Đoàn Xuân Kiên
lại
bàn chuyện
ĐỊNH
CHUẨN MỰC CHO TIẾNG VIỆT
Tiếng
nói cuả một cộng đồng ngôn ngữ thường vẫn là một thể thống nhất nhưng đa dạng.
Trong cái chung giống nhau vẫn có những sai biệt giưã các điạ phương. Những khác
biệt điạ phương có thể là về cách phát âm, về lối dùng từ ngữ, và có thể cả mặt
ngữ pháp nưã. Điều đó có nghiã là ở mỗi điạ phương, tiếng nói có những nét
chung với nhau.
Mỗi điạ phương như vậy đã hình thành một phương ngữ. Ý niệm "điạ phương" ở đây bao hàm một vùng điạ
lí rộng lớn khả dĩ dung nạp những nét chung nhất cuả ngữ âm và từ ngữ sử dụng tại
vùng đất đó. Trong một phương ngữ rộng lớn, có thể vẫn có một vài cách phát âm
khác biệt với chuẩn mực chung cuả phương ngữ đó, gọi là thổ ngữ.
Tiếng
Việt cũng không ra ngoài quy luật chung cuả mọi ngôn ngữ trên thế giới, nghiã là
nó vẫn có những khác biệt điạ phương. Điều kiện điạ lí, hoàn cảnh lịch sử, và yếu
tố thời gian tác động trên những giao lưu ngôn ngữ mà từ đó hình thành các phương
ngữ tiếng Việt. Mặc dù có nhiều vùng nói
tiếng khác nhau, mọi người cùng nói tiếng Việt có thể hiểu nhau dễ dàng, nếu so
với các cộng đồng ngôn ngữ khác. Chẳng hạn, cùng nói tiếng Hoa mà người Trung
Hoa ở Bắc Kinh nói khác người ở vùng Phúc Kiến hoặc Quảng Đông. Tiếng Việt không
có tình trạng hai người thuộc hai điạ phương khác nhau cần có người thông ngôn để
hiểu nhau. Sự kiện này nói lên tính cách thống nhất trong ngôn ngữ cuả chúng
ta. Tuy nhiên, thống nhất không có nghiã là hoàn toàn đồng nhất.
Đứng trước những sự sai biệt về tiếng nói, có nhiều
quan điểm khác nhau đối với vấn đề thống nhất tiếng nói và chính tả tiếng Việt.
Trong suốt thế kỉ XX đã có những cuộc thảo luận, những hội nghị bàn về việc thống
nhất tiếng Việt. Trong bài này, chúng tôi góp thêm một tiếng nói vào cuộc thảo
luận đã dài ngày nhưng chưa hẳn đã kết thúc: chuyện ấn định chuẩn mực cho việc
phát âm và chính tả tiếng Việt.
Phương ngữ tiếng Việt
1 Phương
ngữ tiếng Việt chia ra làm ba miền lớn:
(a) Phương ngữ
bắc: trải rộng khắp miền bắc Việt Nam, đến Thanh Hoá;
(b) Phương ngữ
trung: từ nam Thanh Hoá đến đèo Hải Vân;
(c) Phương ngữ
nam: từ Đà Nẵng vào Nam
bộ.
Ranh
giới giưã ba miền phương ngữ không phải là lằn ranh điạ lí dứt khoát. Thực tế
cho thấy là các vùng ở giưã các miền phương ngữ thường có những tính cách chung
cuả hai phương ngữ.
Phương ngữ tiếng Việt ở cả ba miền đều
có những sai chệch so với chuẩn mực như đã được mô tả trong các tiết về âm vị
trên kia. Phần trình bày dưới đây sẽ luôn luôn quy chiếu về "chính tả",
chỉ với ý nghiã là lấy những chuẩn mực đã mô tả trên kia để đối chiếu với đặc
tính phát âm cuả mỗi phương ngữ.
