Socrate Tiêu biểu cho triết học hiện sinh
hay triết học theo chân lý vương giả?
GS Lê Tôn Nghiêm
“Trong lịch sử nhân loại nói chung, Socrate 
   đã nghiễm nhiên là một trong những nhân vật lớn nhất, ngang hàng với 
   Khổng Tử, Phật Thích Ca và Jésus.” 
   (K. Jaspers) 
Thân thể đời sống đơn sơ và gương mẫu của ông nhất là cái chết anh 
   dũng của ông đã là những kỷ niệm còn được ghi sâu nhất trong ký ức 
   mọi người. Hơn nữa với thời đại chúng ta, hình như người ta còn nỗ 
   lực hơn để làm, sống man mác nhưng mông lung về con người lịch sử ấy. 
   Những triết gia, những học giả cả Đông lẫn Tây đều không ngớt ca 
   tụng và nghiên cứu con người ấy trong những sách vở hoặc trong những 
   luận án tiến sĩ đối chiếu. 
Riêng trong lịch sử triết học Hi Lạp và Tây Phương, hình ảnh tiêu 
   biểu của Socrate càng có vẻ linh động hơn mặc cho bao nhiêu mập mờ 
   của lịch sử. 
Nghiễm nhiên Socrate đã được coi là lằn ranh giới phân đôi lịch sử 
   triết học thành một bên là triết học trước – Socrate với trên dưới 
   bốn hay năm thế kỷ trước Tây lịch là một bên là triết học sau – 
   Socrate và trên dưới 20 thế kỷ sau Tây lịch. Hơn nữa, trong lập 
   trường và chủ trương rất đối nghịch nhau, nhưng nhiều khuynh hướng 
   triết lý đã chỉ căn cứ vào tên tuổi của Socrate để làm thế giới hầu 
   như tuyệt đối cho lý thuyết của mình. Qua cái nhìn sơ lược trên ảnh 
   hhưởng của Socrate, đôi khi không khỏi nảy sinh ra trong đầu óc ta 
   một ý nghĩ kỳ khôi rằng: tuy đến với ta như một kẻ trần truồng, ngu 
   si khộng một sử liệu rõ rệt, không một lý thuyết hay một sáng tác 
   nhỏ mọn, tại sao Socrate đã được lịch sử ca tụng ông như một kẻ đứng 
   ở giới tuyến của minh triết (Sagesse) và triết học (Philosophie)?
   
Nói khác, thể hiện ra trước sự đăm chiêu của muôn vàn thế hệ tư 
   tưởng gia như một thực thể vô cùng đơn sơ tương tự mệnh lệnh "tuyệt 
   học vô ưu" của Lão Tử, Socrate lại như dung hòa được hai đức tính hi 
   hữu nhất trong lịch sử triết học Tây Phương, tức là một hiền triết 
   đồng thời như một triết gia hệ thống. 
Kỳ lạ thay! tính cách mập mờ của lịch sử không những đã không chôn 
   vùi tên tuổi ông như đã chôn vùi bao nhiêu biến cố khác, trái lại 
   hình như càng mập mờ, tiểu sử của ông càng dung nạp thêm nhiều huyền 
   thoại và cả những chuyện hoang đường, đến nỗi cho ta cảm tưởng ngược 
   ngạo rằng: càng có vẻ lịch sử bao nhiêu thì con người ấy càng có vẻ 
   huyền thoại bấy nhiêu. 
Thậm chí đã có học giả ghi lại được ba bộ mặt khác nhau về Socrate, 
   một trong Socrate lịch sử, hai là Socrate huyền thoại ba là Socrate 
   hiện sinh [1] 
Tiểu sử phức tạp, đa diện ấy là những kết quả của những sử liệu hàm 
   hồ còn được lưu truyền tới ta qua nhiều nhãn giới lịch sử và tư 
   tưởng khác nhau về người hùng của chúng ta. 
Đó là những sử liệu Aristophane, Diogène Laèrce, Xénophon, Platon và 
   Aristote. 
Sử liệu xưa nhất của truyền thống là hài kịch "Mây gió"(Nuées) 
   của Aristophane, trong đó Socrate bị chế giễu (năm 423) (Jaspers: 
   Les Grands Philosophes I trg 847) 
"Aristophane thi sĩ trình bày Socrate như một ngụy luật đang 
   giảng thuyết cho những học trò có những nét mặt xám xì, nghệ thuật 
   làm sao lấy lý của kẻ mạnh để thắng lý của kẻ yếu. Thi sĩ còn trình 
   bày ông đang quan sát các vì tinh tú, khi ông được kéo lên (trên 
   tầng mây) trong một cái thúng đan bằng cây mây và đang ngự trị trong 
   một lốc khí quyển thay đổi các vị thần" (P. M. Schuhl: Oc Pl. 
   trg 48) 
Với quyển "tiểu sử Socrate" (Vie de Socrate) của ông: Diogène Làerce 
   thuật lại rằng: sau khi Socrate từ trần, thấy xuất hiện hai loại môn 
   đệ của ông: một loại chính cống như Platon, Xénophon, Antisthène; 
   ngoài ra còn một loại tự xưng là những triết gia "theo khuynh hướng 
   Socrate" (les Socraticiens) như Eschine, Phédon, Aristippe, Criton, 
   Simon, Glaucon, Simmias, Cébès và Ménédème. 
Theo Laèrce, các môn đệ ấy thường sọan thảo những đối thoại và lấy 
   Socrate làm nhân vật chính yếu. Nhưng ngày nay chỉ còn sót lại duy 
   những đối thoại của Platon. 
Cũng theo Laèrce, Xénophon là người đầu tiên đã mang lại cho công 
   chúng "những gì ông thâu lượm được và đã ghi lại thành những hình 
   thức giải thích" về Socrate, qua những cuộc đàm đạo của Socrate với 
   nhiều lớp người đồng thời ở Athènes lúc bấy giờ. Tất cả bốn quyển:
   
Biện hộ cho Socrate (Apologie de Socrate) 
Những hồi ký về Socrate hay Những cuộc đàm đạo thời danh 
   (Entretiens mémorables cũng có khi gọi tắt là Mémorables) 
Bữa tiệc (Banquet) tương tự của Platon 
   
Sau cùng một quyển nhan đề Kinh tế luận (Economique)
   
Tuy nhiên tầm quan trọng và giá trị lịch sử của 
   những sáng tác trên là một điều rất khả nghi: nhiều nhà bình luận 
   Đức đã khẳng định rằng: Xénophon đã không bao giờ trực tiếp gặp và 
   nghe Socrate, trái lại theo một số nhà bình luận khác như A. và M. 
   Croiset, rồi A. Cresson thì một số sáng tác trên là những tài liệu 
   trung thực nhất về thân thế và lý thuyết của Socrate. Rõ rệt hơn nữa, 
   A.E. Boutroux lại coi bằng chứng của Xénophon là một bằng chứng quan 
   trọng nhất, vì theo ông, Xénophon là một sử gia chuyên môn, một biên 
   niên sử (chroniqueur) rất đáng tin cậy, nhất là Xénophon không tài 
   ba như Platon để có thể lý tưởng hóa quá mức những quan niệm triết 
   lý của Socrate (bài Sorate fondeteur de la scien molare trong Etudes 
   d’histoire de la philosophie, 1879, trg 16). 
Tuy nhiên trong bốn quyển đó, hình như chỉ duy 
   quyển "Hồi ký về Socrate" là được người đời sau trích dẫn nhiều nhất. 
   Quyển này chia thành bốn tập nhỏ: 
Những chương đầu của tập I khai triển những chủ 
   đề sau đây: 
Socrate luôn luôn tôn trọng tôn giáo của Nhà nước; 
   và không bao giờ ông đưa thanh thiếu nhiên vào con đường trụy lạc.
   
