Đức Cố Hồng Y 
FX Nguyễn Văn Thuận
Nguyễn Đức Tuyên 
   
   Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận sinh tại Phú Cam, ngày 17 
   tháng 4 năm 1928. Ngài lãnh chức linh mục ngày 11 tháng 6 năm 1953. 
   Năm 1956 Ngài được sang Rôma theo học Phân khoa Giáo luật. Khi về 
   nước, ngài được cử làm giáo sư năm 1959, rồi năm 1962 được cử làm 
   giám đốc Tiểu chủng viện Hoan Thiện và làm Tổng Đại Diện Tổng Giáo 
   phận Huế từ năm 1964 đến 1967. 
   
   Ngày 13 tháng 4 năm 1967, ngài được bổ nhiệm làm giám mục Giáo phận 
   Nha Trang.  Khẩu hiệu của ngài là “Vui Mừng và Hy vọng”.
   
   Trong 8 năm làm giám mục, Đức Cha đã làm hết sức mình để phát triển 
   Giáo phận. Trọng tâm hoạt động của Ngài là huấn luyện nhân sự, phát 
   triển và huấn luyện các phong trào giáo dân, các hội đoàn giáo xứ, 
   mục vụ, qua các khóa như Phong trào Công lý và Hòa bình, Cursillo và
   
   Focolaré, 
   Hướng đạo; thành lập Cộng đoàn La vang và Tu hội Hy Vọng. 
   
   
   Để hướng dẫn cộng đồng giáo phận Nha Trang, Đức Cha đã viết 6 thư 
   luân lưu: 
   
   
   1.  
   
   Tỉnh thức và cầu nguyện (1968) 
   
   
   
   2.  
   
   Vững mạnh trong Đức tin, Tiến lên 
   trong An bình (1969) 
   
   
   3.  
   
   Công lý và Hòa bình (1970) 
   
   
   
   4.  
   
   Sứ mạng Chúa Kitô là sứ mạng của 
   chúng ta (1971) 
   
   
   5.  
   
   Kỷ niệm 300 năm (1971) 
   
   
   
   6.  
   
   Năm Thánh Canh tân và Hòa giải (1973)
   
   
   Đọc bức thư luân lưu “Công lý và Hòa bình” viết năm 1970 của Đức cố 
   Hồng Y, giáo sư Đỗ Quý Tòan, một kinh tế gia, một trí thức Phật giáo, 
   bỉnh bút báo Người Việt với bút hiệu Ngô Nhân Dụng, năm 1996, đã 
   viết như sau: “Vượt trên các hòai vọng hòa bình tức thời, Đức 
   Tổng giám mục đã nhìn xa hơn, đã thấy những vấn đề của đất nước ta 
   một khi hòa bình trở lại. Rất tiếc rằng năm năm sau đó khi tiếng 
   súng đã im trên đất nước chúng ta rồi, người ta đã bỏ qua lời khuyến 
   cáo này. Để cho đến bây giờ những khuyến nghị của Đức Tổng giám mục 
   Nguyễn Văn Thuận vẫn còn hợp thời và có tính cách cấp thiết.”
   
   Trong Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Ngài đã đảm trách Chủ Tịch Ủy Ban 
   Công lý và Hòa bình, Ủy Ban Truyền thông Xã hội và Ủy Ban Phát triển; 
   Ngài còn là một trong những Giám mục thành lập Đài Phát thanh “Chân 
   Lý Á Châu”.
   
   Ngày 24 tháng 4 năm 1975, ngài được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Phó 
   Tổng Giáo phận Sàigon,. Nhưng nhà cầm quyền cộng sản không cho ngài 
   về Sàigon. 
   
   Ngày 15 tháng 8 năm 1975, ngài đã bị bắt giải ra Nha Trang, giam ở 
   Cây Vông, rồi nhà tù Nha Trang, Phú Khánh và Thủ Đức; rồi được đưa 
   ra Bắc Việt. Ngài sống trong lao tù 13 năm, trong đó 9 năm biệt giam, 
   tại các trại giam Vĩnh Quản, Hà Nội, rồi bị quản thúc tại Giang Xá.
   