Phương ngữ bắc
2 Phương
ngữ bắc có những nét chung về ngữ âm như sau:
(1) Hệ thống
thanh có đủ sáu thanh với những tính cách âm vị học khá chuẩn mực, như trong
chính tả hiện đại1.
(2) Hệ thống phụ
âm đầu:
·
phương ngữ bắc không phát âm các phụ âm s, r, d, tr như trong chính tả, vì thế xoá nhoà đối lập âm
vị học giưã các nhóm phụ âm đầu s / x , r
/ d / gi, và tr / ch.
·
lẫn lộn hai phụ âm l và n.
(3) Hệ thống
nguyên âm: có đủ các nguyên âm đơn như trong chính tả. Trong số các âm kép chúm
môi-tăng dần, phương ngữ bắc có khuynh hướng không phát âm ươu và ưu , vì thế đã xoá
nhoà ranh giới âm vị học giưã hai cặp nguyên âm ươu /iêu và ưu / iu.
(4) Hệ thống âm
cuối: có đủ các phụ âm cuối như trong chính tả.
Phương ngữ trung
3 Phương
ngữ trung có những đặc trưng âm vị học như sau:
(1) Hệ thống
thanh điệu: có bốn thanh, khác hẳn hệ thống thanh cuả phương ngữ bắc về tính cách:
phương ngữ trung không phát âm thanh sắc
và ngã, phát âm các thanh hỏi - ngã -
nặng cùng có nét âm điệu đi dốc xuống. Đặc biệt là khu vực phương ngữ trung-trên
(Bình Trị Thiên), có một số nét đặc trưng về thanh khác hẳn các vùng dưới. So sánh
hai hệ thống thanh ở bắc và trung:
phương ngữ bắc phương
ngữ trung phương ngữ trung trên
huyền huyền huyền
ngang ngang ngang
hỏi hỏi nặng
ngã hỏi nặng
sắc sắc hỏi
nặng nặng nặng
(2) Hệ thống phụ
âm đầu:
·
phương ngữ trung phát âm rõ ba phụ âm đầu s , gi , tr như trong chính tả;
· có âm rung r / r
/;
· tại một số vùng còn giữ thổ ngữ có hai phụ âm bật hơi kh và
ph chứ không phải là hai phụ âm xát như lối phát âm ngày nay2.
· có hiện tượng chuyển hoá phụ âm
nh d ,
d/gi j (âm lỏng), đ d . Ví dụ: nhà dà/jà, (cây) đa (cây)
da
(3) Hệ thống nguyên âm: có đủ
các nguyên âm đơn và kép-chúm môi-tăng dần như trong chính tả. Có
hiện tượng âm ô dài : / o / /
o: /. Ví dụ: ông ôông, trốc trốốc
(4) Hệ thống phụ âm cuối: không có
phụ âm cuối / -n / và /-t / . Hai âm này chuyển sang hai âm cuá / -k / và / -ng
/ : san sát sang sảc*, bùn
đất bùng đẩc*
Phương ngữ nam
4 Đặc
tính nổi bật cuả phương ngữ này là có nhiều nét gần với phương ngữ bắc nếu so sánh
với phương ngữ trung. Tính cách chung cuả phương ngữ nam là:
(1) Hệ thống
thanh: có năm thanh tương ứng với thanh ngang,
hỏi, sắc, huyền, nặng cuả phương ngữ bắc. Không có thanh ngã. So sánh kĩ về điệu tính thì năm
thanh cuả phương ngữ nam vẫn có khác với cuả hai phương ngữ trên, nói chung là "nhẹ,
mềm mại" hơn.