Những chương tiếp trình bày về ý niệm thần minh 
   với tính chất thiên hữu của họ, rồi về đức tính tiết độ và khiêm tốn.
   
Tập II gồm một bài phê bình tính ươn hèn, một bài 
   Socrate khuyên nhủ Lamprocles con cả của ông để nó ghi nhớ công ơn 
   bà Xantipe mẹ nó đã làm cho nó, tuy bà có tính tình hay bẳn gắt v.v.
   
Tập III chú trọng đến những công việc và vấn đề 
   binh đao, nhấn mạnh trên sự cần thiết phải có khả năng trong nhiều 
   công việc khác nhau, nhất là đối với những người muốn làm thủ lãnh.
   
Ngoài ra cũng thấy nói đến liên quan giữa sự 
   Thiện, sự Mỹ và sự Lợi, v.v. 
Tập IV gồm những cuộc đàm đạo rất quan trọng với 
   Euthydème và Hippias, trong đó Socrate nhấn mạnh trên sụ cần thiết 
   phải tự biết mình… 
Trên đây là một mớ sử liệu hỗn tạp không có giá 
   trị đồng đều: nhiều câu chuyện có vẻ tầm thường, vô nghĩa; ngược lại, 
   một số câu chuyện khác lại biểu lộ nhiều tư tưởng sâu xa nhất của 
   Socrate, vì qua đó, người ta khai triển ra được những nguyên tắc cho 
   hành động. (Cesson: Socrate, trg 6-12) 
Nói tóm, theo các học giả trên, những gì chính 
   yếu do Xénophon kể lại hình như không khác lắm với những điều Platon 
   trình bày về Socrate trong các cuộc đối thoại. 
Trước hai khuynh hướng qúa khích trên đây, 
   Jaspers xem ra có vẻ dung hòa hơn như sau: 
"Tuy khác xa với hình ảnh đã được Platon lý 
   tưởng hóa về Socrate nhưng hình ảnh do Xénophon ghi lại là một hình 
   ảnh đơn sơ, mộc mạc mà không mâu thuẫn với những gì thiết yếu. 
   Xénophon nhìn trên bề mặt, còn Platon nhìn xuống chiều sâu". 
   (Gr. Ph. Trg 97) 
Sau Xéphonon, Platon là một chứng nhân khác hay 
   được ghi nhận nhất mỗi khi nói về Socrate. 
Gặp Socrate vào năm 407, khi Platon lên 20 tuổi 
   theo học với Socrate như một ông thầy lý tưởng trong vòng 8 năm trời 
   tức là vào năm 399 tới khi Socrate từ trần. Nhưng trong giờ phút bi 
   đát nhất của Socrate thì Platon đã không có mặt. 
Tuy đã chịu ảnh hưởng của nhiều trường phái triết 
   lý khác nhau như Elée, Milet, Pythagorisme và triết gia Héraclite, 
   v.v. nhưng hầu như Platon đã bị chi phối một cách quyết liêt do cái 
   chết anh dũng phi thường của Socrate, đến nỗi có thể nói rằng cái 
   chết ấy ảnh hưởng mãnh liệt hơn cả lý thuyết, vì với Platon, sự chết 
   ấy là một tội ác tày trời dân thành Athènes đã vấp phải. (J. Brun)
   
Do đó, hầu hết trong các cuộc đối thoại của 
   Platon, đều thấy xuất hiện hình ảnh Socrate hoặc như một nạn nhân vô 
   tội do sự điên rồ của loài người hoặc như người điều khiển cuộc 
   tranh luận với những chứng lý sắc bén, hài hước và sản ý 
   (maieutique). 
Đó là những bằng chứng quý báu về tiểu sử của 
   Socrate. 
Nhưng nhiều học giả xưa và nay vẫn chỉ coi đó là 
   những gì đã bị Platon lý tưởng hóa một cách rất tài tình. Do đó, 
   ngày nay người ta khó lòng phân biệt những gì thực sự lịch sử và 
   những gì đã bị lý tưởng hóa. 
Để giải quyết thắc mắc trên, ở thế kỷ trước người 
   ta đã nghĩ ra phương pháp xếp loại những đối thoại của Palton theo 
   thứ tự niên kỷ, rồi khảo sát tư tưởng và hành văn của những đối 
   thoại ấy một cách tỉ mỉ. 
Kết quả là các học giả đã đồng ý phân phối các 
   đối thoại thành 3 giai đoạn liên tiếp như sau: 
- Những đối thoại thường được gọi là có tính cách 
   socratique nghĩa là trong đó hình ảnh của Socrate vẫn còn linh động. 
   Theo đó, nhiều học giả nghĩ rằng: những đối thoại này đã được ghi 
   lại lúc còn sinh thời Socrate, nên có thể coi là những bằng chứng 
   xác thực nhất về lý thuyết của ông. (Cresson: sd. Trg 5) 
- Tiếp theo là những đối thoại đứng tuổi, khởi sự 
   trình bày công việc xây dựng học thuyết thời danh gọi là lý thuết về 
   những lý tưởng (théorie des Idée). Tuy không còn linh động bao nhiêu, 
   nhưng hình ảnh Socrate vẫn còn đứng đàng sau lý thuyết nền tảng 
   Platon. 
- Sau cùng là những đối thoại tuổi già. Ở đây 
   hình ảnh Socrate đã bị phai mờ hẳn, hầu như chỉ còn thấy xuất hiện 
   duy những tư tưởng độc đáo của Platon. Đó là những đối thoại 
   Parménnid, Sophiste, Politique. 
Tuy nhiên một hai tác giả trứ danh như John 
   Burnet và A.M.Taylor lại cho rằng: trong những tác phẩm về cuối đời 
   Platon, quyển "pháp luật" (lei Lois) là bằng chứng xác thực về lý 
   thuyết của Socrate. Ngược lại, theo nhiều học giả hiện nay, hình ảnh 
   Platon phác họa về Socrate vẫn mang tính chất một khuynh hướng bị lý 
   tưởng hóa rồi. L. Robin trong quyển "La pensée hellénique" 
   nhất là V. de Magalhaès – Vilhena trong quyển Socrate et la légende 
   platonicinne đã khẳng định như sau: 
- Platon "khởi họa ra được một hình ảnh Socrate tiêu biểu cho thời 
   đại ông và giai cấp ông một cách hoàn hảo nhất. Vì lý do ấy, Platon 
   chính là người trong số những kẻ tự xưng mình thuộc trường phái 
   socratisme và là người đã biết truyền đạt lại cho hậu thế một hình 
   ảnh lý tưởng hoàn bị và thành tựu nhất do sự cảm hứng của Socrate".
   