   Ngày 21 tháng 11 năm 1988, ngài được trả tự do và được đưa về cư trú 
   tại Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội, nhưng không được thi hành công việc 
   mục vụ. Năm 1989 ngài được phép xuất ngọai thăm ông bà cố, ghé Rôma, 
   rồi trở về Hà Nội. Năm 1991 ngài được “đề nghị” xuất ngọai và không 
   được trở về Việt Nam. 
   
   Trong thời gian ở hải ngoại, ngài đã được mời đi thuyết giảng và 
   thuyết trình ở nhiều nơi cho nhiều giới khác nhau.
   
   Ngài cũng nhận được những huy chương đề cao cuộc sống chứng tá và 
   hoạt động kiến tạo hòa bình.
   
   Ngày 24 tháng 11 năm 1994 Đức Thánh Cha đã bổ nhiệm Ngài làm Phó Chủ 
   tịch Hội Đồng Tòa Thánh “Công lý và Hòa Bình” và ngày 24 tháng 6 năm 
   1998, Ngài được bổ nhiệm làm chủ tịch Hội đồng này. 
   
   Năm 1970 ngài viết thư luân lưu « Công Lý và Hòa Bình » nhận định 
   thực trạng xã hội Việt Nam, thì năm 1994, 24 năm sau, ngài được chỉ 
   định đảm trách cơ quan Công Lý và Hòa Bình của Tòa Thánh, đối diện 
   với toàn cảnh xã hội trên thế giới và thực thi trách nhiệm Công Lý 
   và Hòa Bình cho mọi dân tộc. 
   
   Mùa Chay năm 2000, Ngài được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mời giảng 
   cấm phòng Mùa Chay cho các viên chức tại Giáo triều Rôma.
   
   Ngày 21 tháng 2 năm 2001, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã trao mũ 
   Hồng Y cho Ngài.
   
   Sau thời gian bị cầm tù, Ngài đã bị giải phẫu 7 lần, trong đó có ba 
   lần suýt chết vì nhiễm trùng. Một lần giải phẫu vào năm 2001 tại một 
   bệnh viện ở Boston, Hoa Kỳ và cuộc giải phẫu cuối cùng vào ngày 8 
   tháng 5 năm 2002 tại Trung tâm nghiên cứu về ung thư, Milano (Bắc 
   Italia). Ngài qua đời lúc 18 giờ ngày 16 tháng 9 năm 2002 tại Rôma.
   
   Tôi không biết nói gì về Đức cố Hồng Y rất đáng kính. Tôi chỉ xin 
   ghi một vài điều trong muôn một về ngài:
   
   Khi sinh tiền Đức HY Thuận là người trầm tư và vui tính, không mảy 
   may lo lắng hoặc tham vọng. Ngài luôn tâm niệm câu :”Con hãy kiểm 
   điểm lại xem con chọn Chúa hay con chọn công việc của Chúa“ để nhắc 
   nhở cho chính Ngài và cho mỗi người chúng ta.Ngài là người tù phi 
   thường, đầy lòng bác ái và lòng khiêm nhường.
   
   ĐTC Gioan Phaolô II nói rằng ĐHY Thuận đã để lại “một ký ức không hề 
   phai về một cuộc đời tận hiến cho chức linh mục và một mục tử đầy 
   nhiệt huyết cho việc rao giảng Tin Mừng, người luôn luôn trung thành 
   với Giáo Hội kể cả trong thời gian khó khăn bị hành hạ”. Đức đương 
   kim Giáo Hòang khi còn là Hồng Y đã  nói: “ĐHY Phanxicô Thuận là một 
   vĩ nhân trong Giáo Hội”.
   