(2) Hệ thống phụ
âm đầu:
·
có các phụ âm s,
x, tr
·
d,gi
chuyển sang âm lỏng j như ở phương ngữ
trung
·
có âm rung r
·
không có âm v,
hay đúng hơn là chuyển thành âm môi ướt vj
mà nay chỉ còn dấu vết trong từ điển de Rhodes
·
chuyển dịch phụ âm đầu / k / chúm
môi , âm hầu / h / trong âm tiết có chúm môi, thành âm / g / : quá quắt goá goắc , huy hoàng guy goàng
(3) Hệ thống
nguyên âm:
·
các nguyên âm đơn bậc cao ở cả hàng
trước, hàng giưã và hàng sau / i / , / ư /, / u / trong âm tiết mở có khuynh hướng trượt giảm dần
với phụ âm cuối / i / : đi
đij , (cá) ngừ ngừj , vi vu vij vuj
·
vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi có khuynh hướng dịch
âm: âm giưã thấp / A / lên âm hàng giưã
bậc trung /ươ /, và nguyên âm sau tròn môi / o / về âm giưã-thấp / A /: ai đó ưa đáù , nòng nọc nàng nạc
·
nguyên âm / i / chuyển thành âm / ư
/ ngắn: xinh xắn xưn xắng
·
nguyên âm chúm môi mở đầu âm tiết
chuyên thành âm tiết có âm đầu / g / : uy
quyền guy guyềng,
oan uổng goang guổng
·
nguyên âm rộng hàng giưã chúm môi
/ uA / lại mất chúm môi : hoàn toàn hàng tàng
·
nguyên âm kép chúm môi hàng trên
trượt có khuynh hướng mất âm mở rộng ở sau, là / ê / và / ơ / : kiếm kím, kì diệu kì dịu, cương thường
cưjng thừjng
(4) Hệ thống phụ âm cuối: không có phụ âm cuối
/ -n / và /-t / . Hai âm này chuyển sang hai âm cuá / -k / và / -ng / như ở phương
ngữ trung: san sát sang sác, bùn đất bùng đấc
Định chuẩn mực ngữ âm
5 Đứng
trước tình trạng sai biệt giưã các phương ngữ, có hai quan điểm giải quyết:
(1) Khuynh hướng
tôn trọng sự phát triển tự nhiên cuả ngôn ngữ. Đây là quan điểm cuả ngôn ngữ học
(miêu tả) khách quan Mĩ vào những năm sau Bloomfield.
Ở Việt Nam
cũng từng có quan điểm như thế khi chủ trương rằng nhà ngữ học không được đặt
ra những phép tắc quy định rằng người ta phải nói cách này, phải dùng cách đặt
câu kia, hay là phải đọc chữ này cách nọ mới đúng. Nhà ngữ học chỉ quan sát xem
người ta nói thế nào, dùng cách đặt câu nào, và đọc cách nào, rồi thì mô tả đúng
những điều mình quan sát thôi. Chẳng hạn, nếu cho rằng học sinh miền Nam-Ngãi
phát âm / mi hạÏc ưa đá / là sai, và buộc
phải học nói " mầy học ai đó"
mới đúng là trái tự nhiên, cũng như thầy giáo bắt học sinh miền bắc phải nói "con
trâu" chứ không được nói "con
châu" thì rồi trong ý thức cuả cháu, tiếng "châu" đó có thể
cũng không khác gì với "châu" trong tiếng "châu
chấu" mà cháu vẫn thường nói. Như vậy thì những quy định chuẩn mực ngôn
ngữ chỉ là những áp đặt phi tự nhiên.
Một khuynh hướng khác lại cho rằng
phải sưả lại những sai chệch do căn bệnh điạ phương gây ra. Phải thống nhất ngôn
ngữ như là một biểu hiệu cho thống nhất dân tộc.
Đến nay, việc định chuẩn mực ngữ âm
cần được đặt ra trong một chừng mực là làm trong sáng tiếng Việt sau bao nhiêu
năm tháng không ngừng bị bỏ quên không được quan tâm đúng mức: một phần do chiến
tranh phân hoá mà ngay ngôn ngữ cũng đã ít nhiều biến thành một công cụ tranh
thắng về chính trị, mặt khác các nhà nước tiếp nhau đều chưa có một chính sách
ngôn ngữ và giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ.
Ngày
nay, bàn đến việc định chuẩn mực ngôn ngữ là một việc làm hoàn toàn xác đáng dưạ
trên chính sự vận động ngôn ngữ, và cần dưạ trên một số tiêu chuẩn.