Nhưng chính đó là một trong những khuyết điểm trầm trọng nhất nói 
   lên tính cách biến ngôn của Playon. [2] 
Tuy niên, theo A. Cresson "dù có cho rằng những đối thoại kia không 
   phải của Platon đi nữa thì chúng vẫn có một công dụng vì chúng có 
   tính cách Socrate và có thể minh xác những tư tưởng mà truyền thống 
   gán cho Socrate. Còn về những đối thoại khác dù chúng chỉ trình bày 
   những nhãn quan của Platon thôi, nhưng chúng cũng thấm nhuần đầy 
   tinh thần Socrate. Phương pháp của chúng, một số cách thức phán đoán 
   và lập luận, một số những định lý hiển nhiên hay bí ẩn đều có nghĩa 
   vì lý do ấy cả. Ta có thể nhận thấy thế ngay khi Platon muốn vượt 
   Socrate, ngay khi ông nói ngược lại Socrate". (sd. Trg 5-6) 
Jasper lại có vẻ dung hòa hơn nữa khi viết: "Hình ảnh Socrate trong 
   những đối thoại của Platon không phải là một sự ghi lại chính xác 
   những bối cảnh, những cuộc đối thoại, những câu nói theo nghĩa một 
   thực tại lịch sử. Tuy không phải là một sự ghi lại chính xác nhưng 
   đó cũng không phải một chuyện hoàn toàn bịa đặt, vì những gì Platon 
   đã bịa đặt ra thì đã được bịa đặt trong đường hướng của thực tại ấy, 
   tức là nhân cách huyền bí của một nhà tư tưởng mà không ai sánh kịp. 
   Nhưng hình ấy chỉ hiện diện với ta qua toàn bộ những đối thoại vì 
   chúng phải bổ túc lẫn cho nhau. Dù người ta muốn phân biệt những 
   khía cạnh đặc thù khác nhau trong thứ tự các đối thoại, như sau này 
   người ta đã làm trong những nghệ thuật tôn tạo thì những khía cạnh 
   ấy vẫn ăn khớp với nhau như những thay đổi trong cùng một khuôn mặt.
   
Đó là một hình ảnh toàn cục xuất hiện theo nhiều bộ diện khác nhau, 
   nhưng lại là thực tại đã được lý tưởng hóa. Ở đây điều phi lý là 
   thái độ tra vấn một thực tại lịch sử như một sự kiện phải thiết định 
   như chụp lại một bức ảnh hay ghi lại một âm thanh cho trung thực, 
   theo lối các nhà ngữ học và sử học. Những ai phủ nhận thực tại lịch 
   sử thì không thể phục lý theo những chứng cứ. Vậy phải có sự hiện 
   diện của Platon để nhìn và để truyền đạt thực tại của Socrate. Những 
   gì mà Plaon nhìn thấy, thì chúng ta cũng có thể nhìn với ông và nhờ 
   ông; về Socrate trước sự chết thì hãy đọc những đối thoại Apologie – 
   Criton – Phédon, còn về Socrate trong lúc bình sinh thì hãy đọc 
   những đối thoại banquet và Phèdre." (Gr. Ph. Trg 93) 
Sau cùng là bằng chứng của Aristote: đối với Socrate, Aristote là 
   một kẻ hậu sinh hoàn toàn vì 14 năm sau khi Socrate qua đời rồi 
   Aristote mới sinh. Vì thế, những điều Aristote nói về Socrate toàn 
   có tính cách gián tiếp nghĩa là hoặc do chính những người đã trực 
   tiếp sống với Socrate, hoặc do những sử liệu khác thân cận với những 
   môn đệ đầu tiên ấy! 
Nhưng theo ý kiến của K. Joel và Th. Gomperz mà 
   P.M. Schuhl chỉ là phát ngôn viên, thế giá của Aristote không vì vậy 
   mà không đáng tin cậy, hơn nữa, những bằng chứng ấy có thể đuợc coi 
   là những ý kiến dung hòa được cả Platon và Xénophon. 
Tuy nhiên, một số dữ kiện khác quan trọng phát 
   xuất từ chính lập trường lý thuyết của Aristote có lẽ không cho phép 
   ta chấp nhận một quan điểm như trên. 
Trước hết, chính lối trình bày lý thuyết của 
   Aristote là một quan điểm khả nghi vì mỗi khi trình bày một vấn đề 
   nào thường thường ông trình bày những lý thuyết của những người đã 
   nói tới vấn đề, sau đó ông mới trình bày chính vấn đề. Điều ấy ông 
   thường làm trong các tác phẩm trứ danh của ông như quyển "Thiên 
   nhiên học" (physique), "Siêu hình học" (Métaphysique), 
   "Sự sinh thành và sự tiêu diệt",( De la génération et de la 
   corruption), "Vòm trời" (Du Ciel). Vì thế người 
   ta thường gọi Aristote là một nhà sử quan triết học (Philosophe de 
   l’histoire de la philosophie) trước cả Hegel. Chính tư cách ấy 
   đã làm cho những dữ kiện lịch sử do ông để lại trở thành khả nghi.
   
Hơn nữa, riêng vấn đề Socrate hình như giá trị lịch sử của Arisrote 
   càng không đáng kể lắm, vì xem ra ông ít chú trọng đến thân thế 
   Socrate. Trong tất cả sáng tác của Aristote, Th. Deman chỉ ghi lại 
   được 40 điểm nói về lý thuyết Socrate mà thôi. (xem Th. Deman: Le 
   témoignage d’Aristote sur Socrate, Paris 1942) 
Đằng khác, chính những điểm về lý thuyết ấy lại cũng được nhìn theo 
   khuynh hướng sử quan triết học thường xuyên của Aristote. 
Sau cùng, nguồn tài liệu Aristote xử dụng để trình bày về Socrate 
   lại do chính "Hàn lâm viện" của Platon cung cấp. 
Vì những lý do trên, bằng chứng của Aristote không đem lại điều gì 
   cốt yếu hơn. V. Magalhaes Vilhena cũng nhận định như thế khi ông 
   viết: 
"Mặc dầu những nguồn tài liệu đã được Aristote xử dụng, bằng 
   chứng của ông không thêm một điều gì cốt yếu cho những gì ta biết về 
   Socrate. Nói tóm, bằng những khẳng định lý thuyết, Aristote đã không 
   tự phụ biết được gì xa hơn Socrate lịch sử bên ngoài Socrate của 
   những đối thoại (của Platon) theo tư cách một nhân vật được dựng 
   cảnh" [3] 
Với từng ấy sử liệu và giá trị tương đối của chúng, ta đã có ý thức 
   rằng: hình dung một nhân vật và một lý thuyết như Socrate cho trung 
   thực là một điều vô cùng khó khăn. 
Đứng trước sự kiện phức tạp ấy, nhiều triết gia và học giả như P.M. 
   Schuhl đã phải chấp nhận một giải pháp dung hòa như sau: 
"Vì Socrate không viết gì cả nên ta có thể hoạch định lại lý 
   thuyết của ông theo những gì đã được các môn đệ của ông truyền lại 
   nghĩa là trên hết phải kể đến Platon và Xénophon, rồi sửa sai hay bổ 
   túc những chứng cứ ấy bằng chứng cứ của Aristote, hay bằng những gì 
   đến với ta từ những tư tưởng nhỏ tự xưng theo khuynh hướng Socrate, 
   hay bằng những gì nhiều người thừa hướng gián tiếp tư tưởng của ông 
   và không nên bỏ qua những tài liệu đã rõ rệt bị xuyên tạc, nhưng vẫn 
   còn sử dụng được ví dụ của một tác giả hài hước như Aristote". 
   [4] 
 *
*   *
Tiểu sử Socrate (469-399)
Tiểu sử 
   Socrate (469-399) 
Sinh trưởng tại Athènes, Scorate là con một người cha làm nghề điêu 
   khắc và một người mẹ hành nghề hộ sinh. 
Như thế, dòng dõi Socrate không phải dòng dõi quý phái mà chỉ là 
   dòng dõi của những thường dân Athènes (Nietzsche thường gọi ông là "phàm 
   dân" (plébéien). 
Nhờ một di sản nhỏ bé và những phụ cấp của chính phủ, Scorate đã 
   sống một nếp sống rất khiêm tốn, nhưng lại rất độc lâp về tinh thần.
   