   Khi Đức cố Hồng Y vừa mới ra đi, Đức Cha Giampaolo Crepaldi, Thư Ký 
   của Hội Đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình đã tuyên bố trên báo chí: 
   “Một Đấng Thánh đã qua đời“ Còn Đức HY Chủ Tịch Martinô nhận định: 
   “ĐHY Văn Thuận là một người mẫu mực về đức tin kiên cường, về niềm 
   hy vọng bền vững và về sự yêu thương vô bờ bến.“
   
   Có một công việc ngài kỳ vọng nhiều nhưng không được nhiều người 
   tiếp tục theo đuổi là Cộng Đòan Đức Mẹ La Vang.
   Ngày 15-9-2007 - Hội đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình chính thức 
   chuẩn bị mở án phong Chân Phước cho Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xavie và 
   bổ nhiệm vị thỉnh nguyện viên là 
   Bà luật sư Silvia Monica Correale 
   
   xúc tiến công việc
   Hai hôm sau, ngày 17.9.2007, ĐGH Benedict XVI  ngỏ ý ủng hộ mở án 
   phong Chân Phước cho ngài. ĐGH nói : 
   “Ðức 
   Hồng Y Văn Thuận là một con người của Hy Vọng, ngài sống bằng Hy 
   Vọng, ngài phổ biến Hy Vọng cho tất cả những ai ngài gặp. Chính nhờ 
   năng lực thiêng liêng này mà ngài đã chống lại được tất cả những khó 
   khăn thể lý và luân lý. Hy Vọng đã nâng đỡ ngài khi là Giám mục bị 
   cô lập trong vòng 13 năm trời, xa cách khỏi cộng đoàn giáo phận của 
   ngài”.
   
   
   Đức Thánh Cha nói tiếp:
   Anh Chị Em thân mến,
   Tôi 
   vui mừng đón nhận tin về việc khởi sự án phong chân phước cho vị 
   ngôn sứ đặc biệt của niềm Hy Vọng Kitô giáo, và trong khi chúng ta 
   trao phó linh hồn ưu tuyển của Ngài cho Chúa, chúng ta cầu nguyện để 
   gương của Ngài trở nên giáo huấn vững chắc cho chúng ta. Cùng với 
   lời cầu chúc này Tôi vui lòng ban phép lành cho Anh Chị Em.
   
   Những tác phẩm của Đức cố Hồng Y :
   Với 
   tư cách là Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình, ngài 
   thúc đẩy hòan tất 2 cuốn sách thời danh :
   ·    
   
   The 
   Social Agenda : A Collection of Magisterial Texts (2000) mà Đức ông 
   Nguyễn Quang Sách dịch ra tiếng Việt là Học Thuyết Xã Hội Công 
   Giáo : sưu tập những văn bản của Giáo hội, Nguyệt San Diễn Đàn Giáo 
   Dân ấn hành năm 2004.
   ·    
   
   
   
   
   Compendium of the Social Doctrine of the Church 
   - 
   
   “Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội” vào năm 2004, bản dịch của 
   Ủy ban Bác ái Xã hội thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam (2007).
   
   Riêng về phần ngài, đã hòan tất các tác phẩm thời danh như sau :
   
   Đường hy vọng (1975)
   
   Đường hy vọng dưới ánh sáng Lời Chúa và Công Đồng Vaticanô II (1979)
   
   Những người lữ hành trên Đường Hy Vọng (1980)
   Năm 
   chiếc bánh và hai con cá (1998)
   Cầu 
   nguyện (2002)
   Hãy 
   trao tặng tuổi trẻ nụ cười
   Niềm 
   vui sống đạo
   Sứ 
   điệp Đức Mẹ La Vang
   
   Chứng nhân hy vọng (2002)
   Phép lạ Hy Vọng (do nhà sách St. Paul 
   in, phát hành tại Strathfield, Sydney, ngày 5. 9.2003, bằng tiếng 
   anh)
   
   Nhiều cuốn sách của ngài, đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, phổ biến 
   khắp năm châu.
   Sách 
   của Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận ghi lại một cuộc hành trình tâm 
   linh sâu xa và mối liên hệ mật thiết giữa ngài và Thiên Chúa như là 
   một tấm gương, giúp chúng ta hiểu thấu tình yêu của Thiên Chúa và 
   cách đáp trả tình yêu quí báu đó.
   ·    
   
