là các mục tử nhân lành, các vị ở lại bên cạnh tín hữu và nâng đỡ
họ mặc cho các hiểm nguy và khó khăn, đặc biệt trong các cuộc xung đột vũ
trang.
Thế rồi còn có biết bao nhiêu gia đình
dấn thân một cách cụ thể để giáo dục con cái họ “đi ngược dòng”, sống các giá
trị của tình liên đới, sự cảm thương và tình huynh đệ, với giá của biết bao
nhiêu hy sinh, tuy phải sống giữa biết bao khó khăn về công ăn việc làm và xã
hội. Biết bao nhiêu gia đình rộng mở con tim và cửa nhà cho nhũng ai sống trong
cảnh thiếu thốn, như các người tỵ nạn và di cư! Tôi muốn cám ơn một cách đặc
biệt tất cả các người, các gia đình, các giáo xứ, các cộng đoàn dòng tu, các
đan viện và các trung tâm hành hương đã mau mắn đáp trả lời tôi kêu gọi tiếp
đón một gia đình tỵ nạn (Kinh Truyền Tin 6-9-2015).
Sau cùng, tôi muốn nhắc tới các người
trẻ hiệp nhất với nhau để thực hiện các dự án liên đới, và tất cả những người
mở rộng đôi tay trợ giúp người bên cạnh thiếu thốn: trong các thành phố, trong
quê hương mình hay trong các vùng miền khác trên thế giới. Tôi muốn cám ơn và
khích lệ tất cả những ai dấn thân trong các hành động loại này, cả khi họ không
được quảng cáo: sự đói khát công lý của họ sẽ được no thoả, lòng thương xót của
họ sẽ khiến cho họ tìm được xót thương và như là các tác nhân hoà bình, họ sẽ
được gọi là con cái của Thiên Chúa (x. Mt 5,6-9).
Hoà bình trong dấu chỉ của Năm Thánh
Lòng Thương Xót
8. Trong tinh thần của Năm Thánh
Lòng Thương Xót, mỗi người được mời gọi nhận ra sự thờ ơ được biểu lộ trong
cuộc sống của mình như thế nào, và lựa chọn một dấn thân cụ thể để góp phần cải
tiến thực tại trong đó mình đang sống, bắt đầu từ gia đình mình, từ xóm giềng
của mình hay từ môi trường làm việc.
Cả các Quốc gia cũng được mời gọi có
các cử chỉ cụ thể, có các hành động can đảm đối với các người giòn mỏng nhất
của xã hội, như các tù nhân, người di cư, người thất nghiệp và người đau yếu.
Liên quan tới các tù nhân, trong nhiều
trường hợp xem ra cấp thiết áp dụng các biện pháp cụ thể giúp cải tiến các điều
kiện sống của họ trong các nhà tù, bằng cách cho phép chú ý đặc biệt tới những
người bị mất tự do trong khi chờ đợi được xét xử, lưu tâm tới mục đích tái giáo
dục của hình phạt, và lượng định khả thể đưa vào trong luật pháp quốc gia các
hình phạt thay thế cho việc giam giữ trong nhà tù. Trong bối cảnh ấy tôi ước ao
canh tân lời kêu gọi các giới chức chính quyền quốc gia huỷ bỏ án tử hình, tại
nơi đâu nó còn hữu hiệu và duyệt xét lại khả thể của một cuộc ân xá.
Liên quan tới các người di cư, tôi
muốn đưa ra một lời mời gọi suy tư trở lại các luật lệ về di cư, để chúng được
linh hoạt bởi ý chí tiếp đón, trong sự tôn trọng hỗ tương các nhiệm vụ và
trách nhiệm, và có thể tạo dễ dàng cho việc hội nhập của các người di cư. Trong
viễn tượng này phải có một sự chú ý đặc biệt đối với các điều kiện di trú của
người di cư, bằng cách nhớ rằng sự lén lút có nguy cơ lôi kéo họ tới tội phạm.
Ngoài ra tôi cũng ước mong trong Năm
Thánh này đưa ra một lời kêu gọi cấp bách giới hữu trách các quốc gia có các cử
chỉ cụ thể đối với các anh chị em khổ đau vì thiếu công ăn việc làm, đất đai và
nhà ở. Tôi nghĩ tới việc tạo ra các chỗ làm việc xứng đáng để chống lại tệ nạn
xã hội của sự thất nghiệp, đả thương nhiều gia đình và người trẻ và có
các hậu quả rất nghiêm trọng liên quan tới điều kiện sống của toàn xã hội. Sự
thiếu công ăn việc làm tấn kích một cách nặng nề ý thức về phẩm giá và niềm hy
vọng, và chỉ có thể được bù trừ phần nào bởi các liên đới cần thiết dành
cho nhũng người thất nghiệp và gia đình họ. Một sự chú ý đặc biệt cần phải dành
cho phụ nữ - rất tiếc còn bị kỳ thị trong lãnh vực công ăn việc làm – và cho
vài tầng lớp công nhân, có các điều kiện bấp bênh hay nguy hiểm và có đồng
lương không tương xứng với tầm quan trọng sứ mệnh xã hội của họ.
Sau cùng tôi muốn mời gọi có các hoạt
động hữu hiệu giúp cải tiến các điều kiện sống của các bệnh nhân, bằng cách bảo
đảm cho tất cả được săn sóc y khoa và có thuốc men cần thiết cho sự sống, bao
gồm cả việc được săn sóc tại gia.
Khi hướng cái nhìn vượt ngoài các ranh
giới của mình, giới hữu trách các quốc gia cũng được mời gọi canh tân các tương
quan với các dân tộc khác, bằng cách cho phép tất cả mọi người thực sự
tham gia và bao gồm vào cuộc sống của cộng đồng quốc tế, hầu thể hiện tình
huynh đệ cả bên trong gia đình quốc gia nữa.
Trong viễn tượng này, tôi ước mong đưa
ra một lời kêu gọi gồm ba điều: đừng lôi cuốn các dân tộc khác vào các cuộc
xung đột hay các chiến tranh không chỉ tàn phá các giầu có vật chất, văn hóa và
xã hội của họ, mà cũng – trong thời gian lâu dài – tàn phá sự toàn vẹn luân lý
và tinh thần của họ nữa; xóa bỏ hay điề hành có thể chịu đựng nổi nợ nần quốc
tế của các nước nghèo hơn; áp dụng các đường lối chính trị cộng tác, tôn trọng
các giá trị của các dân tộc địa phương thay vì gập mình trước sự độc tài của
vài ý thức hệ, và trong mọi trường hợp các đường lối chính trị ấy không được
gây tổn thương cho quyền nền tảng và bất khả nhượng của các trẻ em sắp sinh vào
cuộc sống.
Tôi xin phó thác các suy tư này cùng
với các lời chúc mừng năm mới tốt đẹp cho năm mới cho lời bầu cử của Mẹ Maria
Rất Thánh Mẹ mau mắn lo cho các nhu cầu của nhân loại, để Mẹ xin được từ
Chúa Giêsu Con Mẹ, Hoàng Tử Hoà Bình, việc khấng nhận các lời khẩn nài của
chúng ta và phước lành của sự dấn thân thường ngày của chúng ta cho một thế
giới huynh đệ và liên đới hơn.
Từ Vaticăng mùng 8 tháng 12 năm 2015
Lễ trọng Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Trinh Nữ Diễm Phúc Maria. Mở Năm Thánh
Ngoại Thường Lòng Thương Xót.
Linh Tiến Khải