Hoà Giang Đỗ Hữu Nghiêm
Ngô Đình Nhu (1910-1963): Một Nhà
Chiến Lược
Phần 2
Nhưng
Kế Hoạch Do Chế Độ Xây Dựng Có Những Khuyết Điểm Sau:
1.
Quyền lợi, nhận thức cá nhân và đoàn thể khác nhau về tôn giáo và chính trị xã
hội muốn xây dựng dân chủ tự do vội vã đốt giai đoạn, đã cản trợ hoạt động phát
triển dân chủ thống nhất của nhà nước, trong tình thế phải đối phó với các hình
thức xân nhập và hoạt động của Cộng Sản.
2.
Hoạt động tuyên truyền, đồng khởi, phá hoại của Cộng sản đánh phá nhiều mắt
xích trong hệ thống hành chính địa phương và trong hệ thống Ấp Chiến Lược ở các
vùng sâu vùng xa, và các điạ điểm chiến lược, khi tổ chức chiêu hồi và ấp chiến
lược tỏ ra nhiều thiệt hại bất lợi cho Cộng Sản.
3. Hệ
thống quản lý đất nước bị lạm dụng, nên có xu hướng thiên về gia đình trị, công
giáo trị gây hoài nghi cho nhiều thành phần nhất là Phật Giáo, trong việc kết
nạp vào Đảng Cần Lao Nhân Vị và nhiều hoạt động khác như tố chức an ninh (mật
vụ, tình báo, cảnh sát, thanh niên, quân đội).
4. Sự
can thiệp xen lấn lộ liễu mạnh bạo của Mỹ từ yểm trợ nhẹ nhà đến hoạt động hành
quân của cả một lực lượng lớn trên lãnh thổ một đất nước độc lập có chủ quyền
với nhiều phương tiện doanh trại, tổ chứng nhân vật lực phức tạp.
Điều
này tạo cơ hội cho tuyên truyền Cộng Sản về nhiều mặt. Khi các cảnh chiến tranh
tàn bạo được chiếu trực tiếp trên truyền hình các gia đình Mỹ hằng ngày đêm đã
dần dần tạo nên phong trào phản chiến, đòi chính quyền Mỹ phải rút về mau lẹ,
tạo một khoảng trống cho quân đội còn dòn mỏng của VNCH, chưa kịp tổ chức xây
dựng, bổ sung về quân số và huấn luyện và thiếu vũ khí tối tân, so với lực
lượng võ khí và mưu lược dối trá của Cộng Sản,
5.
Phong trào Đồng khởi từ Bến Tre và Biến Cố Tổng Công Kích Tết Mậu Thân
trên lãnh thổ VNCH II là một hoạt động liều lĩnh của Cộng Sản khi hệ thống Ấp
Chiến Lược đã chứng tỏ có hiệu quả đã đẩy CSVN đến chỗ phải hành động để sống
còn. Sự tàn bạo và dối trá của Cộng Sản trước Việt Nam toa rập với ý chí chủ bại và
phản bội của Mỹ đã đưa đến thằng lợi trước mắt của CSVN ngày 30/4/1975. Việc
hủy bỏ hệ thống Ấp Chiến Lược sau khi lật đổ chế độ VNCH I là một hành động phá
hoại chiến lược, chuẩn bị xa nhưng mau hơn cho sự chiến bại của miền Nam
Gia
Đình Bên Ông Ngô Đình Nhu
Gia
đình họ Ngô Đình, nguyên quán ở đất Quảng Bình, ông cố tổ là dân bần hàn sống
nghề chài lưới. Khi đạo Công giáo truyền đến vùng này từ thế kỷ 17, thì tổ tiên
của dòng họ Ngô Đình đã tin đạo. Đời ông Ngô Đình Khả đức tin đó vẫn được củng
cố và phát triển. Là một thanh niên chăm chỉ đạo dức mà lại thông minh, cậu
được theo học cả chữ hán lẫn chữ Pháp. Cậu được gửi du học ở trường chủng viện
Thánh Giuse ở Penang (Mã Lai), cùng với Nguyễn Hữu Bài, với ý định được huấn
luyện để trở thành Linh Mục. Nhưng vì không được ơn gọi làm Linh Mục, cả hai
cậu Khả và Bài đều trở về Việt Nam và sau này trở thành thông gia, vì có một
quá trình dài học tập và hiểu biết lẫn nhau.
Về
nước, vì giỏi về ngoại ngữ, ông Khả và ông Bài đều được tuyển làm thông dịch
viên. Làm việc xuất sắc có nhiều kết quả, Khả được trọng dụng và thăng chức rất
nhanh. Khi vua Thành Thái mất chức, thì Khả cũng mất chức Phụ Đạo Nam Triều.
Gia đình Ngô Đình Khả cư ngụ tại Phú Cam, nơi có một xứ đạo kiên trung của đất
Huế.
Ông
Ngô Đình Khả có tất cả:
Con
cả là Ngô Đình Khôi (1885?-1945) lập gia đình với người con gái của Nguyễn Hữu
Bài.
Con
thứ hai là Ngô Đình Thục (1897-1985) từng du học tại Rôma năm. Từ 1919-1927 du
học Roma: Tiến sĩ Triết học (1922), Tiến sĩ Thần học (1926), Tiến sĩ Giáo luật
(1927). Qua Pháp học Đại Học Công Giáo Paris: Cử nhân Triết học (1929). Khi về
nước giữ nhiều chức vụ trước khi làm Giám Mục Vĩnh Long, rồi Tổng Giám Mục Huế.
Con
thứ ba là Ngô Đình Diệm (1901-1963), từng làm Tuần Vũ Bình Thuận, rồi Thượng
Thư Bộ Lại triều Bảo Đại (1932).
Năm
1918 thi vào trường Hậu Bổ, sau 03 năm tốt nghiệp, lần lượt giữ các chức vụ từ
Tri huyện Hương Thủy (1922), Tri huyện Quảng Điền (1923), Tri phủ Hải lăng
(1925), Quản đạo Ninh Thuận (1927), Tuần vũ Bình Thuận (1930), Thượng Thư Bộ
Lại (1933) được hơn 02 tháng thì từ chức…Năm 1945 bị Việt Minh bắt sau nhờ Đức
Giám Mục Lê Hữu Từ can thiệp, được trả tự do. Năm 1950 qua Roma rồi qua Hoa Kỳ.
Ngày 07-07-1954 về nước chấp chánh giữ chức Thủ Tướng toàn quyền do Quốc Trưởng
Bảo Đại chỉ định.
Sau
cuộc “trưng cầu dân ý” tháng 10-1955, dược dân bầu lên làm Quốc Trưởng rồi Tổng
Thống tại Miền Nam VN đối lập với chế độ Cộng Sản tại Hà Nội do Hồ Chí Minh
lãnh đạo. Ông có công ổn định tình hình, thống nhất quân đội, phát triển kinh
tế, mở mang giáo dục, xây dựng dân chủ, v.v…Rất tiếc, ngày 01 tháng 11 năm 1963
ông bị phe quân nhân (theo lệnh Mỹ) làm đảo chính lật đổ và bị thảm sát ngày 02
tháng 11 năm 1963. Biến cố 01-11- 1963 đã dẫn đến sự sụp đổ của Việt Nam
Cộng Hòa ngày 30-04-1975, đưa đất nước vào tay Cộng Sản độc tài!
Con
trai thứ tư là Ngô Đình Nhu (1910- 1963).
Con
trai thứ năm là Ngô Đình Cẩn (1912- 1964)
Con
trai út là Ngô Đình Luyện (1914- 1990), tốt nghiệp kỹ sư công chánh ở Pháp và
Anh. Nhiều nhà nghiên cứu lầm lẫn Ngô Đình Cẩn là con trai út
Ông
Bà Ngô Đình Khả còn có ba con gái là:
Ngô
Thị Giáo, chết sớm năm 1944,
Ngô
thị Hoàng, thường gọi là bà Cả Lễ, vì lập gia đình với ông Nguyễn Văn Lễ,
Ngô
Thị Hiệp, lập gia đình với ông Nguyễn Văn Ấm, thân phụ của Hy TGM FX Nguyễn Văn
Thuận. TGM NVT làm Bộ Trưởng Bộ Công Lý và Hòa Bình tại TT Vatican
trước khi tạ thế ngày 16/9/2002, tại Rôma.
Hai
gia đình Trần Ngô cũng là thông gia môn đăng hộ đối theo Nho giáo cổ truyền.
Gia
Đình họ Trần bên Bà Ngô Đình Nhu (Trần Lệ Xuân)
1. Bà
Ngô đình Nhu, nhũ danh Trần Lệ Xuân, sinh tại Hà Nội này 24/8/1924, con gái thứ
hai của Ông Trần Văn Chương (Luật Sư) và Bà Thân Thị Nam Trân. Ông Bà Trần Văn
Chương có ba người con. Con đầu là Trần Thị Lệ Chi. Con thứ ba là Trần Văn
Khiêm.
Lệ
Chi lập gia đình với ông Nguyễn Hữu Châu (Luật Sư, Tiến Sĩ Luật ở Pháp). Ông
này gốc người Gò Công có họ hàng với ông Nguyễn Hữu Hào, thân sinh ra bà Nguyễn
Hữu Thị Lan, tức hoàng hậu Nam Phương, kết duyên với vua Bảo Đại. Khi Thủ Tướng
Ngô Đình Diệm trở thành Tổng Thống năm 1956, thì Ông Nguyễn Hữu Châu được bổ
nhiệm Bộ Trưởng tại Phủ Tổng Thống. Chỉ mấy tháng sau, chính ông Châu xin từ
nhiệm.
Gia
đình ông Trần Văn Chương vốn theo Đạo Phật, nhưng từ nhỏ Cô Trần Lệ Xuân đã
được gửi học nội trú ở Trường Dòng Nữ Thánh ÂuCơTinh, quen gọi là Couvent des
Oiseaux. Một thời gian cô nữ sinh Trần Lệ Xuân có theo học Trường Albert
Sarraut ở Hà Nội trong thời gian ông Trần Văn Chương hành nghề Luật Sư ở Hà
Nội. Chính mấy năm cuối cùng ở trường này, Trần Lệ Xuân đã phát triển các quan
hệ thân tình cụ thể hơn với Ông Ngô Đình Nhu. Sau chính biến 1/11/1963, vô số
lời đàm tiếu đổ dồn vào bà Ngô Đình Nhu.
2.
Sau này, tại California, Ông Nguyễn Văn Lục lại nghe từ những người trước nay
từng có cơ hội gần gũi ông bà Nhu, ông Diệm, Ông Cẩn, ông Thục.
Tác
giả đã nói chuyện với sĩ quan tuỳ viên Lê Châu Lộc, sau này là nghị sĩ Lê Châu
Lộc. Ông Lộc với bản chất trung thực cho biết, ông biết gì nói nấy, có nói có,
không nói không.
Ông
cho biết 6 năm làm sĩ quan tuỳ viên cho “ông cụ”, kề cận ông cụ ngày đêm. Trong
6 năm đó chỉ gặp bà Nhu trên dưới 10 lần, vì hai ông bà ở khu bên kia dinh Tổng
Thống, ít có tiếp xúc qua lại. Ông không mấy thích bà Nhu vì giọng nói của bà
Nhu lai Bắc, lai Trung và tính nết tỏ ra cao ngạo. Nhưng đối với tổng thống
Diệm thì bà sợ và cử chỉ e dè, khép nép. Không có cái cảnh muốn ra vào văn
phòng ông Diệm lúc nào thì vào. Bà là người có phong cách, lịch sự và đàng
hoàng.
Ông
Lê Châu Lộc đưa ra hai giai thoại liên quan đến bà Nhu.
Một
lần xe của bà Nhu vào Dinh trong khi sắp có xe của một vị tướng Mỹ sắp đến. Ông
Lộc đã yêu cầu xe của bà Nhu nhường lối. Bà Nhu vui vẻ nhận lời trong khi người
tài xế của bà tỏ vẻ khó chịu. Sau đó bà đã vui vẻ chào.
Một
lần nữa, ông Lộc vội vã không kịp chào bà Nhu. Vậy mà việc cũng đến tai “ông
cụ”. “Ông cụ” cho biết: Lộc nó là sĩ quan, thì chỉ chào sĩ quan có cấp cao hơn,
hà cớ gì lại phải chào bà Nhu.
Những
chi tiết nhỏ đó cũng cho thấy có nhiều điều xàm tấu, bôi bẩn mà công việc của
chúng ta là cần “làm vệ sinh” tẩy rửa những dư luận xấu xa đó.
Chứng
nhân thứ hai là nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh.
Nhiếp
ảnh gia Trần Cao Lĩnh là người được chọn chính thức chụp ảnh cho gia đình ông
Ngô Đình Diệm trong các buổi lễ chính thức. Vì thế, ông đã nhiều lần ra Huế để
chụp ảnh cho gia đình ông Diệm.
Ông
đã kể lại một cách sinh động duyên dáng về những nhân vật thời đệ nhất cộng
hoà. Nhiều nhà văn, nhà báo đã tham dự và được nghe ông kể về những điều này
tại toà soạn báo Nhân Chứng, khoảng năm 1980. Đó là Mai Thảo, Phạm Đình Chương,
Du Tử Lê, Vũ Văn Hà, Thuỵ Châu, v.v…
Theo
lời kể của Trần Cao Lĩnh, ông đã hết lời đối với gia đình ông Diệm và đặc biệt
là đối với bà Nhu. Bà Nhu là loại người phụ nữ chẳng những có ăn học, có giáo
dục. Cử chỉ phong cách quý phái, chừng mực lễ độ trong cư xử. Bà không phải
loại người bờm xơm, chớt nhả, dâm đãng, mất nết như những lời bịa đặt của dư
luận ác ý.
Tại
Huế, chỉ các đàn ông như các ông Diệm, ông Nhu, GM Thục mới được phép ở nhà
trên dùng cơm. Bà Nhu chẳng những sợ và khép nép với ông Diệm mà còn cả với
Giám mục Ngô Đình Thục. Theo nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh, Bà Nhu không dám tự
tiện vào phòng ông Diệm.
Ông
Nguyễn Văn Lục muốn viết về vợ chồng ông Nhu, vì ông bà là bị nhiều người hiểu
lầm và bực ghét, nhất là bà Ngô Đình Nhu. Nhiều người không ưa bà, khinh ghét
bà nữa. Nhiều người bênh ông Diệm, thương mến ông, nhưng vẫn dè dặt khi nói về
ông Nhu, bà Nhu. Nhiều người biết rõ và khó quên câu nói phạm thượng và xấc
xược của bà khi Hoà thượng Quảng Đức tự thiêu.
Theo
ông, khi người ta đã trót quý mến ai rồi, thì khó mà nghĩ khác được. Trước đây,
có người đã trót quý mến và kính trọng Nam Phương Hoàng Hậu và nay thì đến lượt
ông bà Nhu cũng vậy thôi…
Khoảng
cách tuổi khá lớn giữa hai ông bà cũng là nguyên nhân gây nên những lời đồn
thổi sau này kể từ sau 1963.
