Nhìn lại nền Giáo dục VNCH :
Sự tiếc nuối vô bờ bến
Huỳnh Minh Tú
Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là nền giáo dục Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa là nhân bản, dân tộc, và khai phóng. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và cho rằng “nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí”, “nền giáo dục đại học được tự trị”, và “những người có khả năngmà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn”.
Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng Hòa gồm tiểu học, trung học, và đại
học, cùng với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập, và tư
thục ở cả ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới
địa phương.
Phòng thí nghiệm ở Viện Pasteur Sài Gòn (Internet)
Tổng quan
Từ
năm 1917, chính quyền thuộc địa Pháp ở Việt Nam đã có một hệ thống giáo
dục thống nhất cho cả ba miền Nam, Trung, Bắc, và cả Lào cùng
Campuchia. Hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc có ba bậc: tiểu học, trung
học, và đại học. Chương trình học là chương trình của Pháp, với một chút
sửa đổi nhỏ áp dụng cho các cơ sở giáo dục ở Việt Nam, dùng tiếng Pháp
làm ngôn ngữ chính, tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ phụ. Sau khi Việt Nam
tuyên bố độc lập vào năm 1945, chương trình học của Việt Nam – còn gọi
là chương trình Hoàng Xuân Hãn (ban hành thời chính phủ Trần Trọng Kim –
được đem ra áp dụng ở miền Trung và miền Bắc. Riêng ở miền Nam,
vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình Pháp vẫn còn tiếp tục
cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa thì chương trình
Việt mới được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho chương trình Pháp. Cũng
từ đây, các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò
lãnh đạo thực sự của mình.
Một buổi lễ ở trường Petrus Ký ( trường Lê Hồng Phong ngày nay )
Ngay từ những ngày đầu hình thành nền Đệ Nhất Cộng Hòa,
những người làm công tác giáo dục ở miền Nam đã xây dựng được nền móng
quan trọng cho nền giáo dục quốc gia, tìm ra câu trả lời cho những vấn
đề giáo dục cốt yếu. Những vấn đề đó là: triết lý giáo dục, mục tiêu
giáo dục, chương trình học, tài liệu giáo khoa và phương tiện học tập,
vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang thiết bị trường học, đánh
giá kết quả học tập, và tổ chức quản trị. Nhìn chung, người ta thấy mô
hình giáo dục ở Miền Nam Việt Nam trong
những năm 1970 có khuynh hướng xa dần ảnh hưởng của Pháp vốn chú trọng
đào tạo một số ít phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng thiên về
lý thuyết, để chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng
và thực tiễn. Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng Hòa có một phần năm (20%)
dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục.
Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trunghọc, và 101.454 sinh viên đại học;
số người biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số. Đến năm 1975,
tổng số sinh viên trong các viện đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người (không tính các sinh viên theo học ở Học viện Hành Chính Quốc Gia và ở các trường đại học cộng đồng).
Cảnh giờ rước học sinh tan trường.
Mặc
dù tồn tại chỉ trong 20 năm (từ 1955 đến 1975), bị ảnh hưởng nặng nề
bởi chiến tranh vànhững bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân
sách eo hẹp do phần lớn ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng và
nội vụ (trên 40% ngân sách quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13% cho
nội vụ, chỉ khoảng 7-7,5% cho giáo dục), nền
giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã phát triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu
gia tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một lớp người có học
vấn và có khả năng chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo
được sự nghiệp vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển.
Kết quả này có được là nhờ các nhà giáo cóý thức rõ ràng về sứ mạng
giáo dục, có ý thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống cuộc
sống khiêm nhường để đóng góp trọn vẹn cho nghề nghiệp, nhờ nhiều bậc
phụ huynh đã đóng góp công sức cho việc xây dựng nền giáo dục quốc gia,
và nhờ những nhà lãnh đạo giáo dục đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ
lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở Miền Nam Việt Nam.
Thầy cô giáo ( Giáo sư ) thời VNCH
Triết lý giáo dục
Năm 1958, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Trần Hựu Thế,
Việt Nam Cộng Hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài
Gòn. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học
giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức quần chúng, đại
diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu họcđến đại học, từ phổ
thông đến kỹ thuật… Ba nguyên tắc “nhân bản” (humanistic), “dân tộc” (nationalistic), và “khai phóng”
được chính thức hóa ởhội nghị này. Đây là những nguyên tắc làm nền tảng
cho triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa, được ghi cụ thể trong tài
liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trong Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa (1967).
Khóa Hội Thảo Cải Tổ Chương Trình Sư Phạm.
1. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục nhân bản.
Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốc, lấy
cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người
như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ
cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác. Triết
lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa cáccá nhân, nhưng không chấp
nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá conngười, và không chấp
nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôngiáo, chủng tộc…
Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.
2. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục dân tộc.
Giáo
dục tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên
hệ tới gia đình, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và
phát huy được những tinh hoa hay những truyền thốngtốt đẹp của văn hóa
dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thếhệ biết đến,
bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan biến trong nhữngnền văn
hóa khác.
Sinh viên đại học Dược Khoa Sài Gòn gói bánh chưng để đem giúp đồng bào miền Trung bị bão lụt năm Thìn 1964.
3. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục khai phóng.
Tinh
thần dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng
cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếpnhận những kiến thức khoa học
kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinhthần dân chủ, phát triển
xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việchiện đại hóa quốc
gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minhthế giới.
Từ
những nguyên tắc căn bản ở trên, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đề ra
những mục tiêu chính sau đây cho nền giáo dục của mình. Những mục tiêu
này được đề ra là để nhằm trả lời cho câu hỏi: Sau khi nhận được sự giáo
dục, những người đi học sẽ trở nên người như thế nào đối với cá nhân
mình, đối với gia đình, quốc gia, xã hội, và nhân loại.
Mục tiêu giáo dục thời VNCH:
Bích chương của Bộ Y Tế VNCH
1. Phát triển toàn diện mỗi cá nhân.
Trong
tinh thần tôn trọng nhân cách và giá trị của cá nhân học sinh, giáo dục
hướng vào việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính tự nhiên
của mỗi người và theo những quy luật phát triển tự nhiên cả về thể chất
lẫn tâm lý. Nhân cách và khả năng riêng của học sinh được lưu ý đúng
mức. Cung cấp cho học sinh đầy đủ thông tin và dữ kiện để học sinh phán
đoán, lựa chọn; không che giấu thông tin hay chỉ cung cấp những thông
tin chọn lọc thiếu trung thực theo một chủ trương, hướng đi định sẵn
nào.
Thanh nữ VNCH
2. Phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh.
Điều
này thực hiện bằng cách: giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi
trường sống, và lối sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử
nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết,tranh đấu
của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh
học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh
nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú của
quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo
tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia;
giúp học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.
Người dân miền Nam biểu tình phản đối Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, năm 1974
3. Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học.
Điều
này thực hiện bằng cách: giúp học sinh tổ chức những nhóm làm việc độc
lập qua đó phát triển tinh thần cộng đồng và ýthức tập thể; giúp học
sinh phát triển óc phán đoán với tinh thần trách nhiệmvà kỷ luật; giúp
phát triển tính tò mò và tinh thần khoa học; giúp học sinh có khả năng
tiếp nhận những giá trị văn hóa của nhân loại.
Mặt tiền của Viện Đại Học Sài Gòn (Số 3 Công Trường
chiến sĩ)
Giáo dục tiểu học:
Một lớp tiểu học ở miền Nam vào năm 1961.
Bậc tiểu học thời Việt Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ Nhất Cộng Hòa gọi là lớp Năm đến lớp Nhất).
Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục phổ cập
(bắt buộc). Từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa đã có luật quy định trẻ em phải đi
học ít nhất ba năm tiểu học. Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai
thi trượt phải học “đúp”, tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.
Số liệu giáo dục bậc tiểu học[8]
| ||
Niên học
|
Số học sinh
|
Số lớp học
|
1955
|
400.865
|
8.191
|
1957
|
717.198[9]
| |
1960
|
1.230.000[9]
| |
1963
|
1.450.679
|
30.123
|
1964
|
1.554.063[10]
| |
1970
|
2.556.000
|
44.104
|
Học sinh tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được chia ra 2 ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều. Vào
đầu thập niên 1970, Việt Nam Cộng Hòa có 2,5 triệu học sinh tiểu học,
chiếm hơn 80% tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi; 5.208 trường tiểu
học(chưa kể các cơ sở ở Phú Bổn, Vĩnh Long và Sa Đéc).
Học sinh lớp Nhất, lớp Nhì hồi xưa. ( Lớp Bốn lớp Năm bây giờ. )
Tất
cả trẻ em từ 6 tuổi đều được nhận vào lớp Một để bắt đầu bậc tiểu học.
Phụ huynh có thể chọn lựa cho con em vào học miễn phí cho hết bậc tiểu
học trong các trường công lậphay tốn học phí (tùy trường) tại các trường
tiểu học tư thục. Lớp 1 (trước năm 1967 gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong đó 9,5 giờ môn quốc văn; 2 giờ bổn phận công dân và đức dục (còn gọi là lớp Công dân giáo dục). Lớp 2 (trước năm 1967 gọi là lớp Tư),
quốc văn giảm còn 8 tiếng nhưng thêm 2 giờ sử ký và địa lý. Lớp 3 trở
lên thì ba môn quốc văn, công dân và sử địa chiếm 12-13 tiếng mỗi tuần.
Giờ sinh hoạt của toàn trường thời bấy giờ.
Một năm học kéo dài chín tháng, nghỉ ba tháng hè. Trong năm học có khoảng 10 ngày nghỉ lễ (thông thường vào những ngày áp Tết).
Thẻ căn cước học sinh trường Võ Trường Toản
Giáo dục trung học:
Các vị Giáo Sư trường Hồ Ngọc Cẩn
Tính
đến đầu những năm 1970, Việt Nam Cộng Hòa có hơn 550.000 học sinh trung
học, tức hơn 20% tổngsố thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18; có
534 trường trung học (chưa kể các cơ sở ở Vĩnh Long và Sa Đéc). Đến năm
1975 thì có khoảng 900.000 học sinh ởcác trường trung học công lập. Các
trường trung học công lập nổi tiếng thời đó có Petrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trưng Vương, Gia Long,
Lê Quý Đôn (Sài Gòn) tiền thân là Trường Chasseloup Laubat, Quốc Học
(Huế), Trường Trung học Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ
Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ)… Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.
Tên gọi năm lớp bậc tiểu học
| |
trước 1971
|
sau 1971
|
lớp năm
|
lớp một
|
lớp tư
|
lớp hai
|
lớp ba
|
lớp ba
|
lớp nhì
|
lớp tư
|
lớp nhất
|
lớp năm
|
Tên các lớp bậc trung học đệ nhất cấp
| |
lớp đệ thất
|
lớp sáu
|
lớp đệ lục
|
lớp bảy
|
lớp đệ ngũ
|
lớp tám
|
lớp đệ tứ
|
lớp chín
|
Tên các lớp trung học đệ nhị cấp
| |
lớp đệ tam
|
lớp mười
|
lớp đệ nhị
|
lớp 11
|
lớp đệ nhất
|
lớp 12
|
Một lớp thử nghiệm hoá chất tại trường Petrus Ký
Trung học đệ nhất cấp:
Trường Trung học Cộng đồng Quận 8 năm 72- 73
Trung học đệ nhất cấp bao gồm từ lớp 6 đến lớp 9 (trước năm 1971 gọi là lớp đệ thất đến đệ tứ), tương đương trung học cơ sở hiện
nay. Từ tiểu học phải thi vào trung học đệ nhất cấp. Đậu vào trường
trung học công lập không dễ . Các trường trung học công lập hàngnăm đều
tổ chức tuyển sinh vào lớp Đệ thất (từ năm 1971 gọi là lớp 6), kỳ thi có
tính chọn lọc khá cao (tỷ số chung toàn quốc vào trường công khoảng
62%); tại một số trường danh tiếng tỷ lệ trúng tuyển thấp hơn 10%. Những
học sinhkhông vào được trường công thì có thể nhập học trường tư thục
nhưng phải trảhọc phí. Một năm học được chia thành hai “lục cá nguyệt”
(hay “học kỳ”). Kể từ lớp 6, học sinh bắt đầu phải học ngoại ngữ,
thường là tiếng Anh hay tiếng Pháp, môn Công dân giáo dục tiếp tục với
lượng 2 giờ mỗi tuần. Từ năm 1966 trở đi, môn võ Vovinam (tức Việt Võ đạo) cũng được đưa vào giảng dạy ở một số trường. Học xong năm lớp 9 thì thi bằng Trung học đệ nhất cấp.
Kỳ thi này thoạt tiên có hai phần: viết và vấn đáp. Năm 1959 bỏ phần
vấn đáp rồi đến niên học 1966-67 thì Bộ Quốc gia Giáo dục bãi bỏ hẳn kỳ
thi Trung học đệ nhất cấp.
Sân trường Marie Curie
Trung học đệ nhị cấp:
Nam sinh Võ Trường Toản
Trung học đệ nhị cấp là các lớp 10, 11 và 12,
trước 1971 gọi là đệ tam, đệ nhị và đệ nhất; tương đương trung học phổ
thông hiện nay. Muốn vào thì phải đậu được bằng Trung học đệ nhất cấp,
tức bằng Trung học cơ sở. Vào đệ nhị cấp, học sinh phải chọn học theo
một trong bốn ban như dự bị vào đại học. Bốn ban thường gọi A, B, C, D
theo thứ tự là Khoa học thực nghiệm hay còn gọi là ban vạn vật; ban
toán; ban văn chường và ban văn chương cổ ngữ, thường là Hán văn. Ngoài
ra học sinh cũng bắt đầu học thêm một ngoại ngữ thứ hai. Vào năm lớp 11
thì học sinh phải thi Tú tài I rồi thi Tú tài II năm
lớp 12. Thể lệ này đến năm học 1972-1973 thì bỏ, chỉ thi một đợt tú tài
phổ thông. Thí sinh phải thi tất cả các môn học được giảng dạy (trừ môn
Thể dục), đề thi gồm các nội dung đã học, không có giới hạn hoặc bỏ
bớt. Hình thức thi kể từ năm 1974 cũng bỏ lối viết bài luận (essay) mà theo lối thi trắc nghiệm có tính cách khách quan hơn.
Số liệu giáo dục bậc trung học[8]
| ||
Niên học
|
Số học sinh
|
Số lớp học
|
1955
|
51.465
|
890
|
1960
|
160.500[9]
| |
1963
|
264.866
|
4.831
|
1964
|
291.965[10]
| |
1970
|
623.000
|
9.069
|
Mỗi
năm có hai đợt thi Tú tài tổ chức vào khoảng tháng 6 và tháng 8. Tỷ lệ
đậu Tú tài I (15-30%) và Tú tài II (30-45%), tại các trường công lập
nhìn chung tỷ lệ đậu cao hơn trường tư thục do phần lớn học sinh đã được
sàng lọc qua kỳ thi vào lớp 6 rồi. Do tỷ lệ đậu kỳ thi Tú tài khá thấp
nên vào được đại học là một chuyện khó. Thí sinh đậu được xếp thành:
Hạng “tối ưu” hay “ưu ban khen” (18/20 điểm trở lên), thí sinhđậu Tú tài
II hạng tối ưu thường hiếm, mỗi năm toàn Việt Nam Cộng Hòa chỉ một vài
em đậu hạng này, có năm không có; hạng “ưu” (16/20 điểm trở lên);
“bình”(14/20); “bình thứ” (12/20), và “thứ” (10/20).