Trong thời kỳ thi hành nghĩa vụ quân dịch, ông đã chiến đấu như một 
   bộ binh trong một cuộc chiến tranh Péloponèse. Khi thi hành những 
   nhiệm vụ chính trị bó buộc, năm 406, ông đã được chỉ định giữ chức 
   Thủ tướng chính phủ và chính lúc đó ông đã đứng về phía bênh vực đạo 
   luật chống lại số đông khi họ phẫn nộ đòi hỏi và bắt buộc xử án 
   những tướng lĩnh thuộc trận chiến Arginuses. 
Nhưng không bao giờ Socrate đã mưu tìm một địa vị quan trọng nào 
   trong nhà nuớc hay trong quân đội. 
Qua các sử liệu, ta còn hình dung được một đôi nét đặc sắc về dáng 
   điệu bề ngoài của Socrate: trong đối thoại Banquet thời danh của 
   Platon, ông được mô tả như một con người xấu xí, với đôi mắt lồi ra, 
   đôi mắt dầy cộp, với sống mũi cao, với cái bụng to, ngang hông mập 
   thù lù. 
Hình ảnh ấy mô tả giống hệt những pho tượng Silènes và Satyre 
   Marsyas trong những xưởng điêu khắc người Hi Lạp xưa. 
Trong quyển Banquet của Xénophon, ta lại thấy chính Socrate chế nhạo 
   hình ảnh ấy ở chương V. 
Nhưng trong một thể xác xấu xí lại chứa đựng một vẻ đẹp cao quý cả 
   về tinh thần và đạo đức; tuy là con người đã tuyên bố không biết chi 
   cả, nhưng ông đã được người ta ca tụng là một kẻ chiến thắng sau 
   cùng trong tất cả các cuộc đấu lý; hay là người không bao giờ tự 
   xưng có tài hùng biện như các Ngụy luận gia, nhưng dưới con mắt 
   người Hi Lạp xưa, mỗi khi đàm đạo với quần chúng, ông luôn luôn là 
   con người có khả năng quyến rũ mọi người như một người có bùa mê.
   
Hơn nữa trong lối sống của ông còn biểu lộ một thái độ can trường và 
   tiết độ phi thường . 
Đó là hình ảnh Socrate do Platon trình bày lại cho chúng ta qua cửa 
   miệng say sưa (trong "Bữa tiệc") nhưng thành thực của triết 
   gia khuyển nho Alcibiade (Cresson) 
Ngoài ra trong con người ấy, người ta còn ghi nhận hai hiện tượng 
   phi thường khác: Mỗi khi bị chi phối bởi một ý tưởng, Socrate đứng 
   lại tại chỗ, bất động như một người bị thôi miên, quên tất cả những 
   gì khác. 
Đó là trường hợp khi cùng với Aristodème, Socrate đi dự "Bữa tiệc" 
   vì vậy, cả hai người đã đi dự tiệc trễ, làm cho Agathon chủ tiệc 
   phải tức giận. 
Nhờ cơ hội ấy, Alcibiade còn thuật lại cho Potidée một hiện tượng kỳ 
   lạ hơn như sau: 
"Một buổi sáng, Socrate khởi sự suy nghĩ một việc gì thế rồi ông 
   đứng bất động tại chỗ. Không tìm ra, điều ông kiếm, ông cứ đứng im 
   và tiếp tục suy nghĩ trong cùng một tư thế. Lúc ấy đã trưa rồi, 
   người ta tuôn đến quan sát và bỡ ngỡ xầm xì với nhau rằng, Socrate 
   đứng đó suy nghĩ từ sáng giờ rồi! Tối đến, các binh lính Ioniens ăn 
   tối xong mang giường ngủ tới chỗ đó để ngủ cho mát (lúc ấy là mùa hè) 
   và quan sát xem Socrate có đứng y như thế thâu đêm không. 
Thì ra ông cứ đứng như thế tới ngày mai khi mặt trời mọc. 
   
Lúc ấy ông cầu nguyện mặt trời xong mới rút lui." 
Hiện tượng thứ hai phi thường hơn và hay được ghi nhận là "thần hộ 
   mệnh" (démon) của Socrate. 
Vị thần ấy hình như có nhiệm vụ ngăn chặn ông mỗi khi ông toan tính 
   một việc không nên làm, hay mỗi khi ông có thể hành động một điều 
   bất chính hay phản lại quyền lợi của riêng ông hoặc của dân chúng.
   
Hình như chính vị thần ấy một ngày kia đã biến đổi tất cả cuộc đời 
   của ông, nghĩa là trước kia Socrate cũng đã am tường vũ trụ luận của 
   Anaxagore: ông đã chứng kiến và say mê nguỵ luận thuyết. Nhưng không 
   một triết lý nào trong hai triết lý đã thỏa mãn ông: vũ trụ luận thì 
   không giúp ích gì cho tâm hồn con người; còn ngụy luận thuyết thì 
   tuy có thực hiện được nhiều điều vĩ đại bằng cách nêu lên những tra 
   vấn, thắc mắc nhưng cách thức đặt vấn đề của họ lại đẩy nó lạc vào 
   một kiến thức khác sai lạc hay vào thái độ phủ nhận mọi dữ kiện của 
   truyền thống . 
Trước sự thất bại của hai triết lý. Socrate ý thức được sứ mệnh cao 
   cả của mình. Nhưng sứ mệnh này không phải sứ mệnh do một Thượng đế 
   nào uỷ nhiệm ông để truyền đạt cho loài người những sứ mệnh của các 
   vị tiên tri. Trái lại sứ mệnh của ông là chỉ tìm nhân loại tức là 
   chính con người (Jaspers) 
Hơn nữa, Socrate còn thú nhận rằng, cũng do ảnh hưởng tiếng nói của 
   các vị thần ấy mà ông đã thi hành một số quyết định cao cả trong đời 
   sống ông như: ông không nên tự biện hộ cho mình, không nên vượt ngục, 
   không nên chấp nhận cái chết đang khi ông còn có thể sống. 
Nói tóm, với những nét đặc sắc trên ta đã có thể hình dung được 
   Socrate là một nhân vật độc đáo, trong xã hội đương thời của ông.
   
Nhưng khi Chéréphon người bạn chí thân của ông đến Delphes hỏi vị tư 
   tế Pythie xem trong loài người có ai khôn ngoan, thông minh hơn 
   Socrate không? Thì được lời sấm trả lời rằng: Không! 
Lời sấm ấy được phổ biến càng tăng thêm huyền bí giá trị chung quanh 
   nhân vật Socrate: tất cả dáng điệu bề ngoài của ông hình như tương 
   tự dáng điệu của những triết gia khuyển nho kiểu Diogène, nhưng kỳ 
   thực ông lại là một triết gia vượt xa sự lố bịch khờ khạo của họ.
   