Thực
ra ít người có cơ hội tiếp xúc với bà Nhu, hiểu biết và kính trọng nhân cách bà
Nhu như ông Trần Cao Lĩnh.
Những
người ngưỡng mộ và quý mến bà chẳng bao nhiêu. Sau khi nghe ông Trần Cao Lĩnh
kể về bà, có người đề nghị ông nên viết lại về bà Nhu. Vì không ai có đủ tư
cách hơn ông để viết. Nhưng rồi ông cũng đã không làm cho đến khi ông lìa đời.
Cũng hiểu được, bênh vực một người “mất nết” như bà Nhu nó khó lắm.
Không
mấy ai biết bà, nhưng ghét bà, khinh miệt bà thì quá nhiều. Đàn ông ghét đã
đành, đàn bà cũng ghét theo. Đến nỗi người ta cố moi ra sự việc từ những năm 1955
khi chưa có Quốc Hội, chưa có Hội Phụ nữ Liên đới hay phụ nữ Bán Quân sự. Vì
thế dưới mắt của quần chúng nói chung, thí bà Nhu là một người phụ nữ “mất
nết”, ăn mặc hở hang, lố lăng với chiếc áo dài kiểu mới. Phụ nữ chê bai tư cách
của bà trong chiếc áo dài kiểu mới, nhưng hầu như giới nữ sinh hay các mệnh phụ
phu nhân đều ăn mặc theo kiểu áo dài đó.
Đến
độ vào năm 1955, ông Diệm chép miệng than thở: Tội nghiệp, Bà Nhu có làm gì
đâu? Dù sau cũng chết, chỉ vì bà là một người đàn bà. Bà lại nay nói quá mạnh,
cứng rắn trong quan điểm, lập trường, không nhường nhịn ai, lại có vè “đành
hanh” khiến giới mày râu không chịu được.
Có lẽ
người ta phải cầu cứu đến những lời bàn của cụ Đoàn Thêm khi nhận xét về bà
Nhu.
Cụ
Đoàn Thêm cho rằng, dù không làm hay chưa làm việc gì có hại, người đàn bà
không thể thừa thế nhà chồng mà xen vào việc chính quyền. Việc bà tham gia vào
chính trường, dưới mắt số đông, trái ngược hẳn với hình ảnh cố hữu của phụ nữ Á
Đông khiêm nhượng, ý nhị, hiền hậu, của người mẹ và người vợ Việt Nam.
Vẫn
theo cụ Đoàn Thêm, nguyên do sâu xa nhất và đích thật nhất, gây thêm nhiều ác
cảm với bà là do bà đã xinh đẹp, mà lại muốn tỏ ra cứng cỏi và đánh hanh nữa
thì quá lắm, không chịu nổi. Người ta có thể nhẫn nhịn chờ đợi ông Nhu, nhưng
đối với bà, bà chỉ xuất đầu lộ diện, thì cũng không được tán thành hay dung
thứ.
Nên
dù trái hay phải, người đàn bà VN muốn vội sống theo gương người đàn bà tiền
phong (avantgarde) Âu Mỹ, kiểu chủ nghĩa nữ quyền, là chưa thể yên thân trên
một đất nước mà nhiều người còn ghê sợ những người phụ nữ nhu Võ Hậu hay Từ Hy.
Tâm
lý quần chúng như vậy nên nhiều con mắt dễ chú ý đến những sơ hở và lỗi lầm để
buộc lỗi gay go. Mỗi lời nói và việc làm của bà đều có nguy cơ trở thành những
cơ hội cho dư luận chỉ trích nghiêm ngặt.
Bi kịch
của chế độ khởi đầu từ đó. Người ghét cứ ghét, mỗi ngày mỗi đông thêm, như đòn
hội chợ do thể chế tam đầu, lại có thêm một người phụ nữ là bà Ngô Đình Nhu.
Khu
biệt thự Trần Lệ Xuân (2 Yết Kiêu, Đà Lạt) lộng lẫy rộng trên 13 ngàn mét vuông
vừa được nâng cấp trở thành Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia IV. Nơi lưu giữ hơn 30
ngàn mộc bản triều Nguyễn. ( Nguồn: Kho tàng mộc bản trong biệt thự Trần Lệ
Xuân/my.opera.com)
Ngay
như hơn hai chục nam nữ sinh viên đã tham dự trong phái đoàn Huế đi tham quan
dinh Gia Long sau khi hai ông Diệm Nhu bị thảm sát. Họ im lặng đồng lõa với
Nguyễn Đắc Xuân. Họ chấp nhận gián tiếp những gì Nguyễn Đắc Xuân dựng lên bôi
nhọ bà Nhu. Chỉ yêu cầu một cô nữ sinh viên trong số họ cho biết những điều
Nguyễn Đắc Xuân viết là đúng hay sai.Dĩ nhiên là không dám nói sai, ma nói đúng
thì đồng lõa bôi nhọ. Thực ra họ không biết để ma nhớ, mà nói đúng hay
sai.
Người
ta phải nghĩ thế nào về những sinh viên đã im lặng, không dám lên tiếng về
những lời vu cáo của Nguyễn Đắc Xuân?
Người
ta có thể tạm quên đi những điều thị phi, những lời khen chê, những lời bôi nhọ
dơ bẩn về bà ấy để chỉ nhìn lại kể từ tháng 11/1963 đến nay bà Nhu đã làm gì,
nói gì, viết gì, thanh minh cho việc mình làm và đã sống như thế nào?
Kể từ
sau tháng 11/1963, bà rút lui vào bóng tối. Không nói, không thanh minh, Cắt
đứt mọi giao tiếp với mọi người trước nay từng là những người cộng tác với hai
ông Diệm và Nhu. Một vài người đã có dịp gặp bà như các ông Cao Xuân Vỹ, Lê
Châu Lộc, Trương Phú Thứ đều nhận thấy bà sống ẩn dật, im lặng với quá khứ, lo
việc từ thiện. Chắc là tâm trạng và nỗi niềm của bà gần 50 năm này đã diễn ra
thật phức tạp, đa đoan, nhưng chỉ tập trung vào gia đình và niềm tin phú thác?
Và
trong thời gian đó, bà đã sống đúng nhân cách một người phụ nữ? Những năm tháng
ấy đã tẩy rửa những điều hàm oan về tiền bạc, con người của bà?
Thực
ra bà đã chết cùng với hai anh ông Diệm Nhu, chôn vùi quá khứ, cuộc sống đã
sang một trang mới: im lặng Điều ấy mang nhiều ý nghĩa: vửa cay đằng, tủi hận
vừa sám hối trong tâm tình của một tín đồ.
Những
ai từng kết án bà, thì khó thấy bà là loại người tham tiền cố vị, vô tư cách
hay thậm chí trăng hoa, mất nết… Người ta phải thấy một bà Nhu sống buông thả,
quen biết lung tung, tai tiếng đủ loại sau 01/11/1963.
Nhưng
những kẻ thù oán, chuyên đặt điều nói xấu bà cũng không có được chứng cớ nhỏ
nhoi nào, bôi nhọ bà.
Bà
sống ẩn dật một thời ở Ý rồi sang Pháp, mua hai căn hộ nhỏ, một để ở và một để
cho thuê lấy tiền tiêu xài, ngày ngày đi lễ nhà thờ, lchuyên chú làm việc từ
thiện, lấy kinh nguyện làm lẽ sống.
Một
con người như thế, chịu đựng biết bao điều sỉ nhục, tệ bạc, phản trắc, hờn ghét
của thế thái nhân tình, khi không còn thời để lợi dụng.
Không
phải là dễ mà ai cũng bộ lộ nhân cách ấy, chọn lựa lối sống ấy. Mấy ai đã làm
được như bà trong những tháng ngày sau 1963, nếu bắt buộc phải sống như vậy?
Người
ta nghĩ bà đang viết nhật ký, nhưng có lẽ chỉ là những tâm sự về đạo nghĩa
Những điều Trương Phú Thứ đã viết thật là hiếm hoi và phản ảnh cuộc đời im lặng
hơn là bận rộn chuyện phù hoa thế sự. Theo ông Lê Châu Lộc bà viết nhiều lắm,
nhưng không ai biết gì.
Trong
cuộc đời này, suốt những năm làm vợ ông Nhu và nhất là từ khi ông bị ám sát, có
thể cùng với lời cố vấn khuyên giải nào đo, bà đã chủ động chỉ lo cho gia đình
êm ấm và dồn vào sống ẩn dật trong niềm tin Công giáo.
Ông
đã chết từ 02/11/1963 và từ ngày ấy ba cũng chết như một góa phụ. Theo kiểu nói
của ông Lục, bà chết đến hai lần: chết cho ông Nhu và nền đệ nhất cộng hoà và
chết cho chính mình, cho cuộc sống hiện nay.
Nói
đến hai người phụ nữ danh tiếng tài sắc trong lịch sử Việt Nam cận đại là Nam
Phương Hoàng hậu và bà Ngô Đình Nhu, người đời không khỏi cám cảnh ngậm ngùi,
thương cho hai kiếp người “hồng nhan bạc phận”
Trong
niềm giận ghét, ác cảm không tránh được của nhiều người, vẫn có nhiều người
trân trọng quý mến ông Diệm, tiếc cho ông Nhu và cám cảnh thương mến bà quả phụ
Ngô Đình Nhu. (Tham khảo Website T.S.C.N. Nguyễn Văn Lục đã dẫn trên)
Ảnh
được Bettmann chụp ngày 21/10/1963 tại Washington DC – Mỹ, khi bà Trần Lệ Xuân
sang Mỹ và có họp báo với báo giới, truyền hình.
3.
Tiếp theo liên hệ đến Trần Lệ Xuân, ông cụ nội tam đại, tính từ bản thân, là cụ
Trần Văn Thông, cựu Tổng Đốc tỉnh Nam Định, tuy nguyên quán ở Biên Hòa, đất Gia
Định.
Cậu
Thông sinh 1875.Cậu Thông thuở nhỏ theo học Trường Chasseloup Laubat, một
trường trung học Pháp đầu tiên do người Pháp thiết lập ở Sàigòn. Chính Hoàng
Thân Sihanouk của Nam Vang cũng theo học trường này.
Là
Bachelier (Tốt nghiệp Trung Học Tú Tài Pháp) Ban Văn Chương cổ điển 1894. Năm
1907-1911, anh làm công chức trong chính quyền Pháp tại Đông Dương, sau ra Hà
Nội ông làm Giám Đốc Trường Hành Chính tập sự (Ecoles de Stagiaires) tại Hà
Nội. Chỉ ít lâu sau, ông Trần Văn Thông làm Tổng Đốc tỉnh Nam Định (Nam
Định, Hà Nam,
Ninh Bình) cho đến 1945. ông Trần Văn Thông còn làm hội viên Hội Đồng Tư Vấn
Đông Dương, Hội Đồng Bảo Hộ Bắc Kỳ, được thăng chức Đông Các Đại Học Sĩ Nam
Triều.
Ông
Bà Trần Văn Thông sinh Trần Văn Chương năm Mậu Tuất (1898). Cậu Chương từ nhỏ
theo học bậc tiểu học tại Hà Nội, rồi gia đình cho đi du học 10 năm ở Algérie.
Sinh viên Chương được học bổng theo học Trường Luật ở Paris, đậu Tiến Sĩ Luật năm 1922. Năm 1925,
Ông Trần Văn Chương trở về Việt Nam,
làm việc với tính cách trạng sự tại Tòa Thượng Thẩm Sàigòn đến 1935.
Năm
1938, Luật Sư Trần Văn Chương tham gia Hội Đồng Lý Tài Đông Dương, soạn thảo
các Luật dân sự Trung Kỳ lên tới Phó Chủ Tịch Hội Đồng Lý Tài Đông Dương.
Trong
thời gian tùng sự tại Huế, Luật Sư Trần Văn Chương lập gia đình với cô Thân Thị
Nam Trân, con gái của Đông Các Đại Học Sĩ Thân Trọng Huề.
Làm
quan dưới triều vua Khải Định, người vợ kế của Thân Trọng Huề là Công Chúa, con
gái của Kiến Thái Vương. Như thế Mẹ của bà Nam Trân là em gái vua Hàm Nghi và
Đồng Khánh. Trần Văn Chương trở thành cháu rể vua Hàm Nghi. Hai họ Trần Thông
đều môn đăng hộ đối theo nếp nho giáo cổ truyền.
Năm
1940, Luật Sư Trần Văn Chương mở Văn phòng Luật sư tại 71, đại lộ Gambetta Hà Nội.
Khi mới về nước, trạng sư (thầy cãi) Trần Văn Chương mở Văn Phòng ở Bạc Liêu,
rồi chuyển lên Sàigòn trước khi ra Hà Nội. LS TVChương nổi tiếng nhất về vụ
kiện cô Cúc giết Huyện Trương, vì bạc tình. Nhờ LS Chương, cô Cúc chỉ bị án ba
năm rồi được trả tự do.
Thời
CP Trần Trọng Kim sau ngày Nhật đảo chính Pháp ngày 9/3/1945, LS Chương làm Bộ
Trưởng Ngoại Giao, Kiêm Phó Tổng Trưởng Nội Các. Khi CP TTK tan ra, thì ông
TVChương sống ẩn dật tại Hà Nội, rồi đem gia đình vào Sài gòn. Sau Hiệp Định
Genève 20/7/1954, miền Nam Việt Nam do Bảo Đại nắm quyền, Ông Ngô Đình Diệm làm
Thủ Tướng, thì LS TVC được bổ nhiệm chức Quốc Vụ Khanh Phủ Thủ Tướng. Năm 1956,
khi ông Ngô Đình Diệm lật đổ Bảo Đại, rồi lên thay Bảo Đại làm Tổng Thống VNCH,
thì LS TVC được bổ nhiệm Đại Sứ VNCH tại Hoa Kỳ cho đến khi chế độ Ngô Đình
Diệm sụp đổ năm 1963. Trong khi TVC làm đại sứ, thì Bà Thân Thị Nam Trân làm
quan sát viên VNCH tại LHQ.
Nhiều
người nghĩ rằng ảnh hưởng gia đình trị khá mạnh, cộng với những biện pháp mạnh
bạo – vì chưa hiểu và chưa muôn hy sinh trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa Công
Sản – đối với những người bất đồng chính kiến dẫn đến việc ông bị xem là có
phần nào trách nhiệm trong sự sụp đổ của nền Đệ nhất cộng hòa. Nhưng việc chính
quyền Mỹ nhu nhược dựa trên phản ứng của dân chúng Mỹ cùng với hoạt động tình
báo của Cộng Sản Việt Nam và quốc tế yểm trợ kích động thêm Đặc biệt là những
biện pháp được thực hiện trong vụ đàn áp Phật giáo năm 1963 chủ yếu do tình báo
chính quyền Mỹ dàn dựng đã dẫn đến một chuỗi dây chuyền phản ứng dữ dội.