Thầy trò trường nữ Gia Long
Một
số trường trung học chia theo phái tính như ở Sài Gòn thì có trường
Petrús Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trường Hồ Ngọc Cẩn (Gia Định) và
các trường Quốc học (Huế), Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Võ Tánh (Nha
Trang), Trần Hưng Đạo (Đà Lạt), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho) dành cho nam sinhvà
các trường Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt, Trường Nữ Trung học
Đồng Khánh (Huế), Trường Nữ Trung học Bùi Thị Xuân (Đà Lạt), Trường Nữ
Trung học Lê Ngọc Hân (Mỹ Tho), Trường Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm (Cần
Thơ) chỉ dành cho nữ sinh.
Học sinh trung học lúc bấy giờ phải mặc đồng phục: nữ sinh thì áo dài
trắng, quần trắng hay đen; còn nam sinh thì mặc áo sơ mi trắng, quần màu
xanh dương.
Nữ sinh Lê Văn Duyệt
Trung học tổng hợp:
Chương trình giáo dục trung học tổng hợp (tiếng Anh: comprehensive high school) là mộtchương trình giáo dục thực tiễn phát sinh từ quan niệm giáo dục của triết gia John Dewey,sau
này được nhà giáo dục người Mỹ là James B. Connant hệ thống hóa và
đemáp dụng cho các trường trung học Hoa Kỳ Giáo dục trung học tổng hợp
chú trọng đến khía cạnh thực tiễn và hướng nghiệp, đặt nặng vào các môn
tư vấn,kinh tế gia đình, kinh doanh, công-kỹ nghệ, v.v… nhằm trang bị
cho học sinhnhững kiến thức thực tiễn, giúp họ có thể mưu sinh sau khi
rời trường trunghọc. Ở từng địa phương, phụ huynh học sinh và các nhà
giáo có thể đề nghị nhữngmôn học đặc thù khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở
nơi mình sinh sống. Thời Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa chính phủ cho thử
nghiệm chương trình trung học tổng hợp,nhập đệ nhất và đệ nhị cấp lại
với nhau. Học trình này được áp dụng đầu tiên tại Trường Trung học Kiểu
mẫu Thủ Đức, sau đó mở rộng cho một số trường như Nguyễn An Ninh (cho
nam sinh; 93 đường Trần Nhân Tông, Quận 10) và SươngNguyệt Ánh (cho nữ
sinh; góc đường Bà Hạt và Vĩnh Viễn, gần chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và
Chưởng Binh Lễ ở Long Xuyên.
Nhạc
sĩ Nguyễn Đức Quang (cầm đàn) trong một buổi sinh hoạt của nhóm Du Ca
với các học sinh trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức vào cuối thập niên
1960
Trung học kỹ thuật:
Trường Quốc-Gia Nông-Lâm-Mục B’Lao
Các
trường trung học kỹ thuật nằm trong hệ thống giáo dục kỹ thuật, kết hợp
việc dạy nghề với giáodục phổ thông. Các học sinh trúng tuyển vào trung
học kỹ thuật thường được cấphọc bổng toàn phần hay bán phần. Mỗi tuần
học 42 giờ; hai môn ngoại ngữ bắtbuộc là tiếng Anh và tiếng Pháp. Các
trường trung học kỹ thuật có mặt hầuhết ở các tỉnh, thành phố; ví dụ,
công lập thì có Trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng (thành lập năm 1956;
tiền thân là Trường Cơ khí Á châu thành lập năm 1906 ở Sài Gòn; nay là
Trường Cao Đẳng Kỹ Thuật Cao Thắng), Trường Trung học Nông Lâm Súc Bảo
Lộc, Trường Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ; tư thục thì có Trường
Trung học Kỹ thuật Don Bosco (do các tu sĩ Dòng Don Bosco thành lập năm 1956 ở Gia Định; nay là Trường Đại Học Công Nghiệp TPHCM).
Hiệu trưởng Cao Thanh Đảnh và các Giáo Sư trường trung học kỹ thuật Cao Thắng.
Các trường tư thục và Quốc Gia Nghĩa Tử
Các trường tư thục và Bồ đề:
Lễ kỷ niệm 100 năm thành lập của trường Lasan Taberd 17 tháng 2 năm 1974
Ngoài
hệ thống trường công lập của chính phủ là hệ thống trường tư thục. Vào
năm 1964 các trường tưthục giáo dục 28% trẻ em tiểu học và 62% học sinh
trung học. Đến niên học 1970-1971 thì trường tư thục đảm nhiệm 17,7% học
sinh tiểu học và 77,6% học sinh trung học. Con số này tính đến năm
1975, Việt Nam Cộng Hòa có khoảng 1,2 triệu học sinh ghi danh học ở hơn 1.000 trường tư thục ở cả hai cấp tiểu học và trung học.
Các trường tư thục nổi tiếng như Lasan Taberd dành cho nam sinh;
Couvent des Oiseaux, Regina Pacis (Nữ vương Hòa bình), và Regina Mundi
(Nữ vương Thế giới) dành cho nữ sinh. Bốn trường này nằm dưới sự điều
hành của Giáo Hội Công Giáo.
Sân trường Bác ái (Collège Fraternité)
Trường Bác ái (Collège Fraternité) ở Chợ Quán với đa số học sinh là người Việt gốc Hoa cũng là một tư thục có tiếng do các thương hội người Hoa bảo trợ. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất có
hệ thống các trường tiểu học và trung học Bồ Đề ở nhiều tỉnh thành,
tính đến năm 1970trên toàn quốc có 137 trường Bồ đề, trong đó có 65
trường trung học với tổng sốhọc sinh là 58.466. Ngoài ra còn có một số
trường do chính phủ Pháp tài trợ như Marie Curie, Colette, và
Saint-Exupéry. Kể từ năm 1956, tất cả cáctrường học tại Việt Nam, bất kể
trường tư hay trường do ngoại quốc tài trợ, đều phải dạy một số giờ
nhấtđịnh cho các môn quốc văn và lịch sử Việt Nam. Chương trình học
chính trongcác trường tư vẫn theo chương trình mà Bộ Quốc gia Giáo dục
đã đề ra, dù có thể thêm một số giờ hoặc môn kiến thức thêm. Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Viêt Nam tổng cộng có 1.087 trường tư thục ở miền Nam Việt Nam bị giải thể và trở thành trường công (hầu hết mang tên mới).
Le Collège Fraternité – Bac Ai datant de 1908, se situe 4 – rue Nguyên Trai, Cho Quan.
Các trường Quốc Gia Nghĩa Tử:
Saigon 17 March 1971 – Bà Nguyễn Văn Thiệu dự lễ khánh thành Thư viện trường Quốc Gia Nghĩa Tử.