Trước hết và trên hết cả, chuẩn hoá
không phải là độc đoán đề ra những luật lệ ngôn ngữ mà không đếm xiả gì những
quy luật phát triển khác cuả ngôn ngữ, là quy luật tiết kiệm và sự vận động cuả
ngôn ngữ qua thời gian. Những âm bật hơi cuả tiếng Việt hãy còn tồn tại đủ khoảng
đầu thế kỉ XX , khi Maspéro tìm hiểu nó; nhưng đến giờ / ph / và / kh / đã chuyển thành âm xát, chỉ còn sót
lại ở vài ốc đảo ngôn ngữ không đáng kể. Một trường hợp khác: ba âm / s, tr , r /
hãy còn nghe thấy ở phương ngữ bắc vài thập niên trước, mà nay hầu như
không còn dùng trong thế hệ trẻ. Còn rất nhiều thí dụ cho sự chuyển dịch phát âm
qua thời gian như thế.
Sau nưã là sự liên tục và đồng bộ. Định
chuẩn mực ngôn ngữ là một vận động ngôn ngữ trong toàn xã hội, trong đó phương
tiện nhà trường và truyền thông đại chúng cần phải đóng vai trò chủ yếu. Những
cuộc vận động ngôn ngữ trước nay thường chỉ thu lại trong một số bộ phận nào đó
(chủ yếu là những bàn cãi giưã các nhà nghiên cứu chuyên môn) mà chưa thật sự là
công trình chung cuả toàn xã hội.
6 Chuẩn
mực phát âm và chính tả nào dùng để định chuẩn cho việc học nói, học đọc trong
nhà trường ?
Trước nay có nhiều quan điểm khác
nhau về việc chọn chuẩn phát âm. Một quan điểm cho phương ngữ Hà Nội là chuẩn mực,
và dùng nó làm hệ quy chiếu mọi khác biệt thành "phi chuẩn",
"phi ngôn ngữ văn học" (Đoàn 1977). Quan điểm khác lại cho rằng phương
ngữ Vinh (Nghệ Tĩnh) bao gồm nhiều điểm trội về ngữ âm, xứng đáng làm ngôn ngữ
chuẩn (Hoàng 1960).
Các quan điểm vưà kể chính là một
quan điểm định chuẩn đã áp dụng tại nhiều quốc gia, dưạ trên những lợi điểm rõ
rệt cuả những phương ngữ dùng làm chuẩn mực. Tiếng Việt hiện đại không có phương
ngữ nào có được ưu thế tuyệt đối. Quan điểm phải chăng nhất là tránh tinh thần
bản vị điạ phương, để tìm một phương ngữ nào ít những sai biệt nhất làm chuẩn mực,
sau khi đã bổ sung những thiếu sót cuả nó.
Dưạ trên tiêu chí kể trên, có thể thấy
là chọn phương ngữ bắc làm chuẩn mực phát âm sẽ là biện pháp tiết kiệm công sức
nhất, vì phương ngữ bắc có đủ sáu thanh, là một chuẩn đúng nghiã nhất. Tuy nhiên,
muốn trở thành một chuẩn mực ngữ âm, phương ngữ bắc có một số điểm cần bổ sung
từ những phương ngữ đàng trong.
Một số những việc phải bổ sung cho
phương ngữ bắc là:
1. phát âm các phụ âm đầu s, tr,
r căn cứ trên lối phát âm phương ngữ
trung;
2. phát âm và phân biệt các phụ âm đầu l , n
;
3. phát âm d , gi theo những chuẩn phát âm trong "truyền thống"
như đã lưu lại trong chính tả; bằng không thì phải chọn giải pháp là chấp nhận
rằng ngôn ngữ đã thay đổi, và toàn xã hội phải thích nghi với sự thay đổi đã diễn
ra và đã hoàn tất. Nói thế là vì phương ngữ trung và nam đều đã chuyển hai âm này
thành âm lỏng / j / mà có tác giả gọi đó là bán âm đầu;
4. khôi
phục hai âm kép ươu, ưu .