Ngày
1 tháng 11 năm 1963, các tướng lĩnh với yểm trợ mua chuộc của Mỹ đã thực hiện
cuộc đảo chính quân sự lật đổ tổng thống Ngô Đình Diệm. Ngô Đình Nhu và người
anh phải chạy trốn vào nhà thờ Cha Tam ở Chợ Lớn. Sauk hi đã liên lạc dàn xếp
với phe đảo chính, vào ngày 2 tháng 11 năm 1963,hai an hem ông Diệm và ông Nhu
bước lên xe tank trong đoàn xe quân sự đến đón hai anh em ông về Bộ Tổng tham
mưu. Nhưng chính vì tin tưởng vào lời nới của các tướng lĩnh, khi chiếc thiết
giáp M 113 chở hai anh em ông về đến nơi thì phát hiện thi thể của hai anh em
ông với nhiều vết dao và dấu đạn trên người. Người ta về sau tìm thấy bằng
chứng là chính Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh sát hại hai anh em ong Diệm và
Nhu.
II.
Sự Nghiệp Chính Trị Của Ông Ngô Đình Nhu
Những
người làm việc và tìm hiểu kỹ lưỡng về ông Ngô Đình Nhu đều nhận thấy một điểm
son trong cuộc đời chính trị của ông là tuy ông không hể nắm giữ một chức vụ
quan trọng của quốc gia, nhưng hầu như cương lĩnh và tồ chức chính trị cơ bản
của chế độ Việt Nam Cộng Hòa I (1954-1963) đều chủ yếu do ông dàn dựng ở cương
vị làm cố vấn chính trị cho Thủ Tướng rồi Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Vì thế tìm
hiều sự nghiệp của ông, người ta chú trọng nhiều đến những thành tựu chính trị
hạ tầng trong việc hình thành các cấu trúc quốc gia của Việt Nam Cộng Hòa I:
chủ nghĩa nhân vị, chính đảng cần lao nhân vị và chính sách ấp chiến lược (khu
trù mật, dinh diền, …).
Theo
ý kiến ông Minh Võ, ông Cao Xuân Vĩ, dầu sao Võ Nguyên Giáp không thể sánh được
với Ngô Đình Nhu. Còn Phạm Văn Đồng thì không đáng là học trò Ngô Đình Nhu.
Ông
Cao Xuân Vĩ cho biết liền khi cuộc chiến giữa Việt Minh và Pháp bùng nổ ngày
19/12/1946. Lúc ấy ông Hồ và đại bộ phận Việt Minh chạy lên Việt Bắc kháng
chiến thì nhóm ông gồm 36 trí thức và thanh niên sinh viên tranh đấu chạy vào
khu Tư, vùng Thanh Nghê Tĩnh, để cùng với một số Việt Minh ôn hòa lập một phòng
tuyến mới phi cộng sản chống thực dân và giúp dân mở mang về kinh tế và văn
hóa. Có thể nói Liên Khu Tư lúc ấy như là một khu tự trị.
Mãi
cuối năm 1953, Cao Xuân Vĩ vào Sài Gòn mới gặp lại Trần Chánh Thành và Ông
Thành giới thiệu Cao Xuân Vĩ với ông Nhu. Ông Thành vào Sài Gòn năm 1952 cùng
một lượt với phần lớn trong số 36 trí thức đã vào Liên Khu Tư để kháng chiến
chống Pháp nhưng bất hợp tác với Việt Minh. Lúc gặp lại Cao Xuân Vĩ, thì ông
Thành đang làm cho tờ báo Xã Hội của ông Nhu, đồng thời tập sự luật sư với Luật
Sư Trương Đình Du
Khi
làm Cố Vấn, Ông Ngô Đình Nhu chỉ có một mình thiếu tá Phạm Thu Đường làm chánh
văn phòng, thường được gọi là chánh văn phòng ông Cố Vấn. Và dưới quyền thiếu
tá Đường chỉ có 5 nhân viên, hầu hết tự túc. Không có ngân khỏan nào dành cho
ông Cố Vấn.
Và
phải nói thực khó hiểu là chính chức Cố Vấn này cũng chẳng được một văn kiện
nào bổ nhiệm hay quy định nhiệm vụ. Thực tế ông Nhu chỉ giúp việc cho riêng ông
Diệm với tư cách là phụ tá cho Tổng Thống. Người ta thấy việc ông làm thì gọi
ông là Cố Vấn vậy thôi. Vì thế ông không có quyền hạn và nhiệm vụ gì chính
thức.
Mộ
Ông Ngô Đình Nhu – Binh Duong
Chủ
Nghĩa Nhân Vị Thời Việt Nam Cộng Hòa I (1954-1963)
1.
Theo GS Tôn Thất Thiện, những khảo sát bổ sung, công phu và nghiêm chỉnh về sau
của Ông Nguyễn Ngọc Tấn góp phần làm sáng tỏ giai đoạn lịch sử 1954-1963, thời
gian ông Diệm cầm quyền. Những khảo sát này làm rõ những điểm cơ bản của Chủ
Nghĩa Nhân Vị Việt Nam Công Hòa I. Trong 40 năm qua, có những tác giả viết về
Chủ Nghĩa Nhân Vị dưới khía cạnh khoa học, nhưng có lẽ chưa đánh giá về tầm
quan trọng của nó như là một chủ thuyết chính trị, dù chủ thuyết này trong thực
tế đã khai sanh ra chế độ Việt Nam Cộng Hòa I. Đây quả đúng là một vấn đề lịch
sử chưa được trình bày một cách có hệ thống trong thế kỷ qua. Chủ thuyết ấy cần
được khảo luận, cân nhắc kỹ lưỡng, phê phán công bình, khách quan và bình thản,
xác định những tiêu cực và tích cực trong quá trình thực hành để trả lại sự
thật chính xác của giai đoạn lịch sử ngắn ngủi, nhưng oanh liệt của dân tộc
Việt Nam, nhất là nhân dân sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa I (1954-1963).
2.
Người ta có thể đặt ra mấy vấn đề chính là:
– Mục
đích của Chủ Nghĩa Nhân Vị
– Bản
chất Chủ Nghĩa Nhân Vị được hiểu thế nào?
– Chủ
Nghĩa Nhân Vị được quan niệm làm cương lĩnh cách mạng quốc gia thế nào và thể
hiện bằng các đường lối chính sách nào?
– Về
triết học Chủ Nghĩa Nhân Vị có phải là một thuyết ngoại lai hay thế hiện đặc
tính văn hoá Việt Nam?
Trả
lời các câu hỏi trên là đặt nền tảng để thẩm định phẩm chất lãnh đạo và những
đóng góp lịch sử của tổng thống Ngô Đình Diệm trong 9 năm cầm quyền…. Chương
khảo luận của tác giả Hoàng Ngọc Tấn “Chủ Nghĩa Nhân Vị, Con Đường Mới, Con
Đường Của Tiến Bộ” có nhiều dữ kiện, suy đoán, và phân tích tỉ mỉ, khiến người
đọc phải đọc kỹ và nghiền ngẫm, khảo chứng từng chi tiết. Luận đề này đề cập
đến một số khía cạnh độc giả cần đặc biệt quan tâm.
Mục
Đích Của Chủ Nghĩa Nhân Vị
Trong
tình hình chia cắt hai miền Bắc Nam dưới hai chế độ khác nhau vì ý thức hệ khác
nhau. Miền Bắc theo ý thức hệ chù nghĩa Cộng Sản, nên miền nam muốn được đầu
với chế độ chủ trương đâu tranh giai cấp theo chủ nghĩa Cộng sản, thì miền Nam
cũng phải xây dựng xã hội theo một ý thức hệ ưu việt để đối kháng lại. Theo tác
giả Nguyễn Đức Cung[23]
Ngày
8/1/1963, trong cuộc nói chuyện với học giới gồm nhiều học giả trí thức, giáo
sư đại học, giáo sư trung học và cán bộ tại Trung Tâm Thị Nghè, Ông Ngô Đình
Nhu xác định:
“…
mình đánh nhau với Cộng Sản, bây giờ Cộng Sản nó đánh mình với một Ý thức hệ,
mà chúng ta không có một ý thức hệ cứng rắn, rõ ràng, trong tâm trí chúng ta để
đối lại, để có lẽ sống mà đáng Cộng Sản thì chúng ta sẽ bị ý thức hệ Cộng Sản
lan tràn lung lạc…”
Ông
nói tiếp:
“Muốn
phục vụ con người trong xã hội, thì con người đó phải tiến, xã hội đó phải
tiến. Nhưng xã hội chỉ tiến được với nhữhng con người ý thức nhiệm vụ. Cho nên,
trên nguyên tắc, chúng ta phải nhìn nhận rằng cần phải có một ý thức hệ tiến
bộ. Ý thức hệ chúng tôi chủ trương là ý thức hệ Nhân Vị.” (Nguyễn Văn Minh,
sđd., t. 421).
Bản
Chất Đích Thực Của Chủ Nghĩa Nhân Vị
1. Về
bản chất Nhân Vị, theo chính tài liệu ông Diệm giải thích: Về Nhân Vị là gì:
Nhân và Vị là hai học thuyết Nho giáo. Nhân 仁 do chữ Nhân 人 và chữ Nhị 二 hợp
thành (仁) có nghĩa là lòng thương người, đạo lý làm người; Vị 位 do chữ Nhân 人
và chữ Lập 立 hợp thành (位) có nghĩa là người có cái vị trí của họ, đứng giữa và
ngang hàng với Trời và Đất. Hai chữ này kết hợp lại, diễn đạt ý tưởng nói về
phẩm giá cao quí của con người và vị trí của con người trong cộng đồng nhân
loại và trong vũ trụ. Đó là tương quan chặt chẽ của ba yếu tố vũ trụ (Thiên Địa
Nhân) trong triết lý Tam Tài truyền thống của Phương Đông.
Một
cách giải thích khác tương tự như trên về Chủ Nghĩa Nhân Vị theo lối phân tích
của Lm Bửu Dưỡng:
“
Nhân là người. Vị là thứ bậc. Nhân Vị là tính cách con người sống đầy đủ con
người theo thứ bậc của mình. Theo nghĩa đó hai chữ nhân vị đầy đủ hơn chữ
personne humaine của Pháp ngữ, vì hai chữ personne humaine nhấn mạnh đến ý
nghĩa của chữ nhân mà ít chú trọng tới vị. Cần phải hiểu ý nghĩa đày đủ của hai
chữ. Nhân là sống đầy đủ con người. Vị là sống đúng theo thứ bậc của mình trong
những tương quan với người khác và vạn vật. Như vậy thì quan niệm về nhân vị
tùy thuộc quan niệm về con người và quan niệm các tương quan.”
Theo
cách nói của LM Nguyễn Thái, đúng là phải trải qua kinh nghiệm ngàn năm dựng
nước, giữ nước và cứu quốc, ông bà tổ tiên Việt Nam mới để lại cho con cháu cái
bí quyết thành công qua thành ngữ “Thiên thời địa lợi nhân hòa”. Thành ngữ này
dựa trên quan niệm của Khổng Tử lấy ra từ Kinh Dịch diễn tả tương quan hòa đồng
biện chứng giữa Trời, Đất và Người, qua lý tưởng Thái Hòa. Được giáo dục bởi nền
văn hóa Nho Giáo, hai anh em cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đã hệ
thống hóa tư tưởng nhân bản nho học lại thành một chủ thuyết lấy tên là “Chủ
Nghĩa Nhân Vị”
Trong
bài phát biểu mới đây, nhân dịp tưởng niệm cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Lm đã phát
biểu:
“Sống
với Nhân Vị là sống với lòng yêu thương như tổ tiên đã dạy: “Thương người như
thể thương thân”. Chủ Nghĩa Nhân Vị là đạo lý làm người, là sống cho ra
cái phẩm giá cao quý của con người. Đó là sống với chữ tâm của “Tiết trực tâm
hư”, chữ tâm như cụ Nguyễn Du đã khuyên dạy: “Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm
kia mới bằng ba chữ tài.” Đó là phải biết đặt mình hòa hợp vào đúng vị trí của
mình đối với Thiên Chúa [Trời] – Thiên; đối với Tổ Quốc, Quê Hương, Đất Nước –
Địa; đối với Nhân Dân, Đồng Bào – Nhân.”
Ông
Ngô Đình Nhu giải thích:
“Về
tư tưởng Nhân vị có nhiều thứ. Có thứ họ căn cứ vào một tin ngưỡng hữu hình,
một tin ngưỡng chắc chắn, căn bản. Có thứ lại nhuốm phần nào vô thức… Ý thức hệ
Nhân vị chúng tôi chủ trương nó rất rộng rãi và không cần phải đi sâu vào các
đạo giáo… Tất cả các đạo giáo, tất cả các triết lý khác, có thể cùng đi với
chúng ta được trong ý thức hệ đó…”
Chủ
Nghĩa Nhân Vị là một triết thuyết đề cao địa vị và phẩm giá của con người trong
tương quan với vũ trụ, Trời và Đất, với người khác trong xã hội. Chủ nghĩa Nhân
Vị cho rằng bản vị con người có một nhân phẩm tối thượng, nên mọi sinh hoạt
trên đời đều được tập trung và phải là phương tiện qui hướng đến mục tiêu phục
vụ con người. Chủ nghĩa Nhân Vị lấy Con người biết tu thân (vừa tĩnh vừa động)
làm nền tảng để giải quyết các mâu thuẫn trong sinh hoạt của con người.
Nguồn
Gốc Hình Thành Chủ Nghĩa Nhân Vị VNCH I
Về
quá trình hình thành, chắc chắn khi học ở bên Pháp trong thập niên 1930 thanh
niên Ngô Đình Nhu đã tiếp xúc với tư tưởng và có thể chính con người năng động
của Emmanuel Mounier, nhưng một người sắc sảo như Ngô Đình Nhu không hấp thụ tư
tưởng Chủ Nghĩa Nhân Vị một cách thụ động, nô lệ, ngoại lai, mà đã tinh chế cho
phù hợp với văn hóa truyền thống Việt Nam. Chủ Nghĩa Nhân Vị của các ông Diệm,
ông Nhu không thuần túy là Chủ Nghĩa Nhân Vị của Mounier, là của Công Giáo.
Những lời phê bình này có thể chứa đựng một chủ đích chính trị nào đó, hay chưa
tìm hiểu thấu đáo về Chủ Nghĩa Nhân Vị.