Ngoài
hệ thống các trường công lập và tư thục kể trên, Việt Nam Cộng Hòa còn
có hệ thống thứ ba là các trường Quốc gia nghĩa tử. Tuy đây là trường
công lập nhưng không đón nhậnhọc sinh bình thường mà chỉ dành riêng cho
các con em của tử sĩ hoặc thương phế binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như
là một đặc ân của chính phủ giúpđỡ không chỉ phương tiện học hành mà cả
việc nuôi dưỡng. Hệ thống này bắt đầuhoạt động từ năm 1963 ở Sài Gòn,
sau khai triển thêm ở Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế,và Biên Hòa. Tổng cộng có 7
cơ sở với hơn 10.000 học sinh. Loại trường này do Bộ Cựu Chiến binh quản
lý chứ không phải Bộ Quốc gia Giáo dục, nhưng vẫn dùng giáo trình của
Bộ Quốc gia Giáo dục. Chủ đích của các trường Quốc gianghĩa tử là giáo
dục phổ thông và hướng nghiệp cho các học sinh chứ không đượchuấn luyện
quân sự. Vì vậy trường Quốc gia nghĩa tử khác trường Thiếu sinhquân. Sau
năm 1975, các trường quốc gia nghĩa tử cũng bị giải thể.
Giáo dục đại học:
Học
sinh đậu được Tú tài II thì có thể ghi danh vào học ở một trong các
viện Đại Học, trường Đại Học, và học viện trong nước. Tuy nhiên vì số
chỗ trong một số trường rất có giới hạn nên học sinh phải dự một kỳ thi
tuyển có tính chọn lọc rất cao; các trường này thường là Y, Dược, Nha,
Kỹ Thuật, Quốc gia hành chánh và Sư Phạm. Việc tuyển chọn dựa trên khả năng của thí sinh,hoàn toàn không xét đến lý lịch gia đình. Sinh
viên học trong các cơ sở giáo dục công lập thì không phải đóng tiền.
Chỉ ở một vài trường hay phân khoa đại học thì sinh viên mới đóng lệ phí
thi vào cuối năm học. Ngoài ra, chính phủ còn có những chương trình học
bổng cho sinh viên.
Trong khuôn viên Học viện Quốc gia Hành chánh
Số liệu giáo dục bậc đại học
| |
Niên học
|
Số sinh viên
|
1960-61
|
11.708[45]
|
1962
|
16.835[10]
|
1964
|
20.834[10]
|
1974-75
|
166.475[46]
|
Chương
trình học trong các cơ sở giáo dục đại học được chia làm ba cấp. Cấp 1
(học 4 năm): Nếu theo hướng các ngành nhân văn, khoa học, v.v.. thì lấy bằng cử nhân (ví dụ: cử nhân Triết, cử nhân Toán…); nếu theo hướng các ngành chuyên nghiệp thì lấy bằng tốt nghiệp (ví dụ: bằng tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm, bằng tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành chánh…) hay bằng kỹ sư (ví dụ: kỹ sư Điện, kỹ sư Canh nông…). Cấp 2: học thêm 1-2 năm và thi lấy bằng cao học hay tiến sĩ đệ tam cấp (tiếng Pháp: docteurde troisième cycle; tương đương thạc sĩ ngày nay). Cấp 3: học thêm 2-3 năm và làm luận án thì lấy bằng tiến sĩ (tương
đương với bằng Ph.D. của Hoa Kỳ). Riêng ngành y, vì phải có thời gian
thực tập ở bệnh viện nên sau khi học xong chương trình dự bị y khoa phải
học thêm 6 năm hay lâu hơn mới xong chương trình đại học.
Đại học Luật khoa Sài Gòn
Mô hình các cơ sở giáo dục đại học:
Phần lớn các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam thời Việt Nam Cộng Hòa được tổ chức theo mô hình viện đại học (theo Việt-Nam Tự-Điển của Hội khai trí Đức Tiến: Viện = Nơi, sở). Đây là mô hình tương tự như university của Hoa Kỳ và Tây Âu, cùng với nó là hệ thống đào tạo theo tín chỉ (tiếng Anh: credit). Mỗi viện đại học bao gồm nhiều phân khoa đại học (tiếng Anh: faculty; thường gọi tắt là phân khoa, ví dụ: Phân khoa Y, Phân khoa Sư phạm, Phân khoa Khoa học, v.v…) hoặc trường hay trường đại học (tiếng Anh: school hay college; ví dụ: Trường Đại học Nông nghiệp, Trường Đại học Kỹ thuật, v.v…). Trong mỗi phân khoa đại học hay trường đại học có các ngành (ví dụ: ngành Điện tử, ngành Công chánh, v.v…); về mặt tổ chức, mỗi ngành tương ứngvới một ban (tiếng Anh: department; tương đương với đơn vị khoa hiện nay).
Trường Đại học Giáo dục: Tiền thân là Trung tâm Huấn luyện Sư phạm Kỹ thuật
Về
mặt tổ chức, viện đại học của Việt Nam Cộng Hòa duy trì đường lối phi
chính trị của các đại học Tây Phương. Các khoa trưởng của các trường
phân khoa không do Bộ Quốc gia Giáo dục bổ nhiệm mà do các giáo sư của
Hội đồng Khoa bầu lên.
Trong
hai thập niên 1960 và 1970, lúc hội nghị Hòa Bình đang diễn ra ở Paris,
chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ráo riết lên kế hoạch tái thiết sau chiến
tranh, với viễn cảnh là hòa bình sẽ lập lại ở Việt Nam, một chính phủ
liên hiệp sẽ được thành lập, người lính từ các bên trở về cần được đào
tạo để tái hòa nhập vào xã hội. Trong khuôn khổ kế hoạch đó, có hai mô
hình cơ sở giáo dục đại học mới và mang tính thực tiễn được hình thành,
đó là trường đại học cộng đồng và viện đại học bách khoa.
Trường
đại học cộng đồng là một cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và đa ngành;
sinh viên học ở đây để chuyển tiếp lên học ở các viện đại học lớn, hoặc
mở mang kiến thức, hoặc học nghề để ra làm việc. Các trường đại học cộng
đồng được thành lập với sự tham gia đóng góp, xây dựng, và quản trị của
địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương trong các mặt
văn hóa, xã hội, và kinh tế. Khởi điểm của mô hình giáo dục này là một
nghiên cứu của ông Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó được đưa vào một luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học Southern California vào năm 1970 với tựa đề The Community College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam (Khái
niệm trường đại học cộng đồng:Nghiên cứu sự phù hợp của nó với công
cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt Nam). Cơ sở đầu tiên được hình thành là
Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang, thành lập vào năm 1971 ở Định
Tường sau khi mô hình giáo dục mới này được mang đi trình bày sâu rộng
trong dân chúng.
Trường Đại học Giáo dục: Tiền thân là Trung tâm Huấn luyện Sư phạm Kỹ thuật
Vào năm 1973, Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức (tên tiếng Anh: Thủ Đức Polytechnic University, gọi tắt là Thủ Đức Poly)
được thành lập. Đây là một cơ sở giáo dục đại học đa ngành, đa lĩnh
vực, và chú trọng đến các ngành thực tiễn. Trong thời gian đầu, Viện Đại
học Bách khoa Thủ Đức có các trường đại học chuyên về Nông Nghiệp, Kỹ
Thuật, Giáo Dục, Khoa Học và Nhân Văn, Kinh tế và Quản trị, và Thiết kế
đô thị; ngoài ra còn có trường đào tạo sau đại học. Theo kế hoạch, các
cơ sở giáo dục đều được gom chung lại trong một khuôn viên rộng lớn, tạo
một môi trường gợi hứng cho trí thức suy luận, với một cảnh trí được
thiết kế nhằm nâng cao óc sáng tạo; quản lý hành chính tập trung để tăng
hiệu năng và giảm chi phí.