Một bảng đề mục chỉnh đốn như thế không
phải là quá khó khăn trong việc giải quyết chuẩn mực phát âm cho tiếng Việt.
Chuẩn hoá chính tả
7 Tiếng
Việt hiện đại được viết ra bằng chữ "quốc ngữ", là loại chữ ghi âm.
Phải nhận là trong số những chữ viết ghi âm đề xướng và áp dụng xấp xỉ cùng thời,
cho các nước Á Đông, "chữ quốc ngữ" thành công nhất nên tồn tại đến
nay. Nói chung, chính tả chữ quốc ngữ
theo nguyên tắc kí âm, nghĩa là phát âm làm sao thì viết ra như thế, và
mỗi âm được biểu thị bằng một kí hiệu (chữ cái). Lí thuyết thì như thế; nhưng
trên thực tế thì chính tả tiếng Việt hiện nay vẫn có những điểm không sát hợp với phát âm.
Nguyên nhân cuả những hiện tượng sai
chệch giưã phát âm và chính tả có thể quy về hai loại:
(1) Thay
đổi ngữ âm qua thời gian mà nay chữ viết chưa theo kịp. Thuộc loại này có
hai đồ vị kh, ph nguyên là âm bật hơi,
nay hầu như đã biến mất cách phát âm bật hơi (tức là yếu tố được ghi bằng chữ cái
h ), thế nhưng chữ viết ngày nay vẫn
để nguyên đồ vị kh, ph.
Một trường hợp khác là các đồ vị d , gi gần như biến mất khỏi ngữ âm ba
miền, mà đã chuyển thành z (ở phương
ngữ bắc)và j (ở trung và nam). Tuy vậy,
chữ viết vẫn ghi là d và gi.
(2) Đồ
vị [1] không ghi đúng theo cách phát âm "chuẩn"
(hiểu theo nghiã là những chuẩn mực chung cho cả ba phương ngữ). Thuộc loại này
có khá nhiều:
·
ba đồ vị c,
k, q dùng để ghi một âm / kờ /,
·
hai đồ vị g
, gh để ghi một âm / gờ /,
·
hai đồ vị ng
, ngh để ghi âm / ngờ /,
·
đồ vị gi khi thì viết có i khi thì không,
·
thể ngắn cuả a
vưà ghi với a vưà ghi với ă : căn, may, mặt dày
·
thể chúm cuả nguyên âm kép trượt về hàng giưã thấp
khi thì viết oa khi thì ua : hoa quả, khoái quá,
·
âm chúm môi hàng sau viết là uô / ua, nhưng cũng có thể viết uơ: muôn thuả = muôn thuở,
·
trầm trọng nhất là hiện tượng viết tuỳ tiện i và y trong chính tả. [2]
·
đặt vị trí đồ vị thanh không thống nhất, và không hợp
nguyên tắc ghi âm là dấu thanh bỏ trên nguyên âm mạnh [3].
8 Trong
vấn đề chính tả, có những việc thuộc về thói quen cuả xã hội. Ngôn ngữ cũng cần
có những bất quy tắc để tăng thêm hứng thú học và vận dụng tư duy để nhận thức
những quy tắc nghịch thường. Tuy nhiên, trong chừng mựïc mà giáo dục có thể giúp
chúng ta có ý thức viết đúng chính tả, thì có hai việc nhà trường có thể đóng góp
phần mình vào việc định chuẩn cho chính tả. Đó là giúp học sinh học phát âm chuẩn
từ lúc mới học đọc, và giúp học sinh khắc phục từ sớm những lối viết chính tả
tuỳ tiện.