Trong
số những người phê bình theo chủ đích chính trị có những người, theo Nguyễn
Ngọc Tấn, như Nguyễn Thái. Trong tác phẩm “Is South Vietnam Viable?”, ông nói
rằng ông Nhu đã say mê thuyết dân chủ xã hội dựa trên lòng bác ái và giá trị
nhân bản mang danh “Personnalisme” của Emmanuel Mounier, và mối liên hệ của Chủ
Nghĩa ấy với xã hội mà ông Nhu cổ võ chẳng có gì là mới mẻ, và “Personnalisme”
cũng chẳng có gì xa lạ vì trong một trường phái triết học Pháp trong đó có
Emmanuel Mounier và Jacques Maritain để hết mình cổ võ cho nó…
Thưc
ra trên đời không có gì mới mẻ, nhưng mới mẻ là cách vận dụng nó có phù hợp vói
thời đại không và được thời đại đó chấp nhận không?
Nhà
sử học Robert Scigliano, sau khi nghiên cứu chủ nghĩa Nhân Vị Việt Nam Công Hòa
I đã ghi lại:
“Chủ
Nghĩa Nhân Vị nhấn mạnh đến sự điều hòa những ước vọng vật chất cũng như tinh
thần của cá nhân với các nhu cầu của cộng đồng và các nhu cầu chính trị của
quốc gia. Nó nhằm tìm kiếm một con đường trung dung giữa chủ nghĩa cá nhân và
chủ nghĩa tập thể mác-xít.”
Mới
đây tác giả Jean-François Petit nghiên cứu quá trình hình thanh tư tưởng E.
Mounier (1905-1950). Ông thấy Mounier là một trong những khuôn mặt trí
thức Pháp thuộc thế kỷ XX. Theo J.F. Petit, căn cứ vào nhiều tài liệu ông viết,
trong suốt quá trình suy tư và hành động, E. Mounier có xu hướng muốn dung hợp
nhiều luồng tư tưởng triết học và thần học khác nhau. Mounier chịu tác động tư
tưởng triết học từ Descartes, Pascal và Bergson, đồng thời quan điểm thần học
từ linh mục Guerry.
Khi
học tại Paris, ông tỏ ra thất vọng, vì ông không thành công xác định một nền
giáo dục thiên về chủ nghĩa duy tâm và duy lý của Trường Đại Học Sorbonne và
một nền thẩn học bị tác động do cuộc khủng hoảng duy tân hiên đại.
Luận
đề của ông về triết thuyết thần bí thất bại. Vì thế ông chuyển hướng thiết lập
một triết học riêng biệt, tách rời khòi tư tưởng có màu sắc tôn giáo.
Nhưng
khi đọc những tư tưởng của Péguy, ông chuyên chú đến các tương quan giữa yếu tố
thiêng liêng và yếu tố trần thế. Sau cùng tiếp xúc gặp gỡ Landsberg, ông tỏ ra
nhạy cảm thấy người ta phải dấn thân. Xu hướng hiện sinh ấy khiến ông từ chối
nền thần học Kitô giáo. Từ đó nảy sinh ra quan niệm triết học về nhân vị và
cộng đồng, có hơi hướng tư tưởng Augustin từ thế kỷ thứ tư thuộc Công nguyên.
Paul
Ricoeur xem tư tưởng Mounier là dấu ấn triết học chuẩn mực, nhưng không phải là
đối tượng nghiên cứu có hệ thống theo giác độ này, mạc dù tư tưởng Mounier có
tầm ảnh hưởng lớn lao lên các lãnh vực triết học, thần học, chính trị và sư
phạm. Công lao của tác giả J. L. Petit là xác định rõ nguồn gốc tư tưởng
Mounier bằng nhiều văn bản chưa được xuất bản.
Theo
quan điểm nghiên cứu của E. Miller khi tiếp xúc với nhiều người Việt Nam sau
nau 30/4/1975, thì khi Ngô Đình Nhu từ Pháp về lại Đông Dương, ông say mê chủ
nghĩa nhân vị, tin tưởng rằng tư tưởng của Mounier có thể vận dụng nhuần nhuyễn
vào hoàn cảnh Việt Nam. Sau năm 1945, chủ nghĩa Nhân vị có thể là “con đường
thứ ba” để phát triển xã hội là điều Ngô Đình Nhu gắn bó. Trong nhãn quan Ngô
Đình Nhu, tư tưởng Mounier bác bỏ cả chủ nghĩa tự do cũng như chủ nghĩa cộng
sản là vấn đề chính trị cho Lực lượng thứ Ba do Ngô Đình Diệm đang đề xướng.
Ngô Đình Nhu cảm thấy người anh của mình đang lĩnh hội tư tưởng của ông qua
việc Ngô Đình Diệm nhận xét và bài viết trong giai đoạn này nhắc đến nhiều chi tiết
của thuật ngữ chủ nghĩa Nhân vị.
Những
nghiên cứu của E. Miller cũng xác định từ tháng 4 năm 1952, Ngô Đình Nhu phác
thảo quan điểm về chủ nghĩa Nhân vị trong bài nói chuyện tại trường Võ Bị Đà
Lạt vừa thành lập. Ông thừa nhận rằng khái niệm nhân vị ban đầu là một tư tưởng
Công giáo, nhưng nhấn mạnh rằng nó mang tính thích hợp và hữu dụng phổ quát,
đặc biệt là cho một đất nước bị chiến tranh tàn phá như Việt Nam.
Phát
biểu với một cửa tọa mà đa số là những người không Công giáo có mặt trong cuộc
nói chuyện này, ông tuyên bố rằng “… ưu-tư của người Công-giáo cũng chỉ như một
tiếng dội đáp lại những nỗi ưu-tư ở tâm-hồn bất-mãn của các ông vậy.” Ông Nhu
lập luận rằng, tất cả người Việt Nam thuộc mọi phe phái chính trị và tôn giáo,
nên cùng nhau nhất trí bất thần và mãnh liệt” để bảo vệ nhân vị chống lại các
thế lực đang đe doạ tiêu diệt nó.
Trong
số những người chưa nghiên cứu đầy đủ về Mounier, có thể kể một nhà biên soạn
nổi tiếng là ông Nguyễn Gia Kiểng. Gần đây, trong một bài phê phán ông Ngô Đình
Diệm, ông viết:
“Nếu
dựa trên những gì ông Nhu đã viết về chủ nghĩa nhân vị thì có thể nói là chính
ông cũng chỉ hiếu lơ mơ Có lẽ ông đã du nhập chủ nghĩa nhân vị vào Việt Nam vì
lý do là lúc đó nó được coi là giải pháp Thiên chúa giáo cho hòa bình Công giáo
của thế giới. Nó có tham vọng là một vũ khí tư tưởng chống lại chủ nghĩa cộng
sản. Trên thực tế, nó là một bước lùi lớn, gần như một sự đầu hàng, bởi vì nó
phủ nhận cá nhân, cốt lõi của dân chủ” .
4.
Người ta có thể bác bỏ dễ dàng những luận điểm và nhận định sai lầm nặng nề
cùng những phê phán hời hợt trên đây. Căn cứ vào những trích dẫn tuyên bố, phát
biểu trực tiếp của các ông Diệm-Nhu, và nhiều khảo luận của học giả Việt Nam có
uy tín, người ta chứng minh Chủ Nghĩa Nhân Vị là một lý thuyết chính trị mang một
bản sắc dân tộc rõ rệt.
Hơn
nữa nhiều học giả như Lương Kim Định, Nghiêm Xuân Hồng và Đinh Văn Khang với
biện chứng mạch lạc rõ rệt, khẳng định Chủ Nghĩa Nhân Vị (Tâm linh, Đông
phương) của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu, bắt nguồn từ nền tảng văn hóa Việt
Nam, không thể lầm lẫn với Personalisme của Mounier (Duy tâm Tây phương) được.
Không còn nghi ngờ gì nữa, vì mọi việc đã được sáng tỏ và những nghiên
cứu lịch sử cho phép ta kết luận Chủ Nghĩa Nhân Vị do hai ông Diệm-Nhu chủ
xướng mang bản chất văn hóa và chính trị Việt Nam.
Theo
dẫn chứng của tác giả Nguyễn Ngọc Tuấn, nhiều tuyên bố của ông Diệm và ông Nhu
ở những hoàn cảnh khác nhau có thể minh chứng xác quyết sự thật đó, như:
“Nhắm
mắt bắt chước nước ngoài khác gì nhận trước sự bảo hộ của ngoại bang”
–
“Chủ thuyết [Nhân Vị] đặt nền tảng trên quan niệm tôn trọng phẩm giá con người
và đẩy mạnh sự phát triển đến mức độ cao nhất. Quan niệm này… ở ngay trong
truyền thống dân gian Việt Nam”
–
“Tôi phải nói ngay rằng: Chủ Thuyết Nhân Vị của tôi chẳng có dính dáng gì đến
cái Nhân Vị Công Giáo đang được giảng dạy bởi các tổ chức Công Giáo tại miền
Nam Việt Nam… Hiện nay cái học thuyết nhân vị mà tôi cổ võ là một nền dân chủ
đấu tranh trong đó tự do không phải là một món quà của ông già Noel, nhưng mà
là kết quả của một cuộc chinh phục bền bỉ và sáng suốt trong đời sống thực tế,
không phải trong một khung cảnh lý tưởng, mà trong những điều kiện địa lý chính
trị đã được định sẵn“
Như
thế, giải pháp Nhân Vị mà ông Diệm và ông Nhu đã cổ võ 40 năm về trước chính là
mô hình xã hội dân chủ nhân vị đã được thể nghiệm ở miền Nam từ 1954 đến 1963,
có mấy đặc điểm:
–
Hoạch định một chính cương thống nhất, lấy chủ nghĩa nhân vị làm nền tảng, phù
hợp với văn hóa Việt Nam làm căn bản hướng dẫn cả nước đi lên
–
Định hướng dân chủ trên thượng tầng cấu trúc xã hội dân sự
– Vận
dụng một nền kinh tế thị trường có điều hòa uyển chuyển của một chính phủ nhắm
đến phúc lợi từng cá nhân và cho chung cho cả cộng đồng xã hội.
–
Thực hiện có điều tiết dần dần tính công bằng xã hội và nền dân chủ đa nguyên
thực sự ở hạ tầng cơ sở qua các chính sách đất đai dinh diền, ấp chiến lược,
khu trù mật
-Kiến
tạo hòa bình, ổn định, đoàn kết, trong tình trạng thực tế có hoạt động chính
trị kết hợp với vũ trang của chế độ Cộng Sản miền Bắc Việt Nam lúc đó.
Chủ
nghĩa Nhân Vị chỉ được thể nghiệm trong một thời gian ngắn ở Miền Nam Việt Nam,
nhưng xét theo lý thuyết khoa học, Chủ Nghĩa Nhân Vị có một giá trị đóng góp
lâu dài và quan trọng vào công cuộc phát triển con người nói chung và đặc biệt
tại các quốc gia nghèo đói hiện nay.
Sử
gia Henry Fairbanks tóm lược toàn sự thật lịch sử bằng lời lẽ khách quan, trong
một bài báo tựa đề “The Enigma of Ngô Đình Diệm”, được đăng trong tờ Commonweal
như sau:
“Ông
Diệm tìm kiếm và khôi phục lại những giá trị cổ truyền làm nền tảng cho giải
pháp canh tân xứ sở trong khi đó những người khác lại đi tìm những học thuyết
ngoại lai… Dù sao đi nữa, Ông ta vẫn là một người có cái nhìn sâu sắc về tương
lai. Cả thế giới này đều yêu mến các chiến sĩ dũng cảm và ai ai cũng phải nể trọng
những kẻ đeo đưổi một lý tưởng cao cả nào đó. Ông Diệm ao ước thực hiện
một nhà nước được xây dựng trên những giá trị cổ truyền tốt đẹp nhất của Á Châu
và Tây Phương, những đặc điểm đúng đắn và khả thi nhất để phục vụ quyền lợi
chung và tôn trọng nhân phẩm. Ông Diệm cho rằng Xã Hội Chủ Nghĩa và Tư
Bản Chủ Nghĩa đều là những học thuyết cực đoan cần có một hình thức trung gian,
một lực lượng đứng giữa, nhằm tổng hợp được những giá trị ưu tú nhất của cả hai
để phục vụ cho lợi ích chung: công bằng đối với người này là tự do của kẻ khác,
cũng như loại bỏ độc tài toàn chế và tinh thần vô trách nhiệm của Chủ Nghĩa Cá
Nhân.”
Sự
điên đảo của xã hội hiện nay là thay vì đầu đội Trời, chân đạp đất, tay ôm lấy
nhau trong tình người thái hòa thì người ta đảo lộn tất cả!
–
Thiên là Trời cũng chẳng còn biết kính trọng nữa, mà:
“Tiền
là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già.”
“Ông
Trời hãy dẹp một bên, để cho nộng hội tiến lên làm Trời!”
– Địa
là quê hương, tổ quốc, đất nước, nhưng ngày nay thì:
“Tổ
quốc với chẳng tổ cò
Nơi
nào no ấm ta dò ta bay”
– Còn
Nhân (con người) với nhau thì coi nhau như lang sói, đầy đấu tranh, tham nhũng:
“Thanh
cha, thanh mẹ, thanh dì
Hễ có
phong bì thì lại thanh-kiu”.
So
sánh với thực tại cá nhân và xã hội Việt Nam ngày nay, người ta mới thấy rõ hơn
tính ưu việt của Chủ Nghĩa Nhân Vị lấy tương quan Trời Đất Người làm nền tảng
xây dựng xã hội con người. Chủ Nghĩa ấy đối kháng rõ rệt với chủ nghĩa độc tài
chuyên chính độc đảng toàn trị, không có dân chủ, không tôn trọng con người để
xây dựng một xã hội thái hòa giữa Trời Đất và Người.
Không
thể gọi chế độ ấy là Cộng Sản đích thực, vì đã hội nhập vào nền kinh tế thị
trường tự do và đã chấp nhận tham gia xã hội pháp quyền dân sự, trong khi Đại
Khối Cộng Sản từ Phương Tây đã tan rã. Đó là một toan tính ngoan ngạnh, dị hợm,
chắp vá đầu Ngô mình Sở, một quái thai nẩy sinh giữa chế độ toàn trị độc đảng
mà vẫn muốn sống trong thế giới dân chủ tự do chấp nhận kinh tế thị trường.
Chế
độ xã hội ở cả Việt Nam ngày nay (sau 30/4/1975 đến nay) và ở một nửa nước tại
Miền Bắc Việt Nam trước kia (1954-1975), người ta mất hướng đi chân chính, vì
thiếu một chủ nghĩa nhân bản dân chủ chân chính:
-Chế
độ chính trị thì do một đảng chuyên chính độc đoán, toàn trị, dù có phân biệt
theo hình thức Tòa Án, Chủ Tịch nước, Thủ Tướng Chính Phủ, Chủ Tịch Quốc Hội,
trong đó tất cả đều theo lệnh của Bộ Chính Tri Đáng
-Nền
kinh tế thị trường, nhưng những người chủ chốt đều thuộc một đàng chuyên chính.