Trường Sư phạm, thuộc Viện ĐH Sài gòn
Sau
năm 1975, dưới chính thể Cộng Hoà xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, toàn bộ
các cơ sở giáo dục đại học thời Việt Nam Cộng hòa bị đổi tên và bị phân
tán theo khuôn mẫu giáo dục của Liên Xô nên không còn mô hình theo đó
các trường hay phân khoa đại học cấu thành viện đại học, mà mỗi trường
trở nên biệt lập. Giáo dục đại học Việt Nam dưới các chính thể Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo mô hình phân
tán ngànhhọc. Các “trường đại học bách khoa” được thành lập dưới hai
chính thể này( Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách Khoa
TPHCM, vàTrường Đại Học Bách Khoa Đà Nẵng) không giống như mô hình viện đại học bách khoa vì
chỉ tập trung vào các ngành kỹ thuật Tương tự, mô hình “trường đại học
tổng hợp” (Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội, Trường Đại Học Tổng Hợp
TPHCM và Trường Đại Học Tổng Hợp Huế) cũng chỉ tập trung vào các ngành
khoa học cơ bản, chứ không mang tính chất toàn diện. Đến đầu thập niên
1990, chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mới thành lập 2 “đại
học”cấp quốc gia và 3 “đại học” cấp vùng theo mô hình gần giống như mô
hình việnđại học.
Vào tháng 10 năm 2009, một số đại biểu của QuốcHội nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam đưa ra đề nghị gọi tên các“đại học” cấp quốc gia và
cấp vùng là “viện đại học”.
Các viện đại học công lập:
Viện
Đại Học Sài Gòn: Tiền thân là Viện Đại Học Đông Dương (1906), rồi Viện
Đại Học Quốc Gia Việt Nam (1955)– còn có tên là Viện Đại học Quốc gia
Sài Gòn. Năm 1957, Viện Đại học Quốc Gia Việt Namđổi tên thành Viện Đại
học Sài Gòn. Đây là viện đại học lớn nhất nước. Trướcnăm 1964, tiếng
Việt lẫn tiếng Pháp được dùng để giảng dạy ở bậc đại học, nhưngsau đó
thì chỉ dùng tiếng Việt mà thôi theo chính sách ngôn ngữ theo đuổi từnăm
1955. Riêng Trường Đại Học Y Khoa dùng cả tiếng Anh. Vào thời điểm
năm1970, hơn 70% sinh viên đại học trên toàn quốc ghi danh học ở Viện
Đại học Sài Gòn.
Viện Đại Học Huế: Thành lập vào tháng 3 năm 1957 với 5 phân khoa đại học: Khoa học, Luật, Sư phạm, Văn khoa, vàY khoa.
Hàng
đầu bên trái ông Nguyễn Đăng Trình Bộ trưởng Bộ QG Giáo dục , Viện
trưởng Viện Đại học Huế đầu tiên ( tháng 3/1957-7/1957 ) Giữa Tổng thống
VNCH Ngô Đình Diệm , bên phải Linh mục Giáo sư Cao Văn Luận Viện trưởng
Viện Đại học Huế từ 7/1957-1965
Viện
Đại Học Cần Thơ: Thành lập năm 1966với 4 phân khoa đại học: Khoa học,
Luật khoa & Khoa học Xã hội, Sư phạm, và Văn khoa.
Viện
Đại Học Bách Khoa Thủ Đức:Thành lập năm 1974. Tiền thân là Trung tâm
Quốc gia Kỹ thuật (1957), Học viện Quốc gia Kỹ thuật (1972).
Các viện đại học tư thục
Viện Đại Học Đà Lạt: Thành lập ngày 8tháng 8 năm 1957. Một phần cơ sở của Viện Đại học Đà Lạt nguyên là một chủng viện của Giáo hội Công Giáo. Viện đại học này có 4 phân khoa đại học: Chính trị Kinh doanh, Khoa học, Sư phạm, Thần học và Văn khoa. Theo ước tính, từ năm1957 đến 1975 viện đại học này đã giáo dục 26.551 người.
Viện Đại học Đà lạt
Viện Đại Học Vạn Hạnh: Thuộc khối Ấn Quang của
Giáo hội phật giáo hội Việt Nam Thống Nhất; thành lập ngày 17 tháng 10
năm 1964 ở số 222 đường Trương Minh Giảng (sau 1975 là đường Lê Văn Sỹ),
Quận 3, Sài Gòn-Gia Định với 5 phân khoađại học: Giáo dục, Phật Học,
Khoa Học Xã hội, Khoa học ứng dụng, và Văn học& Khoa học nhân văn.
Vào đầu thập niên 1970, Vạn Hạnh có hơn 3.000 sinhviên.
Lễ phát bằng Cử Nhân của Viện Đại Học Vạn Hạnh, 1973
Viện
Đại Học Phương Nam: Được cấp giấy phép năm 1967 tọa lạc ở số 16 đường
Trần Quốc Toản (sau năm 1975 là đường 3Tháng Hai), Quận 10, Sài Gòn.
Viện đại học này thuộc khối Việt Nam QuốcTự của Hội Phật Giáo Việt Nam
Thống Nhất, Giáo sư Lê Kim Ngân làm việntrưởng. Viện Đại học Phương
Namcó 3 phân khoa đại học: Kinh tế-Thương mại, Ngoại ngữ, và Văn khoa.
Vào thậpniên 1970, viện đại học này có khoảng 750 sinh viên ghi danh.
Thư viện Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn
Viện
Đại Học An Giang (Hòa Hảo): Thành lập năm 1970 ở Long Xuyên với 5
phânkhoa đại học: Văn khoa, Thương mại-Ngân hàng, Bang giao Quốc tế,
Khoa học Quảntrị và Sư phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Phật
Giáo Hòa Hảo.
Viện
Đại Học Cao Đài: Thành lập năm 1971 trên đường Ca Bảo Đạo ở Tây
Ninh với 3 phân khoa đại học: Thần học Cao Đài, Nông lâm mục, và Sư
phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Cao Đài
Viện
Đại Học Minh Đức: Được cấp giấy phép năm 1972, trụ sở ở Sài Gòn với 5
phân khoa đại học: Kỹ thuật Canh nông, Khoahọc Kỹ thuật, Kinh tế Thương
mại, Nhân văn Nghệ thuật, và Y Khoa. Viện Đại họcnày do Giáo hội Công
Giáo điều hành.
Các học viện và viện nghiên cứu
Viện Pasteur Nha Trang
Học
Viện Quốc Gia Hành Chính:Cơ sở này được thành lập từ thời Quốc Gia Việt
Nam với văn bản ký ngày 29tháng 5 năm 1950 nhằm đào tạo nhân sự chuyên
môn trong lãnh vực công quyền nhưthuế vụ và ngoại giao. Trường sở đặt ở
Đà Lạt; năm 1956 thì dời về Sài Gòn đặt ở đường Alexandre de Rhodes; năm
1958 thì chuyển về số 100 đường Trần Quốc Toản (gần góc đường Cao
Thắng, sau năm 1975 là đường 3/2), Quận10, Sài Gòn. Học viện này trực
thuộc Phủ Thủ tướng hay Phủ Tổng thống, đến năm1973 thì thuộc Phủ Tổng
ủy Công vụ. Học viện có chương trình hai năm cao học, chia thành ba ban
cao học, đốc sự, và tham sự.
Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp (1972-1974): tiền thân là Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972) rồi nhập vào Viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức năm 1974.