Theo Xénephon: "Chúng ta có thể tin chắc rằng cuộc đời của 
   Socrate hoàn toàn có tính cách công cộng. Buổi sáng ông thường đi 
   dạo và vào vận động trường. Ông xuất hiện ở những công trường mỗi 
   khi có dân chúng tụ họp đông đảo. Ngoài thời gian ấy, trong một ngày 
   ông còn mở rất nhiều cuộc hội thảo. Ông thường nói nhiều trong các 
   cuộc hội thảo ấy, những ai muốn thì có thể nghe ông". 
Không bao giờ ông giảng thuyết một cách long trọng mà chỉ chuyện vãn 
   hay đàm đạo với một hay nhiều đối thoại viên, bất kể tuổi tác, địa 
   vị hay nghề nghiệp. Đời sống ấy là một đời sống đàm đạo với bất cứ 
   ai, với những thợ thủ công cũng như với những nhân vật trong chính 
   quyền, với những nghệ sĩ cũng như với những ngụy luận gia, với những 
   chàng thanh niên cũng như với những bạn bè hay môn đệ. 
Những cuộc đàm thoại ấy mang lại một sắc thái mới mẻ, không quen 
   thuộc đối với người Athéniens vì ở đây cuộc đàm đạo luôn luôn có sức 
   mạnh khích động gây băn khoăn và xuyên thấu vào tận đáy sâu của tâm 
   hồn. 
Trước kia, đề tài của những cuộc đàm đạo là cách thức sống của người 
   Athéniens tự do, nhưng với Socrate đề tài ấy trở thành một cái gì 
   khác. 
Đó là cách thức đưa vào chân lý của Socrate, vì ở đây từ bản chất, 
   chân lý phải xuất hiện và chỉ xuất hiện với cá nhân và cho cá nhân.
   
Vậy muốn đạt tới sự minh bạch thì cuộc đàm đạo cần phải thực hiện 
   giữa nhiều người, người ta cần tới ông và chính ông cũng tin chắc 
   rằng ông cần tới người ta. Nhưng trước hết là những chàng thanh niên, 
   Socrate muốn giáo hoá. 
Đối với Socrate, giáo hoá không phải là truyền đạt một cái gì khác 
   từ ngoại tại, như lối nhà bác học dạy khoa học cho người không biết. 
   Trái lại, theo ông giáo hoá là yếu tố làm cho con người này tiến gần 
   lại với người khác để nhờ sự tiến gần ấy mà họ gặp được sự thật. Các 
   chàng thanh niên trợ giúp ông khi ông muốn trợ giúp họ. 
Kết quả: sẽ khám phá ra được những khó khăn trong chính những gì xem 
   ra hiển nhiên, gây thắc mắc, bó buộc suy nghĩ thêm, học hỏi cách 
   nghiên cứu, tra vấn và tra vấn mãi không bao giờ trốn tránh trả lời 
   với niềm tin chắc chắn rằng chân lý là yếu tố quy tụ loài người lại 
   với nhau (Jaspers). 
Với cuộc sống và phương pháp giáo hoá mới mẻ ấy, dĩ nhiên Socrate đã 
   thành công một cách rực rỡ. 
Nhưng chính sự thành công ấy đã tạo nên một sự hiểu lầm và nghi kỵ 
   trầm trọng giữa ông với chính quyền đương thời. 
Kết quả Socrate sẽ là nạn nhân của sự hiểu lầm và nghi kỵ ấy. Nhưng 
   sự nghi kỵ ấy không bắt nguồn từ một tình cờ nào cả. Nó đã phát xuất 
   ngay từ những hài hước của Aristophane phổ biến rộng rãi trong quần 
   chúng qua quyển "Mây Gió" (423). Như đã nói sơ qua ở trên, nhà hài 
   kịch Aristophane trình bày một Socrate say sưa với vũ trụ thiên 
   nhiên học, chăm chú quan sát những hiện tượng xảy ra trên trời, dưới 
   đất; ngoài ra Socrate còn phủ nhận những vị thần của truyền thống và 
   thay vào đó khí trời và mây gió; ông còn dạy cách chiến thắng một 
   cuộc tranh luận và thâu thù lao sau khi dạy. 
Nhưng như vừa trình bày, Socrate đã thực hiện cuộc sống và cách thức 
   trái ngược hẳn với những điều vu khống của Arisophane. 
Ngoài Aristophane, phong trào chống đối Socrate cũng đã chớm nở từ 
   nhiều phía khác nhau. Người ta chỉ trích Socrate đã truyền bá thái 
   độ thụ động lười biếng, đã lợi dụng lối giải thích của các thi sĩ để 
   thiết lập những lý thuyết gây tội ác. 
Đó là một hình ảnh sai lầm về Socrate, nhưng đã được những kẻ thù 
   xây dựng trên những sự kiện có thực mà đã bị xuyên tạc. Ví dụ lúc 
   thiếu thời Socrate đã am tường vũ trụ thiên nhiên học và ngụy luận 
   thuyết nhưng ông đã bị nghi ngờ là người khởi xướng một phong trào 
   triết lý mới, bị công chúng thù ghét, vì họ không hiểu thế nào là 
   ngụy luận thuyết và kẻ chiến thắng nguỵ luận thuyết. 
Quả vậy, không phải Socrate ùa theo Phong trào ngụy luận mà là vì 
   phương thức mới ông nêu ra để vượt ngụy luận và đem lại một đường 
   hướng mới cho tư tưởng, đã là điểm quần chúng không thể chấp nhận.
   
Phương thức mới ấy, như đã nói là ở chỗ Socrate luôn luôn thắc mắc, 
   tra vấn mà không biết mệt mỏi, chỉ đẩy tới những câu hỏi căn bản mà 
   không giải đáp. Thái độ ấy thường gây bối rối, tự ti và yêu sách 
   khắt khe đến mức khai nguồn cho sự bực tức và căm hờn. 
Một trong những phản ứng thời danh là của Hippias sau đây với 
   Socrate. Ông ấy nói: "Ông (Socrate) chỉ muốn xâu xé người khác 
   bằng những câu hỏi và đẩy họ vào chân tường. Còn ông không bao giờ 
   ông cho ai là có lý cả, cũng không bao giờ cho ý kiến của ông. Tôi 
   không muốn bị ông chọc tức như thế nữa". (Xénephon) 
Không những thế, sự kiên nhẫn còn phát xuất từ hàng ngũ của chính 
   những người bạn thân Socrate cỡ như Alibiade và Critias. 
Sự kiện này nằm trong một khuôn khổ chính trị rộng rãi hơn, tức là 
   chiến tranh giữa Hi Lạp và Sparte xẩy ra vào năm 431. Chiến tranh 
   này gây những điều kiện sống khó khăn và tai họa thảm khốc cho tất 
   cả nước Hi Lạp và riêng cho Athènes. 
Theo Cresson, các sử gia phân chiến tranh này ra làm ba thời kỳ: 
Từ 431 đến 421, khi bại khi thắng. Nhưng mỗi năm trước mùa gặt, các 
   đồng ruộng của Attique và Laconie đều bị tàn phá thành thử người Hi 
   Lạp bị chết đói. Vào năm 421. Nicias ký với dân Sparte một cuộc đình 
   chiến trong vòng năm năm. 
Thời ký thứ hai bắt đầu từ năm 521 đến 412; đó là cuộc chinh phạt do 
   Alcibiade điều khiển chống lại xứ Sicile. Nhưng cuộc chinh phạt ấy 
   đã gieo tai họa cho Athènes và thủ lãnh của họ bị lưu đầy. 
Thời kỳ thứ ba (từ 421 đến 404) trước hết được đánh dấu bằng sự thất 
   trận của hạm đội Pélopoèse ở quần đảo Aginuses (406). Không những 
   thất trận như thế, Đề đốc Spartiate tên Lysandre, lại thắng trận 
   Oegos-Potamos vào năm 405 và chiếm cứ Athènes năm 404. Rốt cuộc các 
   thành trì bị sụp đổ, những hạm đội bị thiêu huỷ, những thuộc địa bị 
   chiếm đóng. 
Đó là những thống kê 40 năm binh đao cho thành Athènes phồn thịnh.
   