Có phát triển nhưng là một nền kinh tế bất công, giàu sang nhờ đầu tư kinh
doanh của các công ty liên doanh ngọai quốc
-Xã
hội suy đồi vì nền giáo dục khuôn sáo thiếu suy tư sáng tạo, vì tự do hôn nhân
chân, nam nữ tự do giao du, tham nhũng, mãi dâm, xì ke, ma túy, HIV/AID tràn
lan, ứng xử gian dối trong tương quan xã hội, các đoàn thể chỉ là phên dậu của
một chính đảng được bầu cử theo cách sắo đât trước của một Đảng
Và
nhờ đó người ta muốn hiểu rõ và thương mến trân trọng chế độ Việt Nam Cộng Hòa
I. Chủ Nghĩa Nhân Vị thời Việt Nam Cộng Hòa trước kia (1954-1963) và ngày nay ở
trong cũng như ngoài nước (từ sau 30/4/1975 đến nay) đã và vẫn đang tiếp tục bị
các lực lượng thù ghét xuyên tạc và có ý làm sai lệch tư tưởng chính thống thế
nào là chủ nghĩa nhân vị.
Từ
Chủ Nghĩa Nhân Vị Đến Đảng Cần Lao Nhân Vị
Chủ nghĩa
nhân vị chính là nền tảng để xây dựng chế độ Việt Nam Cộng Hòa I. Muốn cho nhà
Việt Nam bền vững , ngôi nhà đó cần có một nền tảng vữa chắc để xây những bộ
phận khác. Làm việc gì cũng cần có trước có sau một cách hợp tình hợp lý và hài
hòa. Bài diễn văn của Ngô Đình Nhu báo trước cho việc thiết lập hệ thống Đảng
Cần Lao Nhân Vị để qui tụ, động viên và tổ chức nhân sự trong guồng máy Việt
Nam Cộng Hòa.
Trong
nghiên cứu E. Miller cũng thấy trật tự đo. Ngô Đình Nhu là một nhà tư tưởng và
một nhà chiến lược. Ông thừa biết rằng phong trào của ông cần được tổ chức; tài
năng thật sự của ông là thành lập xong, thì phải tổ chức. Chắc chắn ngay từ đầu
thập niên 1950, Ngô Đình Nhu đã xây dựng cốt cán của một đảng chính trị mới,
với nhóm người chạy khỏi Hà Nội vào khu tự trị Bùi Phát sau ngày 19/12/1946, mà
sau này mới xuất hiện công khai với tên gọi Đảng Cần lao Nhân vị;” nhưng thường
chỉ gọi là vắn tắt “Cần Lao”.
Lúc
đầu, tổ chức Cần Lao hoạt động trong vòng bí mật, và người ta hầu như không
biết gì về những năm đầu tiên của nó. Đảng hoạt động theo lối mạng lưới chi bộ,
đa số đảng viên được tuyển mộ chỉ biết danh tính của một số ít các đảng viên
khác.
Sau
năm 1954, đảng này chính thức tồn tại, nhưng đa số những hoạt động của nó vẫn
chưa được làm sáng tỏ. Cuối cùng, đảng Cần Lao trở thành bộ phận quan trọng và
nổi tiếng nhất trong bộ máy an ninh của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu. Nhưng
trong những năm đầu của đảng, mục đích chính của Ngô Đình Nhu là vận động phong
trào ủng hộ cuộc đấu tranh chính trị dân tộc chủ nghĩa mới do Ngô Đình Diệm
lãnh đạo.
Việc
đặt tên Cần Lao khiến người ta nghĩ chắc chắn Nhu quan tâm đến việc tổ chức lao
động (lao động ở đây được hiểu bao gồm cả công nhân và những tá điền nghèo
khổ), trong ý thức cạnh tranh với tổ chức lao động kiểu Lê-nin ở miền Bắc khi
đó. Tổ chức này cũng có thể liên quan đến một số tư tưởng chỉ đạo phong trào
công đoàn Pháp. Ông tán đồng khái niệm công đoàn: công nhân được tổ chức thành
nghiệp đoàn hay hiệp hội để bảo đảm quyền lợi của các thành viên không lệ thuộc
vào quyền lợi của tư bản. E. Miller chú ý đến khía cạnh đặc biệt này: “Mặc dù
Ngô Đình Nhu, trong những bài thuyết trình kín và công khai, thường hướng tới
những yếu tố triết lý Nhân vị, nhưng cung cách và bản chất những nỗ lực tổ chức
của ông bị những nguyên tắc của phong trào công đoàn ảnh hưởng sâu sắc”
Về
Đảng Cần Lao Nhân Vị, theo ông Cao Xuân Vĩ, hai người cùng với ông Nhu sáng lập
ra đảng Cần Lao Nhân Vị là các ông Trần Quốc Bửu và Huỳnh Hữu Nghĩa. Ban đầu
các ông không gọi tên đảng là Cần Lao mà gọi là đảng Công Nông Nhưng vì không
muốn gợi ý về cái liên minh công nông của cộng sản, nên về sau các ông đổi ra
là Cần Lao.
Còn
vế Nhân Vị thì sau nữa mới thêm vào theo đề nghị của ông Nhu. Ông Bửu, chủ tịch
Liên Đoàn Lao Công có kinh nghiệm về đấu tranh nghiệp đoàn, đã quen ông Nhu khi
còn ở bên Pháp. Và ông Huỳnh Hữu Nghĩa một tín đồ Cao Đài, là cố vấn chính trị
của tướng Trình Minh Thế. Ông Nghĩa đã giúp ông Nhu chinh phục được tướng Thế,
chứ không phải như có người Mỹ cho rằng ông Nhu có được ông Thế là nhờ đại tá
Edward Lansdale.
Ông
Lansdale có can thiệp để quân của tướng Thế được hợp thức hóa và trả lương như
Quân Đội Quốc Gia thì đúng. Người nào bảo Lansdale dùng tiền mua Tướng Thế là
cố tình xuyên tạc để hạ úy tín của một vị tướng kiên cường anh dũng, thanh liêm
mà anh em ông Diệm rất qúy trọng. Khi nghe tin tướng Thế tử trận Tổng Thống
Diệm đã ngất xỉu. Điều này tướng Lansdale có ghi trong hồi ký. Văn phòng Tổng
Bí Thư đảng Cần Lao cũng do một mình Thiếu Tá Phạm Thu Đường quán xuyến, kiêm
nhiệm.
Tổ
Chức Đoàn Ngũ Hóa Các Giới
Ngoài
hệ thống nội bộ Đảng Cần Lao, trong ý đồ chiến lược đa diện của Ngô Đình Nhu,
con có những tổ chức ngoại vị nhằm đoàn ngũ hóa các giới mà hai đoàn thể chính
là Thanh Niên Cộng Hòa và Phụ Nữ Liên Đới nhằm thi hành thống nhất các đường
lối chính sách theo hướng Chủ Ngjhĩa Nhân Vị. Chủ trương như thể nhưng có nhiều
lạm dụng hay khuyết nhược điểm trong các đơn vị địa phương và cá nhân dẫn dần
đến mất hướng đi chính thống của chủ nghĩa và sa sút, trong khi có tổ chức Cộng
Sản và những thành phần công dân không tán đồng chủ nghĩa nhân vị tiếp sức phá
hoại một cách nào đó.
Khi
làm Thủ Lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, thì ông Nhu chỉ thị cho anh em đoàn viên phải
tự túc. Mọi đoàn viên đều tự nguyện và tự túc theo tinh thần cách mạng. Cho nên
cũng chẳng có quyền lợi gì.
Về
văn phòng dân biểu, ông cũng không có. Thực ra ông ấy rất ít đi họp Quốc Hội.
Chỉ khi nào có vấn đề chính sách quan trọng như Ấp Chiến Lược chẳng hạn, hay
vấn đê “Giáo Dục nhân bản”, vấn đề “kinh tế tư hữu cơ bản” v.v… thì ông mới tới
trình bày mà thôi. Cho nên mọi thứ một mình ông cáng đáng. Ông Cao Xuân Vỹ thật
phục sức làm việc của ông Nhu.
Ấp
Chiến Lược, Hệ Thống Tổ Chức Hạ Tầng Đa Hiệu Của Xã Hội Nhất Là ở Nông Thôn
Mục
tiêu
1/.
Ông Nhu quan niêm chương trình Ấp Chiến Lược là một cuộc cách mạng xã hội và
chính trị, chứ không phải chỉ là một chiến lược đối phó với xâm nhập và khủng
bố của cộng sản mà thôi.
Ông
thúc đẩy các tỉnh trưởng khai hóa người dân quê theo tinh thần tam túc, nghĩa
là tự túc về tư tưởng, tự túc về tổ chức và tự túc về kỹ thuật, để có thể làm
chủ cuộc đời mình, làm chủ được xã hội, không bị lệ thuộc vào bên ngoài, vào
ngoại bang.
Nghiên
cứu mới đây theo tác giả Nguyễn Văn Minh trình bày lại công thức tam giác tam
túc của quân dân cán chính trong ấp chiến lược.
2/.
Chính Ông Ngô Đình Nhu diễn giải tóm lược trong phương trình:
“Tam
Túc + Tam Giác = Tam Nhân:
A.
Tam Túc là
1- Tự
Túc Về Tư Tưởng là tự mình suy luận cân nhắc mà lựa chọn một chính nghĩa để
phụng sự và một khi đã chọn rồi thì không còn lay chuyển nữa. Chính nghĩa đó là
cuộc cách mạnh chính trị, xã hội, quân sự mà ta đang cụ thể hóa trong các Ấp
Chiến Lược. Sau đó ta tự phát huy chính nghĩa trong tâm hồn, tự học tập và tự
bồi dưỡng tinh thần của ta, không cần ai thôi thúc.
Tự
túc về tinh thần về tư tưởng, thì tất nhiên trong mọi trường hợp khó khăn, ta
vẫn vững tâm, hoặc dù có nội loạn ở thủ đô Sài Gòn chăng nữa, thì ta vẫn không
bị hoang mang hay bị lung lạc. Tự túc về tư tưởng để phát huy và bành trướng
chủ nghĩa. Muốn được như vậy thì phài:
2- Tự
Túc Về Tổ Chức Và Tiếp Liệu, là tự ta tìm tòi, phát huy sáng kiến để có nhiều
nhân vật lực để hoạt động, không ỷ lại vào sự giúp đỡ của người khác. Chính phủ
chỉ cần giúp ta một số vốn căn bản, dựa vào đó ta tìm cách biến cải thêm để
hành động và mở rộng phạm vi hoạt động. Chẳng hạn hiện giờ ta thiếu kẽm gai để
làm ấp chiến lược, thì ta cố gắng tìm vật liệu khả dĩ làm tê liệt cơ thể bất cứ
ai động đến (như đồng bào Thượng đã làm trên Cao nguyên); hoặc dùng địa danh
địa vật để lồng hệ thống bố phòng ấp chiến lược vào trong đó, đỡ cần đào hào
hay rào kẽm gai. Muốn thực hiện tự túc về tổ chức, thì cần phải
3- Tự
Túc Về Kỹ Thuật là phát huy khả năng chiến đấu, và khai thác, phát triển khả
năng của nhân vật lực sẵn có đến tột mức 100%. Ba bộ phận của tam túc có liên
hệ mật thiết với nhau; muốn tự túc về tổ chức mà không tự túc về kỹ thuật, thì
tổ chức không thành; thiếu tự túc tư tưởng thì tất nhiên sẽ không có tự túc tổ
chức và tự túc kỹ thuật. Từ quan niệm tam túc sinh ra quan niệm tam giác.
B.Tam
Giác là:
1. Cảnh
Giác Về Sức Khỏe (thể xác), nghĩa là không được đau ốm. Do đó ta phải tránh tất
cả những việc làm phương hại đến thân xác ta như đau ốm, tứ đổ tường. Bảo đảm
sức khỏe thì mới bảo đảm được khả năng làm tròn nhiệm vụ.
2.
Cảnh Giác Về Đạo Đức Và Tác Phong Đạo Đức, vì tác phong đạo đức là cốt yếu của
cán bộ, thiếu tác phong đạo đức sẽ chi phối tu tưởng, sẽ biến khả năng làm việc
thiện ra việc ác, chưa kể việc thất nhân tâm.
3.
Cảnh Giác Về Trí Tuệ là phát huy óc sáng tạo, sáng tác khả năng chiến đấu của
nhân vật lực sẵn có đến tột độ.
Vậy,
không có sức khỏe, đau ốm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến óc sáng tạo và thu hẹp
phạm vi hoạt động của đạo đức. Không có óc sáng tạo thì dù có sức khỏe, có đạo
đức, cũng không có khả năng bồi bổ vào sự thiếu thốn nhân vật lực, là tình
trạng của một nước chậm tiến. Có sức khỏe, có óc sáng tạo, nhưng không có đạo
đức thì sức khỏe ấy, óc sang tạo ấy, sẽ phục vụ cho phi nghĩa, không phải cho
chính nghĩa…”
3/.
Ông để rất nhiều thì giờ đích thân soạn những bài thuyết trình có tính lý luận
cao dành cho các cấp lãnh đạo chính phủ và cán bộ cao cấp, chỉ cho họ cách thức
đưa những tư tưởng cao vào đầu óc thường dân qua những hình ảnh và ngôn ngữ
bình dân dễ hiểu.
Mục
đích của ông là tiến dần tới một xã hội có tổ chức cao, có đầy đủ các phương
tiện truyền thông, giao tế, kinh tế, văn hóa cao trong đó mỗi con người, “mỗi
nhân vị”, đều được quan tâm đồng đều, chứ không biến con người thanh những “cái
đinh, con ốc” trong một guồng máy xã hội theo kiểu cộng sản.
Ông
tin tưởng rằng phương pháp đó về lâu về dài sẽ làm cho CS phải đầu hàng. Chứ
không phải chỉ dựa vào những hàng rào giây kẽm gai. Dĩ nhiên ban đầu thì việc
rào ấp là cần thiết để giữ cho Ấp Chiến Lươc được an tòan trước sự phá hoại và
tấn công của du kích CS. Quốc sách Ấp Chiến Lược mà thành công thì cộng sản sẽ
thành cá bị tát ra khỏi ao, nằm trên đất.
4/.
Về Ấp Chiến Lược chức Chủ Tịch ủy Ban Liên Bộ, theo ông Cao Xuân Vĩ, thì có
chức này. Nhưng cũng chỉ là một thông tư của phủ Tổng Thống gửi đến các bộ, để
việc ông chủ toạ các phiên họp Ủy Ban Liên Bộ được danh chính ngôn thuận.
Theo
tác giả Nguyễn Đức Cung, người ta đọc thấy ông Nguyễn Bá Cẩn trình bày quan
điểm về một vấn đề rất trọng yếu mà ông mệnh danh là Thế Cá Nước và Chiến Tranh
Du Kích. Theo ông, ai cũng biết người dân miền Nam hiền hòa và chỉ muốn
an phận sinh sống với mảnh ruộng, luống rau, khu vườn, ao cá của mình. Cho nên,
chỉ cần tiêu diệt cán bộ cơ sở Cộng Sản thì người dân sẽ không còn bị khủng bố,
không bị bắt buộc tham gia bất cứ điều gì kể cả hoạt động tiêu cực nhất là góp
tiền. Vấn đề chỉ là tìm cá bắt ra khỏi nước.