Ngoài những học viện trên, Việt Nam Cộng hòa còn duy trì một số cơ quan nghiên cứu khoa học như Viện Pasteur Sài Gòn, Viện Pasteur Đà Lạt, Viện Pasteur Nha Trang, Viện Hải dương học Nha Trang, Viện Nguyên tử lực Đà Lạt, Viện Khảo cổ v.v. với những chuyên môn đặc biệt.
Viện Pasteur Sài Gòn thời Pháp thuộc.
Các trường đại học cộng đồng:
Bắt đầu từ năm 1971 chính phủ mở một số trường đại học cộng đồng (theo mô hình community college của
Hoa Kỳ) như Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang ở Mỹ Tho, Duyên Hải ở
Nha Trang, Quảng Đà ở ĐàNẵng (1974), và Long Hồ ở Vĩnh Long.
Trường
Đại học Cộng đồng Tiền Giang đặt trọng tâm vào nông nghiệp; Trường Đại
học Cộng đồng Duyên Hải hướng về ngư nghiệp. Riêng Trường Long Hồ còn
đang dang dở chưa hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải tán. Ở
Sài Gòn thì có Trường Đại học Regina Pacis (khai giảng vào năm 1973)
dành riêng cho nữ sinh do Công Giáo thành lập, và theo triết lý đại học
cộng đồng.
Các trường kỹ thuật và huấn nghệ:
Trường Kỹ Sư Công Nghệ, Trường Hàng Hải thuộc Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật
Ngoài
những trường đại học còn có hệ thống trường cao đẳng như Trường Bách
khoa Phú Thọ và Trường Nông lâm súc. Một số những trường này sang thập
niên 1970 được nâng lên tươngđương với cấp đại học.
Trường
quốc gia Nông Lâm mục: Thoạt tiên là Nha Khảo cứu Đông Dương thành lập
năm 1930 ở B’lao, cơ sở này đến năm 1955 thì nâng lên thành Trường Quốc
gia Nông lâm mục với chương trình học bốn năm. Diện tích vườn thực
nghiệm rộng 200 ha chia thành những khu chăn nuôi gia súc,vườn cây công
nghiệp, lúa thóc.[74] Qua từng giai đoạn Trường đổi tên thành Trường Cao
đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp
(1968-1972), Học viện Quốc gia Nông nghiệp (1972-1974). Cuối cùng Trường
Quốc gia Nông lâm mục được sáp nhập vào Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức ( có trụ sở ở số 45 đường Cường Để, Quận 1, Sài Gòn). Trường còn có chi nhánh ở Huế, Cần Thơ, và Bình Dương.
Trường Cao đẳng Điện học
Trung
Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ: Thành lập năm 1957 thời Đệ nhất Cộng Hoà gồm bốn
trường: Trường Cao đẳng Công chánh, Trường Cao đẳng Điện học, Trường
Quốc gia Kỹ sư Công nghệ, và Trường Việt Nam Hàng hải. Năm 1968 lập thêm
Trường Cao đẳng Hóa học. Năm 1972, Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật đổi
thành Học viện Quốc gia Kỹ thuật và đến năm1974 thì nhập với Trường Đại
học Nông nghiệp để tạo nên Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức
Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia:Thành lập năm 1966 để đào tạo nhân viên giữ an ninh và thi hành luật pháp.
Các trường nghệ thuật:
Trường
Quốc gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ: Thành lập ngày 12 tháng 4 năm 1956 dưới
thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Chương trình học sau được bổ túc để bao gồm các
bộ môn âm nhạc cổ điễn TâyPhương và truyền thống Việt Nam cùng kịch
nghệ.
Các
giáo sư Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ đồng tấu: Trần Thanh Tâm
(đờn kìm), Phan Văn Nghị (đờn cò), Trương Văn Đệ (đờn tam), Vũ Văn Hòa
(sáo) và Nguyễn Vĩnh Bảo (đờn tranh).
Trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế:Thành lập năm 1962 ở cố đô Huế chủ yếu dạy âm nhạc cổ truyền Việt Nam,dùng nhà hát Duyệt Thị Đường trong Kinh Thành Huế làm nơi giảng dạy.
Trường
Quốc Gia Trang Trí Mỹ Thuật:thành lập năm 1971, trên cơ sở nâng cấp
Trường Trung học Trang trí Mỹ thuật Gia Định (tiền thân là Trường Mỹ
nghệ Gia Định, thành lập năm 1940).
Buổi học hình họa tại lớp dự bị của trường Quốc gia Mỹ thuật Sài Gòn đầu thập niên 60
Trường
Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn: thành lập sau năm 1954; chuyên đào
tạo về nghệ thuật tạo hìnhvới các chương trình học 3 và 7 năm. Vị giám
đốc đầu tiên là họa sĩ Lê Văn Đệ (1954-1966).
Sinh viên du học ngoại quốc:
Một
số sinh viên bậc đại học được cấp giấy phép đi du học ở nước ngoài. Hai
quốc gia thu nhận nhiều sinh viên Việt Nam vào năm 1964 là Pháp (1.522)
và Hoa Kỳ (399), đa số theo học các ngành khoa học xã hội và kỹ sư.
TÀI LIỆU VÀ DỤNG CỤ GIÁO KHOA
Trang trong sách Địa Lý lớp Ba
Năm 1958, chính phủ Đệ nhất Cộng hòa cho
lập Ban Tu thư thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục để soạn, dịch, và in sách
giáo khoa cho hệ thống giáo dục toàn quốc. Tính đến năm 1962, Bộ Quốc gia Giáo dục đã ấn hành xong 39 đầu sách tiểu học, 83 sách trung học, và 9 sách đại học.[82]
Trang bìa sách Địa Lý lớp Ba
Các
giáo chức và họa sĩ làm việc trong Ban Tu thư đã soạn thảo trọn bộ sách
cho bậc tiểu học. Bộ sách này được đánh giá cao cả về nội dung lẫn hình
thức. Có nhiều sách đã được viết, dịch, và phát hành để học sinh và
sinh viên có tài liệu tham khảo. Phần lớn sách giáo khoa và trang thiết
bị dụng cụ học tập do Trung tâm Học liệu của Bộ Giáo dục sản xuất và
cung cấp với sự giúp đỡ của một số cơ quan nước ngoài. Trung tâm này còn
hợp tác với UNESCO để
viết và dịch sách dành cho thiếu nhi để giúp các em hiểu biết về các
nền văn hóa khác nhau và tạo sự đoàn kết giữa các nhi đồng trên thế
giới. Bộ Giáo dục cũng dành riêng ngân quỹ để in sách giáo khoa bậc tiểu
học cho gần 30 sắc tộc thiểu số khác nhau ở Việt Nam.
Ngoài
ra, để có sự thống nhất trong việc sử dụng các danh từ chuyên môn, Bộ
Giáo dục cũng đã thiết lập Ủy ban Quốc gia Soạn thảo Danh từ Chuyên môn
bao gồm nhiều giáo sư đại học. Ủy ban đã soạn thảo và, thông qua Trung
tâm Học liệu, ấn hành những tập đầu tiên trong lĩnh vực văn học và khoa
học.[83] Trong những dự án đó Bộ cho in lại nguyên bản Truyện Kiều bằng chữ Nôm.
NHÀ GIÁO
Đào tạo giáo chức:
Trường ĐH Sư Phạm thuộc Viện ĐH Huế.