Thảm họa thêm nữa là những kẻ chiến thắng đặt ra một chính phủ gồm 
   30 bạo chúa. Phần đông là những người Spartiates, nhưng cũng có xen 
   vào một hai người Athénien, trong số có Critias, Théramène, 
   Chariclès. 
Nhưng chính quyền ấy chỉ còn tồn tại có tám tháng trời rồi bị 
   Thrasybule đánh đuổi vào năm 403. 
Tuy nhiên, theo Xénephon, chính quyền ấy đã gây ra những tội ác tầy 
   trời vì chính vì hành động độc ác của họ mà Socrate đã bị án tử 
   hình. 
Khi đứng trong hàng ngũ chính phủ của 30 bạo chúa, Critias được giao 
   trọng trách dự thảo những đạo luật, trong đó có một đạo luật chống 
   lại Socrate, cấm chỉ Socrate không được "dạy nghệ thuật hùng biện" 
   nữa. 
Nhưng không những không hàng phục, Socrate còn cương nghị lên án chế 
   độ độc tài của 30 bạo chúa, vì những tội ác của họ như đã giết một 
   số lớn những công dân ưu tú và áp bức một số khác phải tham gia 
   những tội ác của họ. 
Sóng gió nổi dậy vào năm 339 (trước tây lịch) ba nhân vật tên Anytos, 
   Mélétos và Lycon đệ đơn tố cáo Socrate về ba trọng tội: 
1.            Không tin tưởng vào tôn giáo của nhà nước 
2.            Nhập cảng những thần mới vào Athènes 
3.            Làm trụy lạc thanh niên 
Trong nhiều năm trường, không hề thấy Socrate đếm xỉa gì đến những 
   lời vu khống ấy. Trong lúc sinh thời ông đã không viết một bản văn 
   hay một lời nào để biện hộ cho ông và cho những điều ông dạy. 
Theo những sử liệu của Laèrce và Xénephon thì nói đến những lời bạn 
   bè khuyên nhủ Socrate hãy tự biện hộ. 
Nhưng chỉ thấy cả hai tài liệu ấy nhấn mạnh trên quyết nghị vững 
   chắc của Socrate là ông đã không bao giờ rút lui, lẩn trốn hay chỉ 
   dạy dỗ một số môn đệ nào đó trong bóng tối, trái lại ông luôn luôn 
   xuất hiện ngoài công trường với những đám đông của quần chúng. 
Trước sự tấn công của kẻ thù, Socrate chỉ tự biện hộ trong câu ông 
   nói rằng: thần minh đã uỷ nhiệm cho ông sứ mệnh là phải dành cả cuộc 
   đời để tự kiểm thảo chính mình và kiểm thảo kẻ khác. 
"Sứ mệnh ấy thần minh đã uỷ thác cho tôi qua những sấm ngôn, 
   những chiêm bao và tất cả những biểu hiện có thể có mà thường thường 
   thần minh xử dụng để tự biểu thị ra với loài người". 
Sứ mệnh ấy ông đã chấp nhận, nên ông phải cương quyết ở địa vị đó mà 
   không sợ nguy hiểm hay sợ chết. 
"Tôi sẽ thần phục thần minh hơn thần phục các ông; và bao lâu tôi 
   còn hơi thở và sức mạnh tôi sẽ không thôi dò thám chân lý để báo 
   động và soi sáng cho các ông, và tôi sẽ không thôi nói với ý thức 
   của tất cả những ai tình cờ gặp tôi, như thói quen tôi thường làm, 
   nghĩa là tôi sẽ nói với họ rằng: hỡi ông bạn, tại sao ông không chú 
   ý đến trí não, đến chân lý và cải thiện tâm hồn ông đến mức tối đa, 
   và tại sao ông lại không ưu tư gì điều ấy cả?" 
Trong việc tự biện hộ ấy, Socrate còn phản đối các quan toà của ông 
   rằng: "Quý vị tuyên án tôi là quý vị gây tai họa lớn nhất cho quý vị 
   hơn là cho tôi." 
Dĩ nhiên họ có thể giết ông, bỏ tù ông, đặt ông ra ngoài vòng pháp 
   luật. Nhiều người coi đó là một tai họa lớn, nhưng Socrate nói: "Còn 
   tôi, tôi không coi đó là một tai họa, nhưng đó là một xảo kế để lên 
   án tử hình cho một người một cách bất công nhất." 
Rồi dân thành Athènes sẽ tự nhận lỗi mình khi đã phủ nhận ân huệ của 
   thần minh ban cho họ qua sứ mệnh của Socrate: "Vì nếu quý vị cướp 
   đoạt sự sống của tôi, quý vị sẽ không dễ tìm được một người khác như 
   tôi, vì – tuy điều ấy xem ra buồn cười – đó chính là một ân huệ thần 
   minh ban cho công dân đô thị làm lợi khí sửa sai…, vì tôi không bao 
   giờ ngơi báo động, huấn dụ và tưởng lệ…. 
Nhưng có lẽ quý vị nội giận mà đánh đập tôi, không khác gì một người 
   đang ngủ say mà bị con mòng chích…. đập chết mòng để rồi say ngủ lại 
   triền miên hơn trong quãng đời còn lại." 
Nhưng bây giờ bản án đã tuyên đọc có nên xin các quan toà ân xá bằng 
   nước mắt theo thông lệ không? 
Điều ấy không thể quan niệm được, không hợp lý và không hợp đạo: 
"Vì quan toà không phải được chỉ định để ân xá mà là để xét xử, 
   không phải để tỏ lượng khoan hồng mà là để tuyên án theo luật định."
   