Nhưng
thực ra ông Nguyễn Bá Cẩn đã không nhận thức được giá trị của ấp chiến lược,
khi tập trung dân vào trong ấp, thỉ tất cả những người ở ngoài ấp chính là
những người hoạt động bảo vệ chủ nghĩa Cộng Sản và sinh sống với Cộng Sản.
Chúnh vỉ nhiều người miền nam chưa nhận thức được hết những kinh nghiệm về hiểm
họa Cộng Sản trong chủ trương “tam cùng” và những điều giải thích về tam túc và
tam giác nói trên trong tình thế đấu tranh với Cộng Sản. Chủ trương ấp chiến
lược đã từng được áp dụng thành công ở Mã Lai trong việc tách lìa Cộng quân
khỏi trà trộn vào trong dân để tốn tại bằng lương thực và khủng bố để được
cưỡng bách che chở
Nhưng
chính ông mắc mưu tuyên truyền của Cộng Sản, dùng ngôn ngữ của chúng mà cho
rằng “đệ nhất Cộng hòa lại làm ngược lại, tức là lùa dân vào Khu trù mật. Và
khi Khu trù mật thất bại, thì lùa dân vào Ấp chiến lược. Ðệ nhị Cộng hòa cũng
lùa dân vào Ấp Ðời Mới hay Ấp Tân Sinh, đại khái là một biến thể của Ấp chiến
lược cũ. Thay vì bắt cá ra khỏi nước, ít tốn kém và không gây thiệt hại cho
dân, hai nền Cộng hòa lại làm công việc tát nước. Mà nước là dân. Tát nước tức
là di chuyển hàng trăm ngàn nhân dân vào khu trù mật và ấp chiến lược, quá ư
tốn kém, quá ư phiền hà, gây vô số thiệt hại cùng xáo trộn đời sống người dân.”
5/.
Thật ra, việc tập trung dân lập ấp là một kinh nghiệm lịch sử quý báu của tiền
nhân trong lịch sử Việt Nam, lúc có chiến tranh.
Tác
giả Nguyễn Đức Cung dẫn chứng kinh nghiệm quản lý người dân tộc thiểu số ở vùng
Quảng Ngãi. Theo ông, năm 1863, Nguyễn Tấn cũng đã áp dụng kế sách đó góp phần
chận đứng các cuộc tấn công của người Thượng vùng Ðá Vách, Quảng Ngãi.
Ðại
Nam Thực Lục có ghi lại như sau: Mới đặt chức Tiểu phủ sứ ở cơ Tĩnh man
tỉnh Quảng Ngãi. Phàm các việc quan hệ đến sự phòng giữ dẹp giặc, thăng cử,
chọn thải, lấy lương, gọi lính sát hạch, thì cùng bàn với chánh phó lãnh binh
chuyên coi một nha mà tâu hoặc tư.
Lấy
người hạt ấy là Nguyễn Tấn lãnh chức ấy. Tấn trước đây thự án sát Thái Nguyên,
khi ấy quân thứ Thái Nguyên dần yên, nghe tin bọn ác man hung hăng, dâng sớ xin
về bàn bạc để làm, trong 1, 2 năm có thể xong. Vua thấy giặc Man có phần cần
cấp hơn, bèn y cho. Ðến đây, chuẩn cho thăng hàm thi độc sung lãnh chức ấy, cấp
cho ấn quan phòng bằng ngà.
Tấn
dâng bày phương lược: (nói: việc đánh giặc vỗ dân cần làm những việc khẩn cấp
trước. Về 3 huyện mạn thượng du, phàm những dân ở linh tinh, tiếp gần với địa
phận núi thì, tham chước theo lệ của Lạng Sơn đoàn kết các dân ở cõi ven một
hay hai khu, đều đào hào đắp lũy, cổng ngõ cho bền vững. Nếu có lấn vào ruộng
đất của ai thì trừ thuế cho.
Còn
1, 2 nhà nghèo, ở riêng một nơi hẻo lánh, thì khuyên người giàu quyên cấp cho
dỡ nhà dời về trong khu; còn đất ở thì không cứ là đất công hay đất tư đều cho
làm nhà để .Các viên phủ huyện phụ làm việc ấy, liệu nơi nào hơi đông người thì
bắt đầu làm ngay, nơi nào điêu háo, thì phái quân đến phòng giữ ngăn chận, dần
dần tiếp tục làm, để thư sức dân.
Theo
người viết, việc so sánh kinh nghiệm ứng xử với người dân tộc thiểu số ở miền
Đông Bắc Việt Nam thế kỷ XIX, rồi được vận dụng tại vùng Quảng Ngãi với nhóm
dân tộc Đá Vách và việc khai lập làng ấp như ấp chiến lược và khu trù mật có
phần khác biệt. Người dân tộc thiểu số bị phân biệt đối xử so với người dân tộc
đa số, nên nguyên nhân chính của những cuộc giấy loạn cướp bóc của người dân
tộc thiểu số Đá Vách là giành quyền được đối xử như người đa số.
Từ
Trại Định Cư Đến Ấp Chiến Lược, hay Khu Trù M ật, Dinh Điền
Cách
đây chung quanh năm 1960, chế độ Cộng Hòa đã được khai sinh cùng với các quốc
sách được ban hành chính thức, chủ yếu là ấp chiến lược hay khu trù mật hay
dinh điền tùy theo địa phương và thời gian.
Nguồn
gốc đầu tiên phát sinh từ việc thành lập Phủ Tổng Ủy Di Cư theo nghị định số
928-NV do Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ngày 17/9/1954. Phủ này có tầm quan trọng như
một Bộ trong Chính Phủ và ông Ngô Ngọc Đối làm Tổng Úy Trưởng.. Trước ông
Nguyễn Ngọc Đối (21/8/1954- 4/12/1954), còn có ông Nguyễn Văn Thoại (từ
10/8/1954 – 21/8/1954), và sau đó là Bs Phạm Văn Huyến (từ 4/12/1954
-17/5/1954), ông Bùi Văn Lương (từ 17.5.1955 về sau) làm Tổng ủy Trưởng.
Thực
sự tổng số di dân được phân bố theo tôn giáo như sau: Tin Lành (1.041 người);
Phật giáo: (182.817 người); Công giáo: (676.348 người), và khoảng (40.000)
người Hoa cũng di cư vào Nam(= 900.206 người). Vì số di dân Công Giáo
chiếm tỷ lệ nhiều đến 70% tổng số di dân từ miền Bắc xuống miền Nam, một Ủy Ban
Hỗ Trợ Định Cư được rổ chức bên cạnh Phủ Tổng Ủy Di Cư. Giám Mục Phạm Ngọc Chi
được bổ nhiệm điều hành.
Tổng
số di dân từ miền Bắc có thể vào miền Nam là 875.478 người. Họ được chuyển đến
Sài Gòn, Vũng Tàu hay Nha Trang và nhiều nơi khác tùy ý họ lựa chọn theo cá
nhân hay theo các đoàn thể do các linh mục di cư hướng dẫn. Chủ yếu nhiều trại
định cư về sau được tổ chức bố trí thành các ấp chiến lược hay khu trù mật hay
dinh điền.
Linh
mục Cao Văn Luận chú ý đến ý đồ chiến lược của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm lúc đó:
Ông
(Ngô Đình Diệm) chú ý đặc biệt đến giá trị chiến lược và kinh tế của vùng cao
nguyên và đặt kế hoạch đinh cư đồng bào di cư Nghệ Tĩnh Bình tại các vùng Ban
Mê Thuột, Tuyên Đức, Đà Lạt, số người di cư được định cư khá sớm tại các trại
như Hà Lan A, Hà Lan B, Đức Lập, Bình Giả, Phan Thiết, Tân Bình (Khánh Hòa),
Cam Ranh… Tôi (LM Cao Văn Luận) có nghĩ đến cách hòa đồng dân di cư vào dân địa
phương, nhưng không có dịp nói ra, và tôi cũng nhận thấy sự khó khăn quá lớn
trong việc đó (t. 200) .
Theo
ông Trần Vinh, tới ngày 21 tháng 8, mỗi ban ngành đều có đại diện của Phủ Tổng
Ủy Di Cư. Phủ Tổng ủy với 3 nhiệm vụ rõ rệt: – Cứu trợ và di chuyển. – Kiểm
soát và tiếp cư. – Giúp đỡ định cư.
Về
phía tư nhân, ngay từ những ngày đầu, có nhiều đoàn thể cách mạng, hội đoàn
Công giáo, Dòng Chúa Cứu Thế, Đại Chủng viện, v.v., lo tổ chức việc tiếp cư tại
phi trường Tân Sơn Nhất và bến tầu Sài Gòn.
Mãi
đến tháng 8 năm 1954, Giáo hội Công giáo thành lập Ủy Ban Hộ Trợ Định Cư do
giám mục Phạm Ngọc Chi phụ trách. Văn phòng HTDC đặt cạnh nhà thờ Huyện Sĩ, Sài
Gòn. Ủy ban cử các linh mục tới mỗi trại tạm cư và trại định cư làm đại diện.
Ủy
ban giúp Phủ Tổng Ủy duy trì trật tự, an ninh; cấp phát, phân phối tiền bạc,
thuốc men, vải vóc; phụ trách các hoạt động văn hóa, tinh thần. Ủy ban cũng vận
động các tổ chức từ thiện quốc tế ủng hộ tinh thần, vật chất cho đồng bào di
cư. Ủy ban còn bênh vực, tố cáo trước dư luận thế giới về những vụ việc Cộng
Sản ngăn cản, bách hại những người muốn di cư đi tìm tự do.
Ngoài
2 tổ chức kể trên, còn có các tổ chức khác cũng tích cực tham gia giúp đỡ như:
Văn Phòng Viện Trợ Công Giáo Hoa Kì do Mgr. Joseph Harnett phụ trách; Văn Phòng
Thanh Thương Hội Phi Luật Tân; Rotary Club; Hội Cứu Trợ Pháp; Báo Figaro quyên
giúp 35,000,000 quan Pháp (1955).
Tổ
Chức Ấp Chiến Lược
Thời
gian từ đó đến nay đủ những nhiều đàm tiếu và nhận định khác nhau để có thể phê
phán được các vấn đề của lịch sử. Theo Tiến sĩ Lâm Thanh Liêm, nguyên giáo sư
kiêm trưởng ban Ðịa lý trường Ðại Học Văn khoa Sài gòn, giảng dậy tại các viện
đại học Sài Gòn, Vạn Hạnh, Ðà Lạt, Huế, Cần Thơ, Minh Ðức trước năm 1975,
“Chính Sách Cải Cách Ruộng Đất Việt Nam (1954-1994),.”, đã tổng hợp rõ về cơ
cấu tổ chức và lợi thế của kế sách Khu trù mật như sau:
Khu
Trù Mật là một cộng đồng nông nghiệp được chính quyền thành lập và tập trung
thôn dân vào đấy sinh sống ở những địa phương nào chưa an toàn. Các thôn dân
sinh sống trong những vùng hẻo lánh, xa cách các giao lộ, khó kiểm soát. Trước
mưu toan Miền Bắc dùng chiến tranh xâm lược Miền Nam , Tổng Thống Diệm quyết
định tập trung thôn dân sinh sống rải rác vào Khu Trù Mật, để tiện tổ chứcxây
dựng và nâng cao, phát triển đời sống của họ, đồng thời bảo vệ họ, cô lập họ
với Việt Cộng, giống như bắt cá khỏi nước mà du kích Cộng Sản vẫn thường bám
vào dân để sinh sống Thiếu dân và các nguồn lợi, quân dân cán chính có thể nhận
diện được du kích mà loại trừ.
Mỗi
KTM có khoảng 3.000 đến 3.500 dân, có hạ tầng cơ sở và các tiện ích giống như
một thành phố.
Vì
thế các KTM dọc theo biên giới hoặc xung quanh một thành phố lớn, để tạo một
vành đai an ninh. Ðồng thời Khu Trù Mật cũng là đơn vị kinh tế, thị trường tiêu
thụ các nông sản và các chế phẩm tiểu thủ công nghiệp. Chính phủ cấp phát cho
mỗi gia đình định cư một mảnh đất 3.000m2, để xây cất một ngôi nhà (với vật
liệu do chính quyền địa phương cung cấp), một chuồng heo và một chuồng gà. Mỗi
gia đình có một mảnh vườn cây ăn trái hoặc một mảnh vườn rau để tự túc mưu
sinh.
Về
quân sự, bố phòng, KTM là những địa điẻm chiến lược để bảo vệ dân chúng chống
lại chiến tranh du kích xâm lược của Cộng Sản Bắc Việt. Ngoài việcquàn lý dân
chúng, chính quyền địa phương còn được trang bị vũ khí cần thiết, để nếu cần,
có thể biến KTM thành một tiền đồn, ngăn chặn đoàn quân Bắc Việt xâm nhập
vào Nam.
Về kỹ
thuật, KTM có vị trí được được chọn lựa kỹ lưỡng, có đủ các điều kiện phát
triển thuận lợi, như đất đai phì nhiêu, gần các giao lộ và điện khí hóa.
Về
hành chánh va xã hội, KTM có một chi nhánh bưu điện), cơ sở xã hội, như một bảo
sanh viện, một nhà trẻ) và văn hóa như các trường tiểu học và trung học
cấp I, một phòng thông tin, nhà thờ và chùa chiền.
Chính
quyền có thể cải thiện điều kiện sinh sống của thôn dân: việc tập trung dân cư
cho phép chính phủ thực hiện nhiều công trình phục vụ nhân dân, ít đòi hỏi
nhiều tư bản đầu tư hơn hình thức cư trú lẻ tẻ, rải rác (chẳng hạn như công tác
thủy nông, điện khí hóa, xây cất trường học, nhà bảo sanh v.v…)
Về
kinh tế, KTM có các tiện ích thương nghiệp và dịch vụ (có chợ xây bằng gạch với
các tiệm buôn bán); công nghiệp có các tiểu thủ công nghệ liên hệ với nền nông
nghiệp địa phương; nông nghiệp, với diện tích đất trồng có thể mở rộng nhờ khẩn
hoang thêm đất đai giúp các thế hệ trẻ tương lai tiền lên thành điền chủ:
Có
Bao Nhiêu Ấp Chiến Lược Trên Lãnh Thổ VNCH
Ngoài
các làng xã thôn ấp chiến lược địa phương, tổng số các địa điềm định cư có thể
biến thành khu trù mật, hay ấp chiến lược, dinh diền hình dung như sau:
“Tính
đến ngày 30 tháng 10 năm 1955 đã thành lập được 255 trại định cư (sau này còn
thành lập thêm): 156 trại tại Nam phần, 65 trại tại Trung phần và 34 trại trên
cao nguyên. Tổng số dân đi định cư là 596.031 người; số đồng bào di cư sống rải
rắc các nơi là 140.039 người; gia đình binh sĩ là 125.393 người (những con số
này có sai biệt chút ít giữa các bản thống kê, một phần cũng do số sinh tử mỗi
ngày).