Tòa nhà này thời Pháp là KS Morin Frères
Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn (thành lập vào năm 1957) là cơ sở sư phạm đầu tiên, bắt đầu khai giảng năm 1958.[84] Sau có thêm các trường cao đẳng sư phạm ở Ban Mê Thuột, Huế, Vĩnh Long, Long An, và Quy Nhơn[85] Nha Trang, Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên.[86] Ngoài ra còn có Trường Đại học Sư phạm Huế thuộc Viện Đại học Huế và Trường Đại học Sư phạm Đà Lạt thuộc Viện Đại học Đà Lạt.[87] Vào
thời điểm năm 1974, cả nước có 16 cơ sở đào tạo giáo viên tiểu học với
chương trình hai năm còn gọi là chương trình sư phạm cấp tốc. Chương
trình này nhận những ai đã đậu được bằng Trung học Đệ nhất cấp.[88] Hằng năm chương trình này đào tạo khoảng 2.000 giáo viên tiểu học.[89] Giáo viên trung học thì phải theo học chương trình của trường đại học sư phạm (2 hoặc 4 năm).[90] Sinh viên các trường sư phạm được cấp học bổng nếu ký hợp đồng 10 năm làm việc cho nhà nước ở các trường công lập sau khi tốt nghiệp.[91]
Đội ngũ giáo sư trẻ nhiệt tình vừa tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài Gòn
Nha
Sư phạm (thuộc Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên) và các trường sư
phạm thường xuyên tổ chức các chương trình tu nghiệp và các buổi hội
thảo giáo dục để giáo chức có dịp học hỏi và phát triển nghề nghiệp. Bộ
Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên cũng gởi gởi nhiều giáo chức đi tu
nghiệp ở các nước như Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Nhật, Đức, v.v…[87]
Đối với giáo sư đại học thì đa số xuất thân từ Viện Đại học Đông Dương ở Hà Nội từ trước năm 1954. Số khác được đào tạo ở Pháp, Đức và Mỹ. Vào năm 1970 tổng cộng có 941 giáo sư giảng dạy ở các trường đại học của Việt Nam Cộng hòa.[56]
Lễ khai giảng Trường Đại học Quốc gia Việt Nam ngày 15 tháng 11 năm 1945, khóa đầu tiên dưới chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Đời sống và tinh thần giáo chức:
Chỉ
số lương của giáo viên tiểu học mới ra trường là 250, giáo học bổ túc
hạng 5 là 320, giáo sư trung học đệ nhất cấp hạng 4 là 400, giáo sư
trung học đệ nhị cấp hạng 5 là 430, hạng 4 là 470. Với mức lương căn bản
như vậy, cộng thêm phụ cấp sư phạm, nhà giáo ở các thành phố thời Đệ nhất Cộng hòa có cuộc sống khá thoải mái, có thể mướn được người giúp việc trong nhà. Sang thời Đệ nhị Cộng hòa, đời sống bắt đầu đắt đỏ, vật giá leo thang, nhà giáo cảm thấy chật vật hơn, nhất là ở những thành phố lớn như Sài Gòn và Đà Nẵng.
Tuy vậy, lúc nào các nhà giáo cũng giữ vững tinh thần và tư cách của
nhà mô phạm (người mẫu mực, người đóng vai trò hình mẫu), từ cách ăn mặc
thật đứng đắn đến cách ăn nói, giao tiếp với phụ huynh và học sinh, và
với cả giới chức chính quyền địa phương.[87]
Một nữ giáo sư trẻ vừa tốt nghiệp trường Sư Phạm.
THI CỬ VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP
Chứng chỉ Tú Tài 1
Đề thi trắc nghiệm đã được sử dụng cho môn Công dân, Sử, Địa trong các kỳ thi Tú tài I và Tú tài II từ niên khóa 1965–1966. Đến năm 1974,
toàn bộ các môn thi trong kỳ thi tú tài gồm toàn những câu trắc nghiệm.
Các vị thanh tra trong ban soạn đề thi đều phải đi dự lớp huấn luyện về
cách thức soạn câu hỏi, thử nghiệm các câu hỏi với trên 1.800 học sinh ở
nhiều nơi, phân tích câu trả lời của học sinh để tính độ khó của câu
hỏi và trả lời để lựa chọn hoặc điều chỉnh câu hỏi trắc nghiệm cho thích
hợp.[27]
Chứng chỉ Tú Tài 2
Đầu những năm 1970, Nha Khảo thí của Bộ Quốc gia Giáo dục đã ký hợp đồng với công ty IBM để
điện toán hóa toàn bộ hồ sơ thí vụ, từ việc ghi danh, làm phiếu báo
danh, chứng chỉ trúng tuyển… đến các con số thống kê cần thiết. Bảng trả
lời cho đề thi trắc nghiệm được đặt từ Hoa Kỳ, và bài làm của thí sinh được chấm bằng máy IBM 1230. Điểm chấm xong từ máy chấm được chuyển sang máy IBM 534 để đục lỗ. Những phiếu đục lỗ này được đưa vào máy IBM 360 để
đọc điểm, nhân hệ số, cộng điểm, tính điểm trung bình, độ lệch chuẩn,
chuyển điểm thô ra điểm tiêu chuẩn, tính thứ hạng trúng tuyển v.v… Nhóm
mẫu (sample) và nhóm định chuẩn (norm group) được lựa chọn kỹ càng theo đúng phương pháp của khoa học thống kê để tính điểm trung bình và độ lệch tiêu chuẩn.[27]
Một số nhà lãnh đạo giáo dục tiêu biểu
Trong suốt thời gian 20 năm tồn tại, các vị tổng trưởng (tức bộ trưởng) và thứ trưởng giáo dục của Việt Nam Cộng hòa đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở miền Nam Việt Nam. Sau đây là vài nhà lãnh đạo tiêu biểu:[96]
Ông Phan Huy Quát
- Phan Huy Quát: sinh năm 1911, mất năm 1979; Tổng trưởng Giáo dục Quốc gia Việt Nam 1949. Ông mất trong tù cải tạo dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
- Nguyễn Thành Giung: sinh năm 1894 tại Sa Đéc; tiến sĩ vạn vật học (Viện Đại học Khoa học Marseille); Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục 1952-53 thời Quốc gia Việt Nam, kiêm Phó Viện trưởng Viện Đại học Hà Nội.[97]
- Trần Hữu Thế: sinh năm 1922 tại Mỹ Tho, mất năm 1995 tại Pháp; tiến sĩ khoa học (1952), từng dạy học ở Lyon (Pháp) và làm giáo sư ở Trường Đại học Khoa học thuộc Viện Đại học Sài Gòn; từ 1958 đến 1960làm Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục; từng làm Đại sứ của Việt Nam Cộng hòa tại Philippines. Dưới thời Bộ trưởng Trần Hữu Thế, số lượng học sinh, sinh viên gia tăng nhanh chóng, và nhiều cải tiến trong giáo dục đã được thực hiện. Cùng thời kỳ này, Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) được tổ chức ở Sài Gòn vào năm 1958 chính thức hóa ba nguyên tắc nhân bản, dân tộc, và khai phóng làm nền tảng cho triết lý giáo dục Việt Nam Cộng hòa.
- Nguyễn Văn Trường: sinh năm 1930 tại Vĩnh Long; giáo sư tại Viện Đại học Huế; hai lần đảm trách chức vụ Tổng trưởng Giáo dục thời kỳ chuyển tiếp giữa Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa. Ông là người tích cực vận động và đóng góp vào sự ra đời của Viện Đại học Cần Thơ vào năm 1966.