(1) Như
đã trình bày ở phần trên, phương ngữ đã tạo ra những sai chệch về phát âm và có
ảnh hưởng đến chính tả. Người nam viết *tuyệc dịu (tuyệt diệu) hoặc là *kiêm lang (kim lan) là vì ảnh hưởng cuả
lối phát âm điạ phương mà ra. Một học sinh thuộc phương ngữ bắc viết * chường cuả cháu xẽ nàm rản rị sôi (“trường
cuả cháu sẽ làm giản dị thôi”) cũng là do viết theo thói quen phát âm điạ phương.
Hiện tượng này phổ biến khắp nơi chứ chẳng riêng gì tiếng Việt. Chỉ có giáo dục
và báo chí thông tấn mới có thể góp phần giúp mọi người rèn luyện và thiết lập
chuẩn mực ngôn ngữ viết cho mình. Rèn luyện, và rèn luyện phát âm đúng, và được
tiếp xúc với ngôn ngữ chuẩn thường xuyên đều đặn. Đó là điều kiện tối ưu để giữ
chuẩn mực ngôn ngữ (viết) cho học sinh, mà chỉ có nhà trường mới làm được.
(2) Có những sai chệch là do sự tuỳ tiện cuả
những người sử dụng ngôn ngữ mà ra. Xã hội nói chung, và nhà trường nói riêng,
phải có trách nhiệm sưả lại những cái sai do thói quen dễ dãi gây nên. Ở đây cần
có sự can thiệp cuả giới chức có trách nhiệm để có được chính sách ngôn ngữ đúng
đắn cho toàn thể xã hội. Nhà trường chỉ có thể đóng vai trò cảnh sát cho ý thức
ngôn ngữ văn hoá, để giúp giữ gìn và nuôi dưỡng ngôn ngữ tiêu chuẩn cuả một cộng đồng ngôn ngữ. Dưới đây
là một thí dụ điển hình cuả hiện tượng tuỳ tiện về chính tả, và nhà trường có
thể giúp nuôi dưỡng ý thức chuẩn xác cho học sinh:
9 Bây
giờ mà bàn chuyện ấn định chuẩn mực cho phát âm và chính tả tiếng Việt thì không
tránh khỏi sự dè bỉu cuả một số người. Tuy vậy, những người có trách nhiệm giúp
đỡ thế hệ trẻ Việt Nam
không thể lảng tránh vấn đề. Sớm muộn gì thì chúng ta cũng sẽ đối diện với nó.
Những gợi ý hôm nay có thể xem như là góp phần vào việc gọi mời sự quan tâm cuả
các giới đối với việc giữ cho tiếng Việt được đúng quy củ cần có cuả một ngôn
ngữ văn hoá.
1 Những cứ liệu thực nghiệm cuả Hoàng Cao Cương cho thấy đường nét âm
điệu cuả thanh hỏi ở phương ngữ bắc chỉ còn nét đi xuống. Đây là một vấn đề cần
nghiên cứu thêm.( Xem Hoàng 1986).
2 Các nhà đông phương học như Cadière, Maspéro và Haudricourt chú ý
nghiên cứu phương ngữ miền này (vẫn
thường gọi là phương ngữ trung-trên), vì nó chưá nhiều yếu tố tiếng Việt cổ
nhất so với các phương ngữ khác.
[1] Đồ vị là hình thức ghi lại các âm bằng
chữ viết, có thể bằng một hay nhiều chữ cái. Theo quan điểm chúng tôi thì trong
tiếng Việt, các đơn vị đồ vị luôn luôn tương ứng một đối một với các âm. Chẳng
hạn, âm / o / viết bằng chữ “o”, âm /iê/
viết bằng chữ “iê”, âm /th/ viết bằng chữ “th”…
[2] Chúng tôi đã hai lần bàn về đề tài này
trong hai bài viết về “chữ i và y trong chính tả tiếng Việt”. Xem Định Hướng số 15 (mùa xuân 1998), tr
96-112, và Định Hướng số 32 (mùa thu
2002), tr. ?
[3] Chúng tôi có bàn về vấn đề này trong bài
“bàn về chuyện đánh dấu thanh tiếng Việt” trong Định Hướng số 17 (muà thu 1998), tr. 109-121.