Và Socrate đã chấp nhận bản án, để vào ngồi tù và uống thuốc độc tự 
   tử. Trong thời gian ngồi tù, một biến cố đã trì hoãn bản án được ba 
   mươi ngày. Số là hàng năm, dân Athéneiens có gửi một hạm đội sang 
   Délos. Các bạn hữu của Socrate muốn nhân cơ hội mà cứu nguy cho 
   Socrate, nhưng ông đã không chấp nhận cơ hội may mắn ấy. 
Đối thoại Phédon đã thuật lại những chi tiết cuối cùng trước giờ 
   chết của Socrate. 
Khi đến giờ uống độc dược, theo công lệ, người ta cởi xiềng xích cho 
   ông. Bà con bạn hữu đươc phép tới để từ biệt và chứng kiến ngày tận 
   số của ông. 
Vào lúc chiều tà Socrate đã tự vận bằng ly độc dược! 
Cái chết của Socrate là yếu tố thiết định hình ảnh và ảnh hưởng của 
   ông. Ông đã chết như một vị tử đạo chứng minh cho triết lý. 
Đó là sơ lược những sử liệu về thân thể của Socrate. 
 *
*    *
   Lý thuyết 
   
Về một số điểm căn bản trong lý thuyết của Socrate, lịch sử đã đồng 
   ý ghi nhận như sau: 
a. Socrate không chủ trương xây dựng một vũ trụ luận như các triết 
   gia trước ông ví dụ Empédocle và Héraclite, vì theo ông loài người 
   phải để cho thần thánh nhiệm vụ chú ý tới vũ trụ ngoại tại, còn 
   chính con người lại phải chú ý những gì trực tiếp liên hệ với mình. 
   "Hãy tự biết mình!" đó là châm ngôn ghi trên khung cửa đền thờ 
   Delphes và được coi là châm ngôn cho tinh thần nhân bản của Socrate.
   
b. Nhưng mục đích của Socrate không phải là dạy ta lý thuyết về bản 
   tính con người nghĩa là ông không muốn trình bày cho ta một kiến 
   thức khách quan, ngoại tại mà có lẽ không bao giờ ta sở đắc được.
   
Trái lại, ông chỉ muốn giúp ta suy nghĩ, gây ý thức cho ta về những 
   tư tưởng ý nghĩ ấy gợi ra. 
Lối dạy ấy đã tạo nên cả một nghệ thuật độc đáo gắn liền với tên ông.
   
Đó là thuật "Sản ý" (maieutique) ông tự thú đã học được ở nghề thực 
   hành hộ sinh của mẹ ông, vì hộ sinh không phải là sinh thay cho 
   người khác mà là giúp đỡ họ để họ sinh dễ dãi và bảo đảm. 
Trong lãnh vực tư tưởng cũng vậy, dạy không phải là truyền đạt một 
   tri thức khách quan từ ngoại tại vào trí óc của người khác mà là gợi 
   lên những thắc mắc để người khác khám phá được chân lý tiềm ẩn trong 
   trí óc và tâm hồn của họ. 
c. Nhưng đang khi kêu gọi người khác về những ý thức tư tưởng riêng 
   tư của họ bằng sản ý như vậy thì Socrate còn muốn họ phải hiểu rằng: 
   những gì họ tưởng đã biết thực sự là những gì họ còn ngu dốt. 
Nghệ thuật ấy thường được gọi là "Hài hước" (Ironie). Theo nghĩa đen, 
   danh từ ấy muốn nói lên nghệ thuật biết tra vấn, nghĩa là mỗi khi 
   nêu lên những thắc mắc, Socrate thường giả bộ như muốn học hỏi với 
   người khác. Ví dụ với các ngụy luận gia - những người thường bị ru 
   ngủ với những kiến thức giả tạo của mình – Socrate thường giả vờ tỏ 
   thái độ khiêm tốn, nhưng nhờ những thắc mắc ông nêu lên, đối phương 
   mới nhận thức được những mâu thuẫn trong tư tưởng của mình và sự ngu 
   dốt trầm trọng của họ. 
d. Tuy là người đầu tiên và trên hết tự nhận thức sự ngu dốt của 
   chính mình, nhưng Socrate lại là một nhà tư tưởng đặt tư tưởng tuyệt 
   đối vào chân lý, vì trên hết phương pháp của ông là khám phá cho 
   được những ý tưởng tổng quát hay những định nghĩa ví dụ từ những 
   biểu thị khác nhau của đức công chính nơi nhiều người và trong nhiều 
   hoàn cảnh khác nhau, nhà tư tưởng tìm ra được một định nghĩa chung 
   thiết định được yếu tính của đức công chính là gì? 
Chỉ có định nghĩa yếu tính ấy mới dung nạp được mọi biểu thị khác 
   nhau của đức công chính vừa nói trên. Socrate đã sáng nghĩ được hai 
   điểm quan trọng một là những chứng lý diễn dịch (les arguments 
   déductifs), hai là những định nghĩa tổng quát và phổ biến (Méta. 
   1078b 27) (A.E. Taylor: Sokraytes, trg 153). 
Vì theo W. Capell. Tuy xem ra rất đơn giản, nhưng khám phá trên đã 
   ảnh hưởng xâu xa cho những vấn đề trí năng thuộc tâm lý học và tri 
   thức luận tương lai (Geschichte der Philosophie, II, trg 35). 
Riêng trong lĩnh vực đạo đức, sự tin tưởng tuyệt đối vào tri thức và 
   chân lý như trên vừa giải thích đã biểu thị rõ rệt tính chất duy lý 
   của Socrate (rationalisme moral). Điều này được trình bày rõ rệt 
   nhất trong các đối thoại đầu tiên của Platon, mỗi khi phải tranh 
   luận về một nhân đức như công chính, tiết độ, can đảm, sùng tín, v.v. 
   Từ những tranh luận ấy, theo Socrate, Platon luôn luôn muốn trình 
   bày rằng, tất cả những người bất công hay có thể làm điều ác chỉ vì 
   họ không biết, không tri thức, không đạt được chân lý. Nói khác, 
   theo Socrate – Platon, sở dĩ những người không thực hiện hay sống 
   nhân đức là vì họ không thể suy diễn ra được một định nghĩa hay một 
   ý tưởng tổng quát. Một khái niệm yếu tính về nhân đức đặc thù. trái 
   lại nếu thực sự họ tri thức được những nhân đức nói chung hay từng 
   nhân đức một như công chính, tiết độ, v.v. bằng một ý niệm tổng quát 
   kiểu định nghĩa thì đương nhiên họ sống nhân đức, công chính và tiết 
   độ. 
Đó là những ý nghĩa của câu nói hầu như đã trở thành châm ngôn kỳ 
   quặc trong lý thuyết đạo đức của Socrate như: 
"Không ai có thể cố tình muốn làm điều ác" (Nul n’est méchant 
   volontairement) 
Hay: 
"Người ta không thể muốn điều ác nếu người ta có tri thức chính 
   xác về sự thiện" (On ne peut pas vouloir son mal quand on sait 
   de science certaine quel est le bien)  nghĩa là người ta chỉ làm 
   điều ác được là vì người ta không quan niệm được sự thiện là gì. 
   Ngược lại nếu người ta hiểu được ác là gì và thiện là gì thì không 
   thể không làm điều thiện. 
Theo bằng chứng của Xénophon, chủ trương đạo đức của Socrate là tri 
   thức và đạo đức là một nghĩa, là muốn sống đạo đức phải tri thức và 
   chỉ cần có tri thức về nhân đức là sống nhân đức (indentité de la 
   science et de la vertu c’est à dire pour être vertueux il faut 
   savoir, et il suffit de posséder la science pour être vertueux). 
Trong đối thoại Protagors. Platon cũng giải thích như vậy: "không 
   ai làm điều ác một cách cố tình" (Personne ne peut faire le mal 
   volontairement) (351 c, d, và Timée, 86 d tiếp). Trong đối thoại 
   cuối cùng tức quyển "Pháp luật", Platon vẫn không ra ngoài viễn ảnh 
   đạo đức nói trên; bằng một ví dụ cụ thể, ông giải thích: Một người 
   nào đó vì nóng giận hoặc vì thực sự ước muốn làm điều ác và họ đã 
   làm điều ấy một cách ý thức là một việc không thể xảy ra, vì theo 
   Platon, "sở dĩ có sự bất hoà giữa đau khổ và khoái lạc với ý kiến 
   hợp lý là do một sự không biết trầm trọng và bao la chi phối tâm hồn 
   ta đó thôi" (Platon définit: "le désaccord de la douleur et du 
   plaisir avec l’opinion raisonnable comme la pire ignorance et aussi 
   la plus vaste parce qu’elle atteint la plus grande partie de notre 
   âme) (689 a) 
Trong quyển "Đạo đức học gởi Nicomaque" (Ethique à Nicomaque), 
   Aristote xác nhận thêm điều ấy rằng: Socrate chủ trương đồng tính 
   giữa tri thức và nhân đức (VI, 13, 1144 b, 17). 
Hơn nữa, để biễu lộ sự bất đồng ý kiến với Socrate, Aristote còn 
   trình bày một phân biệt thời danh thành hai loại nhân đức khác nhau: 
   một bên là nhân đức lý thuyết (vertus dianoétiques), một bên là 
   những nhân đức thực tiễn (vertus éthiques ou pratiques). 
Nói theo danh từ triết lý Đông Phương nhân đức lý thuyết là tri, 
   nhân đức thực tiễn là hành. Với Aristote, tri và hành không đồng 
   tính: biết điều tốt không dĩ nhiên người ta làm điều tốt. 
Ovide nhà văn hào trứ danh của La mã đã phát biểu một ý kiến bất hủ 
   tương tự: 
"Tôi nhìn thấy và công nhận những điều tốt, nhưng khổ thay tôi 
   lại cứ theo con đường tà!" (Video meliora proboque Deteriora 
   sequor…) (Métam. VII,20) 
Trong sự đối nghịch ấy, Aristote muốn nói rằng: chủ trương đạo đức 
   của Socrate là chủ trương coi tri và hành là một theo nghĩa lý trí.
   