- Trần Ngọc Ninh: sinh năm 1923 tại Hà Nội; bác sĩ giải phẫu và giáo sư Trường Đại học Y khoa Sài Gòn, giáo sư Văn minh Đại cương và Văn hóa Việt Nam tại Viện Đại học Vạn Hạnh; Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Giáo dục thời kỳ chuyển tiếp giữa Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa.[98]
- Lê Minh Trí: bác sĩ y khoa tai-mũi-họng, giáo sư Trường Đại học Y khoa Sài Gòn,[99] làm Tổng trưởng Giáo dục bị ám sát bằng lựu đạn năm 1969.[100]
- Nguyễn Lưu Viên: sinh năm 1919; bác sĩ, từng làm việc tại Trường Đại học Y khoa Sài Gòn, Bệnh viện Chợ Rẫy, và Viện Pasteur Sài Gòn; từ 1969 đến 1971 làm Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Giáo dục rồi Phó thủ tướng kiêm Trưởng Phái đoàn Việt Nam Cộng hòa ở Hội nghị La Celle Saint Cloud trong chính phủTrần Thiện Khiêm.
- Ngô Khắc Tĩnh: sinh năm 1922 tại Phan Rang, mất năm 2005 tại Hoa Kỳ; dược sĩ (tốt nghiệp ở Pháp); từ năm 1971 đến 1975 làm Tổng trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên; từ năm 1975 đến 1988 bị tù cải tạo dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
- Đỗ Bá Khê: sinh năm 1922 tại Mỹ Tho, mất năm 2005 tại Hoa Kỳ; tiến sĩ giáo dục (Viện Đại học Southern California); Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên thời Đệ nhị Cộng hòa. Ông là người đã thiết lập hệ thống các trường đại học cộng đồng ở miền Nam Việt Nam và được xem là “cha đẻ của các trường đại học cộng đồng Việt Nam”. Ông còn thiết lập Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức vào năm 1974 dựa theo mô hình của các viện đại học bách khoa ở California (Hoa Kỳ) và làm việc với vai trò viện trưởng sáng lập của viện đại học này.
- Nguyễn Thanh Liêm: sinh năm 1934 tại Mỹ Tho; tiến sĩ giáo dục (Viện Đại học Iowa State, Hoa Kỳ); Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên thời Đệ nhị Cộng hòa.
- Các Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục: Vương Quang Nhường, Nguyễn Dương Đôn, Nguyễn Quang Trình
ĐÁNH GIÁ
Học bạ của một học sinh giỏi nhất lớp năm 1950
Về học bạ trên, Giáo sư Dương Thiệu Tống, trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức đánh giá như sau:
“Điểm
nhận xét đầu tiên của tôi là điểm số các môn học ngày xưa sao lại thấp
đến thế, ngay cả đối với học sinh đứng nhất lớp như các thí dụ trên đây.
…
Vậy
phải chăng các thầy giáo chúng tôi ngày xưa không bị áp lực bởi thi đua
đạt thành tích nên có thể cho điểm trung thực hơn? Phải chăng chúng tôi
quá khắt khe với học sinh? Hay là học sinh ngày nay giỏi hơn xưa quá
nhiều? Tôi xin phép dành các câu hỏi này cho các đồng nghiệp và các
trường học của chúng ta suy ngẫm và tìm giải đáp.” ( Trích từ nguồn Blog Lý Toét)
Từ ngày 7 đến ngày 28 tháng 6 năm 1975 ( tức là sáu tuần sau sự kiện ngày 30 tháng 4), Arthur W. Galston, giáo sư sinh học ở Viện Đại học Yale, viếng thăm miền Bắc Việt Nam (lúc đó vẫn là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Theo tường trình của Galston cho tạp chí Science số ra ngày 29 tháng 8 năm 1975 thì một trong những chủ đề khiến các nhà lãnh đạo miền Bắc bận tâm vào lúc đó là vấn đề thống nhất với miền Nam. Theo tạp chí Science thì “Việc
thống nhất trong lĩnh vực khoa học và giáo dục có lẽ sẽ có nhiều khó
khăn vì hai miền đã phát triển theo hai chiều hướng khác nhau trong
nhiều thập niên. Nhưng dù cho có nhiều khó khăn, Galston nhận thấy các
nhà lãnh đạo miền Bắc công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với nhiều đặc
điểm của nền khoa học và giáo dục ở miền Nam; họ dự định kết hợp những
đặc điểm này vào miền Bắc khi quá trình thống nhất đang được thảo luận
sôi nổi vào lúc đó thực sự diễn ra.” Theo Galston, các nhà lãnh đạo miền Bắc, cụ thể được nhắc đến trong bài là Nguyễn Văn Hiệu (Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam) vàPhạm Văn Đồng (Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), đặc biệt quan tâm đến hệ thống giáo dục nhấn mạnh đến các ngành kỹ thuật và điện tử cùng hệ thống các trường đại học cộng đồng hệ hai năm đã được thiết lập ở miền Nam (nguyên văn tiếng Anh: “the widespread educational emphasis on engineering and electronics and the system of two-year, community colleges”).[104]
Lời chứng và đánh giá của ông Mai Thái Lĩnh, cựu sinh viên Viện Đại học Đà Lạt,[105] nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố Đà Lạt dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: “Tôi là con của một cán bộ Việt Minh– tham gia Cách mạng tháng Tám tại Lâm Đồng sau đó tập kết ra miền Bắc […] Chế độ Việt Nam Cộng hòa lúc
đó biết lý lịch của tôi, nhưng vẫn không phân biệt đối xử, cho nên tôi
vẫn có thể học hành đến nơi đến chốn. Tính chất tốt đẹp của nền giáo dục
cũ của miền Nam là
điều tôi công khai thừa nhận, vì vậy suốt 14 năm phục vụ trong ngành
giáo dục “xã hội chủ nghĩa” (1975-1989), tôi bị người ta gán cho đủ thứ
nhãn hiệu, chụp cho nhiều thứ mũ chỉ vì tôi nêu rõ những ưu điểm của nền
giáo dục cũ cần phải học hỏi. Chính là do thừa hưởng nền giáo dục đó
của miền Nam mà tôi có được tính độc lập trong tư duy, không bao giờ
chịu nô lệ về tư tưởng…“[106]
Đánh giá của nhà phê bình văn học Thụy Khuê: “Có
thể nói, trong suốt thời gian chia đôi đất nước, mặc dù với những tệ
nạn của xã hội chiến tranh, tham nhũng; miền Nam vẫn có một hệ thống
giáo dục đứng đắn. Trong chương trình giáo khoa, các giai đoạn lịch sử
và văn học đều được giảng dậy đầy đủ, không thiên hướng. Ở bậc trung học
học sinh gặt hái những kiến thức đại cương về sử, về văn, và tới trình
độ tú tài, thu thập những khái niệm đầu tiên về triết học. Lên đại học,
sinh viên văn khoa có dịp học hỏi và đào sâu thêm về những trào lưu tư
tưởng Đông Tây, đồng thời đọc và hiểu được văn học nước ngoài qua một
nền dịch thuật đáng tin cậy, dịch được những sách cơ bản. Nguyễn Văn
Trung trong hồi ký đã nhấn mạnh đến sự tự trị của đại học, nhờ sự tự trị
này mà các giáo sư có quyền giảng dạy tự do, không bị áp lực chính trị
của chính quyền. Chính điều kiện giáo dục này, đã cho phép miền Nam xây
dựng được một tầng lớp trí thức, một tầng lớp văn nghệ sĩ và một quần
chúng độc giả; giúp cho nhiều nhà văn có thể sống bằng nghề nghiệp của
mình. Và cũng chính tầng lớp trí thức và sinh viên này đã là đối trọng,
chống lại chính quyền, khi có những biến cố chính trị lớn như việc đàn
áp Phật giáo thời ông Diệm và việc đấu tranh chống tham nhũng (như vụ
báo Sóng Thần) thời ông Thiệu.“[107]
Huỳnh Minh Tú (biên tập và thêm hình ảnh sưu tầm từ Internet)
Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.