Ngân
khoản dành cho chương trình di cư là 1.058.000.000$. Trong số đó 480 triệu dành
để làm nhà sẵn cho đồng bào và 300 triệu cấp cho nơi nào đồng bào tự làm nhà
lấy. Tại các trại có đợt phát tiền mặt cho mỗi đầu người 700$. Ngoài ra đồng
bào còn được 124.813 dụng cụ canh nông; 681.585 kiện vải; 393.994 kg chỉ và
3.471 kg chì để làm chài lưới”
Robert
Scigliano (Robert Scigliano: Vietnam: Politics and Religion. Asian Survey, Vol.
4, No. 1, A Survey of Asia in 1963: Part I (Jan., 1964), pp. 666-673. This
article consists of 8 page(s)), giáo sư tại trường Ðại Học Michigan, cho biết
Cộng Sản Hà Nội chống lại chính sách khu trù mật. Thể chế này có tác dụng hữu
hiệu là ngăn chận Cộng Sản xâm nhập vào nông thôn, vì được xây dựng ở các vùng
chiến lược, như dọc theo một trục đường chính, một giao lộ trên bộ hay trên
sông rạch gây trở ngại rất nhiều cho việc di chuyển của Cộng Sản.
Tác
Giả Nguyễn Văn Châu, cựu Trung Tá, nguyên Giám đốc Nha Chiến Tranh Tâm lý, Bộ
Quốc Phòng Trong cuốn “Ngô Ðình Diệm En 1963: Une Autre Paix Manquée” (Bản dịch
Nguyễn Vy Khanh từ nguyên tác Pháp văn, Luận Án Sử Học, Trường Đại Học Paris
VII, 1982. Bản tiếng Việt do nxb Xuân Thu, Nam Cali, 1989) cho rằng Khu Trù Mật
do chính quyền sáng kiến bị chỉ trích vì chỉ nhắm vào những chuyện tiêu cực về
nhân sự, Những dư luận chống lại quốc sách ấp chiến lược còn đi xa hơn nữa cho
rằng chính quyền ép buộc dân bỏ làng mạc nhà cửa.
Ngày
nay đọc Suzanne Labin, người ta rút ra được bài học lịch sử về chính sách ấp
chiến lược. Bà là một nhà văn kiêm phân tích gia đã nhiều lần tới thăm Miền Nam
Việt Nam dưới thời Việt Nam Cộng Hòa I. Bà từng được Tổng Thống Ngô Ðình Diệm
tiếp kiến, và đã thuyết trình về chính trị tại Sài gòn. Trong cuốn “Vietnam: An
Eye-Witness Account – Việt Nam: Tường Thuật Của Một Nhân Chứng Thấy Tận Mắt” ,
Suzanne Labin đã viết:
“Khi
nhà Ngô bị lật đổ, có tám ngàn ấp chiến lược đã được thành lập xong và đang vận
hành, với dự trù khoảng bốn ngàn ấp nữa cần thiết để bảo vệ cả nước. Nông dân
sống rải rác dọc theo các con kênh, được yêu cầu dời chuyển để qui tụ lại thành
nhiều làng, tập trung theo kiểu Âu châu. Mỗi làng được rào vững chắc bằng hàng
rào kẽm gai hoặc hàng rào tre vót nhọn đàng sau có tăng cường hệ thống hào
rộng, gài mìn để chận đứng Việt Cộng mò vào ban đêm. Trong ấp, mỗi gia đình đều
được khuyến khích đào một hầm trú ấn ngay trước nhà họ.
Tại
sao vậy? Khi Việt Cộng tấn công, trước đây người dân thường quá sợ nên nên chạy
tứ tung gây trở ngại cho lực lượng bảo vệ nhiều khi bắn cả vào người nhà mình.
Từ khi có hầm trú, người già và trẻ con cứ việc núp dưới hầm để xạ trường quang
đảng cho lực lượng chiến đấu hành sự”
“Người
dân làng được đoàn ngũ hóa theo tuổi tác, giới tính, và tùy theo khả năng mà
được giao cho một phần vụ đặc biệt. Lực lượng tự vệ và thanh niên cộng hòa là
những đơn vị chiến đấu; những dân làng khỏe mạnh khác thì tham gia công tác
phòng vệ, thanh thiếu niên thì vót chông. Người có nhiệm vụ chiến đấu
được cấp vũ khí cá nhân mang luôn bên mình ngay cả khi ở nhà. Nhiều làng được
trang bị thêm xe thiết giáp hoặc súng liên thanh. Máy truyền tin được cung cấp
giúp cho các người bảo vệ ấp chiến lược có thể gọi ngay lực lượng chính quy đến
một khi bị tấn công. Nhiệm vụ chính của làng là cầm chân kẻ thù, vô hiệu hóa
chúng ngoài các vành đai của ấp, cố ngăn chúng không lủi mất vào rừng trong khi
lực lượng chính quy kéo tới. Bấy giờ, Việt Cộng thấy quá khó khăn khi xâm nhập
một vùng dân cư có phòng thủ và ngay cả rút lui cũng thấy nhiều trở ngạị”
Bà
còn nhắc lại câu nói cô đọng của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm: Muốn nghiền nát quân
thù cần chiếc búa có sức mạnh năng động dập trên đe ấp chiến lược. Ấp chiến
lược tồn tại vì đã đưa lại nền tảng đa hiệu vững chắc cho tiến bộ kinh tế xã
hội. Âp chiến lược chính là tâm điểm cuộc cách mạng chính trị và xã hội
Chính
sách ấp chiến lược được thực hiện từ năm 1961 là một kế hoạch táo bạo nhất của
Tổng Thống Ngô Ðình Diệm. Kế hoạch ấy được Sir Robert Thompson cố vấn.
Ông là chuyên viên về chiến thuật phản nổi dậy người Anh cùng với hai người bạn
là Desmond Palmer và Dennis Duncanson
Nhận
định tổng quát về kết quả của chính sách ấp chiến lược, tác giả Nguyễn Văn Châu
đã khẳng định trong luận án của ông:
Quốc
sách Ấp chiến lược sau hai năm đã ngăn chặn thành công. Việt Cộng không còn
sống bám lén lút trong nhân dân.
Vấn
đề an ninh làng ấp được vững vàng hơn, quân đội chính quy quốc gia trở thành
lực lượng hành quân chủ động.
Du
kích cộng sản chịu nhiều thất bại đáng kể, khiến cho chúng phải rơi vào thế bị
động và chao đảo sau khi đã mất hạ tầng cơ sở.
Tinh
thần quân đội quốc gia lên cao, dân chúng được bảo vệ tốt hơn và du kích Việt
Cộng càng ngày càng hồi chánh về đầu thú với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Trong
một bài báo mới đây nhan đề “Bốn Mươi Năm Ngày Đảo Chính Chế Độ Ngô Ðình
Ðiệm: Cái Nhìn Từ Hà Nội, Tạp chí Thông Luận số 174, tháng 10-2003.”, Bùi Tín,
nguyên Phó chủ nhiệm Nhật báo Nhân Dân Chủ Nhật, cựu đại tá của Bộ Đội Bắc Việt
đã phải xác nhận ưu thế của quốc sách ấp chiến lược đã gây cho lực lượng xâm
lăng Cộng Sản nhiều khó khăn và thất bại trước đây, đã thẳng thắn bày tỏ rằng :
Cùng với thời gian và sự tìm hiểu những tư liệu lịch sử, tôi thấy cần phải trả
lại lẽ công bằng cho nhân vật lịch sử này… Tôi cho rằng ông Diệm là một nhân
vật chính trị đặc sắc, có lòng yêu nước sâu sắc, có tính cương trực thanh liêm,
nếp sống đạm bạc giản dị.
Bởi
thế, những nhận xét của tác giả Nguyễn Bá Cẩn về khu trù mật, rồi ấp chiến lược
như đã trích dẫn ở trên có phải là những quan điểm nông nổi chăng, hay là do
một tư duy thiên kiến nào đó thúc đẩy ông viết nên những câu đáng lẽ cần được
cân nhắc hơn, từ một người làm chính trị ở vào một trong những vị thế lãnh đạo
Miền Nam trước đâỵ. Thực tế chính trị Miền Nam Việt Nam cho thấy sự lợi hại của
quốc sách Khu trù mật qua sự chứng kiến không chỉ của dân Miền Nam mà cả rất
nhiều giới ngoại quốc.
Trong
cuốn “Nation That Refused to Starve: The Challenge of the New Vietnam , Tướng
John W. O’Daniel, chỉ huy phái bộ Quân sự Mỹ đầu tiên, đã ca tụng chính sách
tiếp cư chu đáo của Ông Ngô Ðình Diệm, thành công của các khu trù mật mà tiêu
biểu là Cái Sắn, chương trình dinh điền ở Quảng Ðức, Ban Mê Thuột…
Chương
trình cải cách điền địa thực hiện dưới thời Việt Nam Cộng Hòa I cho người nông
dân cuộc sống bảo đảm tương lai với các con số sau đây:
Từ
tháng 7 năm 1954 tới tháng 7 năm 1961 có tất cả 648.294 mẫu tây được phân phối
lại cho nông dân, 301.923 mẫu tây đất nhà nước mua lại để phát cho nông dân.
Một tổng cộng 950.217 mẫu tây mà chính quyền trưng mua lại của các đại điền chủ
với giá 1.260.559.427 đồng. Trong khi đó các nông dân chủ điền mới chỉ phải trả
1.822.116 đồng vào năm 1961.
Nhiều
tư liệu lịch sử khác xác nhận thành quả quốc sách ấp chiến lược, khu trù mật,
dinh điền, và chương trình cải cách điền địa nói trên.
Tóm
lại, Ấp chiến lược là một “quốc sách” của chính quyền Việt Nam Cộng hòa I sử
dụng trong Chiến tranh Việt Nam từ năm 1960 do chính quyền Ngô Đình Diệm đề
xuất, đối phó hữu hiệu với Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam.
Quan
điểm của Việt Nam Cộng hòa I về Ấp chiến lược là nhằm mục đích tách rời du kích
Cộng Sản Việt Nam dưới chiêu bài Mặt trận Dân tộc Giải Phóng Việt Nam ra khỏi
dân thường ở nông thôn. Dân chúng không phải sống trong vùng oanh kích tự do,
hay “vùng xôi đậu”, loại trừ đối phương có cơ sở hoạt động “tam cùng” (cùng ăn,
cùng ở cùng làm) trong dân chúng, dần dần cô lập hoàn toàn lực lượng du kích
khỏi nông thôn.
Nhưng
để chống lại chính sách đó, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam tuyên
truyền đây là hình thức gom dân, nhốt dân, kìm kẹp dân hòng “tát nước bắt cá”.
Kế hoạch ấp chiến lược khi được thực hiện tốt sẽ cô lập lực lượng vũ trang cộng
sản không thể dựa vào dân, và dần dần Việt cộng bị tiêu diệt.
Ấp chiến
lược tổ chức theo hình thức “tự quản, tự phòng và tự phát triển“. Quản lý ấp là
một Ban Trị Sự, phòng thủ bảo vệ ấp là lực lượng Phòng Vệ Dân Sự, phối hợp với
các đơn vị Thanh Niên, Thanh Nữ Cộng Hòa của ấp đó phụ trách.
Khi
ấy, tất cả các ấp đều được bảo vệ bởi các rào cản kiên cố, mỗi ấp đều có một
hoặc nhiều chòi canh tầm nhìn xa, các cổng ra vào được canh gác cẩn mật. Ban
ngày, người dân được tự do ra vào để làm ăn, tuy nhiên người lạ muốn vào ấp
phải qua sự kiểm soát vô cùng chặt chẽ. Ban đêm, các cổng ra vào được đóng kín
lại, nhưng các trường hợp cấp thiết của dân ở bên trong vẫn được giải quyết.
Mọi trường hợp xâm nhập lén lút, bất hợp pháp từ bên ngoài vào đều bị phát hiện
vì trong ấp có hệ thống báo động.
Ban
đầu, Quốc sách Ấp chiến lược thực hiện hiệu quả, hoạt động của quân du kích
cộng sản bị ngưng trệ. Tuy nhiên, trong khi thi hành thì nhiều viên chức lấy
ngân sách Ấp chiến lược rồi bắt dân phải gánh chịu khoản này như phải nộp tiền,
công sức và tre để làm hàng rào cho ấp. Vì thế, dân cảm thấy bị gom vào một chỗ
sẽ làm xáo trộn một phần nào nếp sống cổ truyền nông thôn của họ. Vì thế, phía
Cộng sản đã phát động phong trào “phá ấp chiến lược”.
Thử
Đi Đến Một Kết Luận
Người
ta có thể có nhiều nhận định phán đoán khác nhau về con người Ngô Đinh Nhu hoạt
động trong hoàn cảnh một chế độ đã diễn ra. Đã có những phán đoán phê phán về
những khuyết điểm của chế độ Ngô Đình Diệm như độc tài, gia đình trị, công giáo
trị. Trong chừng mực nào, người ta có thể chấp nhận những phê phán như thế, nếu
chỉ xét một cách chủ quan, tương đối, có thiên kiến phần nào.
Nhưng
xét trong bối cảnh toàn cuộc, chế độ Ngô Đình Diệm đã phải ứng phó với nhiều
đoàn thế đối lập như nỗ lực xâm nhập và phá hoại đa diện của Cộng sản miền Bắc,
như nhiều đảng phài có những quyền lợi khác nhau có căn bản ở nhiều thế lực
chính trị và tôn giáo: xu hướng Cao Đài, Bình Xuyên, nhiều giáo phái Phật Giáo
(Phật Giáo Hòa Hảo, Phật Giáo Thống Nhất, Phật Giáo Nguyên Thủy Cổ Sơn Môn,
Phật Giáo Tiểu Thừa, Phật Giáo Đại Thừa,… ), Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng,
Bảo Hoàng thân Pháp, phong trào đòi độc lập tự trị của nhiều nhóm dân tộc thiểu
số,…
Trước
thực tại xã hội đó, việc xây dựng một xã hội tự do dân chủ và tôn trọng nhân vị
vừa đối kháng với Cộng Sản chuyên chính, vừa nỗ lực đoàn kết toàn dân có lập
trường chính trị và tôn giáo khác nhau, không phải là một chính sách đơn giản,
dễ dàng. Nhưng Ngô Đình Nhu và những người cùng chủ trương đã xây dựng một
chính cương (chủ nghĩa nhân vị) chỉ đạo các chính sách như dinh điền, khu trù
mật, ấp chiến lược để vừa xây dựng vừa chiến đấu. Trong tình thế đó, chắc chắn
quyền tự do, dân chủ và nhân quyền chỉ được áp dụng đến một chừng mực nhất định
trong một xã hội theo cái nhìn của chủ nghĩa nhân vị và các tổ chức xã hội,
nhầt là thanh niên làm công cụ thực hiện các chính sách. Đoàn kết toàn thể quân
dân cán chính để xây dựng xã hội.