Đó là lý do tại sao Taylor và Wahl, Mucchielli đã gọi khuynh hướng 
   đạo đức của Socrate là "Đạo đức duy lý" và so sánh với "đạo đức" của 
   Spinoza sau này. 
Trên đây là bản tóm tắt vắn tắt và tổng hợp về thân thế và lý thuyết 
   của Socrate được hầu hết các triết gia và triết sử gia công nhận.
   
Tuy nhiên nếu nhìn vào ảnh hưởng đa diện của Socrate trên lịch sử tư 
   tưởng Hi Lạp và Tây phương thì sự đồng ý trên hầu như trở thành khả 
   nghi. Từ sự khả nghi ấy, người ta đã mường tượng ra nhiều chân dung 
   khác về Socrate. 
Một cách tinh vi, Jaspers đã phác họa một vài nét về ảnh hưởng và 
   chân dung đa diện ấy như sau: 
"Cái chết của Socrate đã làm bùng nổ một trái bom lớn. Sau biến 
   cố ấy, nhóm bạn bè của ông tự cảm thấy phải có sứ mệnh phải nói về 
   ông, phải làm chứng nhân cho ông, phải triết lý theo tinh thần của 
   ông. Từ đó đã khai nguyên một đường hướng triết lý mới, mang nhãn 
   hiệu Socrate mà Platon là một đại diện lớn nhất. Tuy rằng không một 
   công tác, không một lý thuyết, không một hệ thống nhưng Socrate đã 
   khai trương một trào lưu triết lý hùng mạnh nhất, vẫn tồn tại cho 
   tới ngày nay. 
Nhưng kỳ lạ thay, ảnh hưởng của Socrate đã không phản chiếu đồng 
   đều qua các môn đệ của ông. Muôn vàn trường phái với những màu sắc 
   riêng biệt đều căn cứ trên thế giá của ông: từ trường phái Mégarique 
   với những ngụy biện, với ý niệm khả tính và trường phái Elis với 
   những nghiên cứu tất cả đều mang cùng một nhãn hiệu là trường phái 
   Socrate. 
Ngược lại không những không tham gia một trường phái nào vừa nói 
   vì quan niệm của chúng là những mê lộ mà còn đối lập lại chúng, 
   Platon đã khởi xướng một trào lưu tư tưởng cũng mang ấn tích của 
   Socrate, nhưng bao la và sâu sắc hơn các trường phái kia. 
Nói tóm, trong khả tính tất cả đều có một điểm tựa trong tư tưởng 
   của Socrate nhưng không một lý thuyết nào thực sự của ông. 
Ảnh hưởng ấy còn mang đầy tính chất đa diện cả trong những thời 
   kỳ lịch sử tiếp sau cái chết của Socrate ví dụ trong triết học Ky tô 
   giáo, các nhà tư tưởng giáo phụ (Pères de l’Eglise) khi gọi là 
   Socrate là tiền hô của các tử đạo, khi thì đặt ông ngang hàng với 
   Jésus: "Socrate và Christ cùng nhau đứng lên phản đối tôn giáo Hi 
   Lạp" (Justin) hay "chỉ duy có một Socrate" (Tatient); Origène ghi 
   nhận những đặc điểm giống nhau giữa Socrate và Jésus. Théodoret lại 
   quan niệm trực giác "vô tri" của Socrate là con đường chuẩn bị cho 
   Đức tin, v.v. 
Qua một thời Trung cổ bị lu mờ, sang thời kỳ Phục hưng, Socrate 
   được Erasme ca tụng như một vị thánh: 
"Lạy thánh Socrate, cầu cho chúng tôi" (Sancte 
   Socrate, ora pro nobis!) 
Montaigne nhìn tư tưởng của Socrate là mô phạm 
   cho mọi khuynh hướng hoài nghi và duy nhiên, trong đó đức tính cao 
   cả nhất là sự thành hình của một con người dám chết. 
Ở thế kỷ Ánh sáng, nghiễm nhiên Socrate trở 
   thành một nhà tư tưởng chủ trương tinh thần độc lập và tự do. 
   
Với nhạc sĩ Mendelssohn, Socrate vừa là con 
   người đạo đức tuyệt vời vừa là chứng nhân cho sự hiện hữu của thần 
   minh và bất khả tử. (Phédon) 
Tuy nhiên, theo Jaspers, ảnh hưởng đa diện 
   trên đây mới "chỉ là một khởi điểm [5] thuộc những thế kỷ trước"
   
Với thế kỷ chúng ta thấy xuất hiện hai khuynh 
   hướng giảng nghĩa Socrate một cách mới mẻ, sâu sắc khác hẳn nhưng 
   lại đối nghịch nhau hoàn toàn. Đó là khuynh hướng quan niệm Socrate 
   như khởi điểm nguyên thuỷ cho triết học hiện sinh, do Kierkegaard 
   cầm đầu. 
Khuynh hướng thứ hai nhằm trình bày Socrate như 
   con người sáng lập ra phong trào suy tư bằng lý trí, do Nietzsche 
   lãnh đạo. 
Nói tóm, một đàng Socrate được coi như tiêu biểu 
   cho triết học hiện sinh; một đàng Socrate được coi như tiêu biểu cho 
   con đường triết lý vương giả. 
Đó là hai điểm cần được khai triển. 
 *
*    *