   
   Trong cuốn sách « Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá » ghi lại thành DVD, 
   ngài viết : Tôi đã đi qua một quãng đường, hân hoan có, lao khổ 
   có, tự do có, lao tù có, nhưng luôn tràn trào hy vọng ». Ngài 
   tóm tắt kinh nghiệm sống trong 7 điểm : năm chiếc bánh và hai con cá 
   để trao lại cho người đọc một sứ điệp của tình thương và sự thật, 
   của công lý và hòa bình, của tha thứ và hòa giải, để xây dựng.
   Bẩy 
   điểm trong DVD bao gồm 5 chiếc bánh là :
   Sống 
   phút hiện tại
   Phân 
   biệt giữa Chúa và việc của Chúa.
   Một 
   bí quyết là Cầu nguyện.
   Một 
   sức mạnh là Phép Thánh Thể.
   Chúc 
   thư của Chúa Giêsu là yêu thương đến hiệp nhất.
   Và 2 
   con cá là :
   Mối 
   tình đầu của tôi : Mẹ Maria vô nhiễm.
   Tôi 
   chọn Chúa.
   ·   
   
   CD Chứng 
   Nhân Hy Vọng ghi lại những bài chia sẻ của Đức cố Hồng Y trong Tuần 
   Tĩnh Tâm dành cho ĐTC Gioan Phaolô II và các chức sắc trong Giáo Triều 
   Rôma vào mùa xuân năm thánh 2000. Những tham dự viên đã cho rằng các 
   bài suy niệm chưa bao giờ gây nhiều hứng khởi như năm 2000. Những lời 
   chia sẻ trong Tuần Tĩnh Tâm còn vang vọng trên khắp thế giới đến nỗi 
   có nhiều thơ xin phổ biến rộng rãi hơn, và vì vậy, chính Đức Thánh 
   Cha đã yêu cầu cho in các bài suy niệm này thành sách.
   Thiết 
   nghĩ, các bài suy niệm của Đức cố Hồng Y, lúc đó còn là Tổng Giám mục 
   Phanxicô Xaviê đã gây được sự chú ý của nhiều giới trong và ngoài 
   Giáo Hội vì đây là những chứng từ sống, trải suốt cuộc đời hiến dâng 
   cho Thiên Chúa của ngài. Đặc điểm của những bài suy niệm là những lời 
   nói đơn sơ, những suy tư sâu thẳm, xuất phát từ cảm nghiệm trong 13 
   năm bị khổ đau tột độ nhưng vẫn kiên cường vì Đức Tin và lòng khao 
   khát phụng sự Thiên Chúa và tha nhân.
   Làm 
   sao có thể ghi lại trong đôi dòng về thân thế và sự nghiệp lẫy lừng 
   của người thầy rất đáng kính của dân Chúa. Trong tâm tư chúng ta, 
   hình ảnh người cha thân yêu trìu mến, với dáng đi lanh lẹ, với nụ cười 
   luôn nở trên mội, với lời nói duyên dáng, với lối pha trò ý nhị, đặc 
   biệt là thái độ lạc quan, tin yêu và phó thác chất chứa niềm hy vọng 
   và tín thác vào Thiên Chúa nhân lành.
   Công 
   nghiệp mà Đức cố Hồng Y để lại cho những nơi ngài phục vụ ở Việt Nam 
   cũng như nơi Tòa Thánh thật lớn lao. Dấu ấn tình yêu và phục vụ của 
   ngài còn ghi đậm trong mỗi người chúng ta.
   
   Chúng ta hân hoan đón nhận tin vui khi Tòa Thánh mở án phong chân 
   phứơc cho ngài. Là những người con thảo, chúng ta có nhiệm vụ đóng 
   góp lời cầu nguyện, công sức và tài chánh, như lời kêu gọi của ĐGM 
   Giampaolo Crepaldi, Thư Ký Hội Đồng Công Lý và Hòa Bình, để tiến 
   trình vinh danh ngài được muôn phần tốt đẹp.