Nhưng
nhận thức của toàn dân không triệt để, nhiều chính trị gia và tướng lãnh đồng
lõa với những mưu đồ cá nhân và bị nước ngoài mua chuộc, lực lượng đồng minh
Hoa Kỳ không kiên trì và trung thành trong cuộc xây dựng và chiến đấu, trong
khi Cộng Sản xúc tiến phối hợp các mưu đồ đánh phá chế độ xã hội miền Nam, ra
sức khai thác và phóng đại những khuyết nhược điểm khó tránh khỏi của chế độ.
Những yếu tố đó đã đưa chế độ Ngô Đình Diệm chủ yếu do tập thể Ngô Đình Nhu
kiến trúc nên đã bị thất bại trong chính biến có nội công ngoại kích tháng 11
năm 1963.
Đối
chiều với thực tại chính trị Việt Nam hiện nay, người ta càng thấy rõ mưu lược
của nhà kiến trúc xã hội như Ngô Đình Nhu vậy.
Hoà Giang
Đỗ Hữu Nghiêm
Một
Số Sự Kiện Với Năm Tháng Có Ý Nghĩa:….
TT Thời gian Sự Kiện Nhân Vật
06.1954, Cannes Quốc trưởng Bảo Đại ủy nhiệm cho ông
Ngô Đình Diệm lập nội các mới.
25.06.1954, Sàigòn Ông Ngô Đình Diệm về Việt Nam
21.07.1954, hay 20/07/1954 Genẻve 14 Nước Ký Kết Hiệp Định
06.08.1954-23.8.1963 Hoa Kỳ Ông Trần Văn Chương, đại sứ t ại Hoa
Thịnh Đốn
07.09.1954 Sài Gòn Pháp trao trả Dinh Norodom, Chính Phủ Ngô
Đình Diệm đổi tên thành Dinh Độc lập
20.09.1954 Việt Nam Lê Văn Viễn (tức Bảy Viễn) trở về
23/10/55VN N ĐD tổ chức trưng cầu dân ý. Ông NĐDiệm đạt 98.2% số phiếu, làm
Tổng Thống, Bảo Đại bị truất phế
Các tướng lãnh Nguyễn
Văn Hinh, Nguyễn Văn Vỹ, Trần Văn Đôn ban đầu thời Thủ Tướng Ngô Đình Diệm
Nhóm
nòng cốt chuẩn bị cho Thủ Tướng Ngô Đình Diệm: Hoàng Bá Vinh, Cao Xuân Cẩm, Cao
Xuân Mỹ, Đỗ La Lam, Hà Đức Minh, Trần Kim Tuyến, Phạm Văn Nhu, Nguyễn Vỹ, …Nhị
Lang, Hồ Hán Sơn, Nguyễn Bảo Toàn, Nguyễn Thành Phương, Văn Ngọc, Hà Huy Diễm,
Nguyễn Phổ, Hoàng Cơ Thụy, Nguyễn Hữu Khai, Huỳnh Minh Ý, Đoàn Trung Còn,
Nguyễn Văn Quyền, (Nguyễn Trãi) Nguyễn Mạnh Cường, Nguyễn Trọng Ứng, Khuất Duy
Trác, Cung Thúc Tiến, Trần Chánh Thành (tự sát dịp 30/4/1975 tại nhà ở Sàigòn),
Trình Minh Thế (chết 03.05 1955), Lý Kai (chết 14.07.1956), Nguyễn Hữu Châu,
Lương Danh Môn, Võ Văn Hải
31.02.56 Ngô Đình Luyện, bạn học với Tạ Quang Bửu, cố vấn, đại sứ
lưu động, toàn quyền tại London
Nguyễn Thị Nghĩa, em
ruột Nguyễn Đệ, Couvent des Oiseaux
Trần Văn Đỗ, Ngoại
Trưởng
1956 Ngô
Đình Nhu, cố vấn
1/59 Luật
gia đình: 135 điều, cấm ly dị, cấm đa thê, truất quyền của con ngoại hôn, Trần
Lệ Xuân dự thảo và trình Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa ngày 13.12.1957
Đoàn Thêm, Đổng Lý Văn
Phòng
Trần Quốc Bửu, Chủ Tịch
Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam
11.11.60 Mưu toan lật đổ chế độ lần 1: Đảo chính: Phan Quang Đán,
Hoàng Cơ Thụy, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Thành Phương, Bùi
Lượng, Phan Bá Cầm, Vương Văn Đông, Nguyễn Chánh Thi, …
1960-63 Phong Trào Áo dài Bà Nhu.
27.02.1962 Chính biến l ần 2: Oanh tạc Dinh Độc Lập: Phạm Phú Quốc –
Nguyễn Văn Cử- Nguyễn Xuân Vinh.
01.03.63 (6.2) Tượng Hai Bà Trưng.
05/05/63
Huế Lễ Mừng TGM Ngô Đình Thục. Cờ VN va cờ
Vatican.
08/05/63
Huế Đại Lễ Phật Đản 2507treo cờ VN nhưng không
được treo cờ Phật Giáo ngoài khuôn viên các Chùa. Biểu tình phản đối. 9 người
chết có cả trẻ em, 20 người bị thương. Phật Giáo có 10,5. Công Giáo có 1,5.
Quan hệ Mỹ Việt bắt đầu căng thẳng
09/05/63 Phật Giáo đòi 5 điểm:
1/.
Hủy lệnh cấm treo cờ Phật
2/.
Phật Giáo phải bình đẳng Công Giáo
3/.
Không được đàn áp Phật Giáo
4/.
PG được quyền thờ phượng theo tín ngưỡng của mình
5/.
Chính quyền phải bồi thường những thiệt hại cho Phật Giáo và trừng trị những người
có trách nhiệm trong việc đàn áp PG ngày 08/05/1963
12/05/63 Phái đoàn PG gồm 8 người từ Huế vào Sài Gòn kiến nghị Tổng
thống
28/05/63 T.T Thích Tịnh Khiết kêu gọi Phật Tử xuống đường.
Tại
Huế, cả ngàn người xuống đường. Tại SG, nhiều tằng ni Phật Tử xuống đường ,
tuyết thực 48 giờ trước Quốc Hội. Đại sứ F. E. Nolting vắng mặt khỏi SG, ĐS
W.C. Trueheart giải quyết
2/6/63
Huế Hằng trăm sinh viên biểu tình bạo động,Huế
giới nghiêm
4/6/63 Trueheart gặp Nguyễn Đình Thuần, BTPTT, nhưng bất đồng
7/6/63 Bà Trần Lệ Xuân ca ngợi tổ chức Phụ Nữ Liên Đới và cho các nhà lãnh
đạo PG bị CS giật giây
11/6/1963 HT Thích Quảng Đức, 73 t, tẩm xăng tự Thiêu ở ngã tư Lê Văn
Duyệt Phan Đình Phùng. Bà Nhu tuyên bố “Tất cả các lãnh đạo PG đóng góp vào
quốc gia là nướng một nhà sư”
16/6/63 Uy Ban CP va PG ký Thông Cáo Chung. Truyền thong Mỹ chỉ
trích chính quyền NĐD. TT Trí Quang (sinh 1922) thay thể TT Thích Tịnh Khiết
25/6/1963 Trưởng CIA John Richardson không giải quyết được mâu thuẫn CP
và PG. Ông Nhu đòi làm mạnh và chống PG vì không chống Cộng.
Những ngày cuối tháng 6/63 Đại Sứ Trueheart đe dọa chính quyền NĐD,
nên NDD trở nên độc lập với áp lực Mỹ hơn. Vai trò Nolting được trọng dụng.
Nhưng Kennedy muốn thay thế
Tháng 7-8/1963 Áp lực gia tăng
11/7/63 Nolting trở lại Sàigòn thuyết phục NDD hòa giải với PG
18/7/63 Nolting cố thuyết phục NDD. NDD chịu lên Đài Phát Thanh.
Vụ tự thiêu thứ 2 xảy ra
19/2/63 TT lên Đài PT chỉ hai phút, chỉ hứa có UB diều tra về
việc xảy ra. Cảnh sát vẫn bao vây chùa
23.07.1963 Trần Thanh Chiêu, TGĐ dân vệ đoàn,
5/8/63
Phan
Thiết Nhà sư Nguyên Hương tự thiêu
13/5/63
Huế 1 nhà sư quấn cổ tự thiêu. Ni cô tự thiêu
tại một nhà thờ Cg. 1 sư 71 t tự thiêu ở Chùa Từ Đàm
14/8/63 Nolting từ biệt NDD về Mỹ, Henry Cabot Logde đến thay thế
15/8/63 Nolting rời Sàigòn. NDNhu cảnh giác Mỹ có thể thay đổi
chính sách
20/8/63 NDNhu cho enh bao vay tấn công chùa tại Xá Lợi, tại Từ
Đàm: 30 chết, 200 bị thương, bắt giam 10xe chơ người
21.08.1963 Bố ráp Chùa. LL Đặc Biệt và Dã chiến tấn công 2000 chùa trên
toàn quốc, bắt 1400 tăng ni, 50-100 người chết. Mỹ lên án NDD. ở Hoa Thịnh Đốn
và Honolulu. Cả nước thiết quân luật. Sinh viên bất tuân, xuống đường. Vũ Văn
Mẫu từ chức cùng với Đại sứ Mỹ Trần Văn Chương
22/8/1963 ĐS Cabot Lodge đến Sàigòn 9.30 tối
23.08.1963 Lucien Conein được TVDôn mời đến Bộ TTM trao thu cho Cabot
logde noi la quân đội không nhúng tay vào vụ PG. LV Kim phụ tá Trần Văn Đôn đòi
loại NDNhu. Võ Văn Hải hứa bảo vệ TT NDD neu quan doi loai Nhu. R. Hilsman va
Averell Harriman đều tỏ ý không ủng hộ chế độ NDD
24/8/63 Cabot Logde liên lạc với Bộ Ngoại Giao và tòa Đại Sứ Mỹ
phối hợp với tướng lãnh VN làm đảo chính chế độ NDD
Bộ
Ngoại Giao gởi TĐS Mỹ tại Sài Gòn để thi hành ngay. Tối mật. Không được phổ
biến. Chỉ đích thân Đại Sứ Cabot Lodge mới được phép đọc. Đối với CINPAC/POLAD
thì chỉ Đô Đốc Felt được phép đọc
Theo
CAS Sài Gòn 0265 báo cáo về quan điểm của Tướng Đôn; Sàigòn 320, Saigon 316.
Sàigòn 329
Bây
giờ thì rõ là hoặc quân đội đề nghị thiết quân luật, hoặc Ông Nhu đã lừa họ.
Ông Nhu đã lợi dụng tình trạng đó để tấn công Chùa chiền bằng Cảnh Sát và Lực
Lượng Đặc Biệt của Đại Tá Tung trung thành với ông, làm cho nhân dân Việt Nam
và thế giới ngờ rằng quân đội làm. Hơn nữa cũng thất quá rõ rang là ông Nhu đã
âm mưu sắp đặt ông ta vào vị trí chỉ huy.
Chính
phủ Hoa Kỳ không thể dung dưỡng tình trạng mà quyền bính lại nằm trong tay ông
Nhu và các thuộc hạ của ôngđể thay vào đó bằng những quân đội tinh nhuệ và
những chính trị gia có tư cách.
Nếu
Ông (Cabot Lodge) cố gắng hết sức, nhưng ông Diệm vẫn ngoan cố và từ chối thì
chúng ta phải đối đầu với một điều có thể xảy ra, là ngay cả bản thân ông Diệm
cũng không thể tồn tại được.
Kỳ
tên: Hilsman, Ball, W. Averell Harriman 24/8/63
25/8/63 ĐS Lodge báo cáo đã nhân được, nhấn mạnh mọi việc vẫn từ
Hoa Thịnh Đốn
26/8/63 Các Cố Vấn TT Mỹ chia 2 lập trường: Taylor muốốn có thảo
luận thêm bức điện trên, và phe Mc Cone thấy tư cách xứng đáng của TT NDD, khó
thay thế. Cuối cùng mọi người thấy cần phải dè dặt và giữ lại NDD, loại NDNhu
thôi. VOA phổ biến vội lập trường Mỹ mà Lodge chưa gặp NDD. Nhưng các tướng
Minh, Khiêm và Khánh đã được liên lạc
27/8/63 TT Kennedy họp với các cố vấn cao cấp, trong đó có
Nolting. Muốn loại bỏ Nhu nhưng hai anh em như gắn bó như cặp bài trùng.
TTKennedy vẫn giữ lập trường điện văn ngày 24/8/1963
29/8/63 Kennedy tin giao mọi trách nhiệm cho Cabot Lodge
30/8/63 Kennedy sợ có cảnh tắm máu tại Sàigòn nên cho báo động
các nơi ngoài khơi dự trù
31/8/63 Tướng Minh báo cho Richardson biết kế hoạch đảo chánh
phải hoãn lại, vỉ sự thân thiết Richardson với TT NDD có thể bại lộ cuộc đảo
chánh.
04.09.1963 Họp báo tại Dinh Gia Long
09.09.1963 Bà Trần Lệ Xuân đi dự HNQT tại Nam Tư 10.09.1963 (11-19.09.63),
đến Rôma: 22.09.1963
29.9.1963 Đến Paris
07.10.63 – 13/11/63 Đến Mỹ: đến Idlewild, hạ viện Mỹ 8.10.63,
đến New York 09.10 (Hotel Waldrof-Astaria), 14.10, tới Harvard, MA. 03.11. ở
Hotel Beverly Wilshire, Beverly Hills-13.11, sắm đồ ở New York (Barclay Luggage
Shop), với tiền hóa đơn 52.045US$
Ngô đình Lệ Thủy:
07.08.1945, Huế
12.04.1967 Paris
Nguyễn Thị Thuần, thư ký
riêng của Bà Nhu
Nhóm mật vụ miền Trung:
Dương Văn Hiều, Nguyễn Tư Thái, Nguyễn Thiện Dzai
11.63 Vị tướng cầm đầu đảo chính lật đổ chế độ Tổng Thống Ngô Đình Diệm:
Đại Tướng Dương Văn Minh.
01-2.11.63 Thiếu Tướng Đỗ Mậu, Các tướng lãnh Tôn Thất Đính, Trần Thiện
Khiêm, Nguyễn Khánh, Lê Văn Tỵ, Văn Thành Cao.
Một số nhân vật: Lê Công
Hoàn, Trần Văn Khiêm, Truơng Đình Dzu.
10 giờ đêm 27.7.1986 Ông bà Trần Văn Chương chết, có nhiều nghi vấn
là Trần Văn Khiêm giết cha mẹ để giành gia tài (?)