Một vài suy nghĩ về đạo đức trong bối cảnh văn hóa ngày
nay
Nguyễn Đăng Trúc
Đây không
phải một luận văn,
nhưng chỉ là vài hàng ghi lại một trao đổi bằng điện thư giữa hai người bạn về
một thắc mắc liên quan đến vấn đề đạo đức trong cuộc sống
nhưng chỉ là vài hàng ghi lại một trao đổi bằng điện thư giữa hai người bạn về
một thắc mắc liên quan đến vấn đề đạo đức trong cuộc sống
§ – Câu hỏi
của người bạn:
Thưa ông Nguyễn Đăng Trúc,
Chúng tôi đọc một bài viết gây tranh cãi rất nhiều vì cách lập luận khó hiểu của tác giả.
Bài viết nói về NHỮNG YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH MỘT HÀNH VI LUÂN LÝ LÀ TỐT HAY XẤU.
Bài báo lập
luận như sau:Thưa ông Nguyễn Đăng Trúc,
Chúng tôi đọc một bài viết gây tranh cãi rất nhiều vì cách lập luận khó hiểu của tác giả.
Bài viết nói về NHỮNG YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH MỘT HÀNH VI LUÂN LÝ LÀ TỐT HAY XẤU.
“Mục đích
của luân lý là để xác định tính cách tốt và xấu, thiện và ác của một hành vi.
Vậy căn cứ vào đâu để biết được hành vi này là tốt, hành vi kia là xấu, điều
này được làm và điều kia không được làm? Các chuẩn mực để đo lường giá trị luân
lý của một hành vi nhân linh là luật luân lý và lương tâm của con người, chúng
là nguyên tắc để đánh giá tốt xấu của một hành vi. Theo truyền thống, thần học
luân lý kể ra 3 nguồn để xác định giá trị luân lý của một hành vi nhân linh:
đối tượng, mục đích và hoàn cảnh.
1. Đối
tượng
Là sự vật
mà hành vi chọn để hướng đến, là điều trước tiên mà một hành vi muốn đạt tới,
là mục tiêu của hành vi. Để đánh giá tính tốt xấu của hành vi, ta phải xét xem
đối tượng đó tốt hay xấu. Có nhiều loại đối tượng, nhưng khi xét về giá trị,
luân lý phân biệt hai loại đối tượng: tốt và xấu. Trộm cắp, phá thai, nói dối…
là đối tượng xấu; bảo vệ sự sống, làm phúc, bố thí giúp người, thờ phượng Thiên
Chúa… là đối tượng tốt.
Ví dụ: Phá thai luôn luôn là hành vi xấu, là phá hủy mạng
sống, bất kể làm thế là để tránh bị người đời chê cười hay vì những lý do bệnh
lý.
Đối tượng của một hành vi nhân linh là hậu quả do một hành vi nào đó trực tiếp gây ra. Đó là kết quả luôn luôn có và tất yếu phải xẩy ra của một hành vi, bất kể hoàn cảnh chung quanh hay ý hướng của người làm hành vi ấy là gì. Đối tượng của ấy là hậu quả có liên quan đến bản chất của hành vi. Đối tượng là tiêu chuẩn đầu tiên để xét xem một hành vi tốt hay xấu”.
(…)
Có quá nhiều
điều khó hiểu trong cách lập luận này. Tại sao ĐỐI TƯỢNG của hành vi
nhân linh là một hành vi (phá thai, trộm cắp…). Sau đó lại nói: “Đối tượng
của một hành vi nhân linh là hậu quả do một hành vi nào đó trực tiếp gây ra”.
Kính xin ông
giúp tôi hiểu rõ hơn về vấn đề này.
§ – Trả
lời của Nguyễn Đăng Trúc
Câu hỏi bạn
đặt ra hết sức quan trọng. Tôi không thể nào nói hết trong một vài dòng chữ.
Không phải vì muốn tránh né không trả lời. Cũng không phải từ thâm tâm, tôi đã
không nêu lên câu hỏi đó cho chính mình. Và cũng không phải vấn đề không có gì
để nói.
Nhưng thật
sự đó là tất cả những gì mà sự KHÔN NGOAN và ĐẠO LÝ từ xưa đến nay đã đặt ra,
và luôn còn là vấn đề tranh cãi:
- Những bậc
thánh hiền như Lão Tử hoặc các nhà thần học trường phái thần bí (théologie
mystique) thì cho rằng, lấy sức con người mà đánh giá HÀNH VI này, ĐỐI
TƯỢNG kia là TỐT (Thiện), thì đó là điều bất Thiện rồi [1]. Nói vậy không phải là
chủ trương THIỆN-ÁC không có hay không cần cho đạo làm người, nhưng các
bậc thánh hiền trực giác rằng THIỆN-ÁC không thể tùy tiện đánh giá đo
lường bởi sức con người.
- Cũng có
người, do lòng tin tưởng vào Đạo-Lý TỰ NHIÊN như Mạnh Tử, thì cho rằng THIỆN là
cái HẠO NHIÊN, là cái gì SƠ NGUYÊN (originel) không do bàn tay hay trí
óc con người hoặc xã hội suy diễn hay đánh giá : nhân chi sơ, tính bản
thiện.
- Truyền
thống văn hóa Đông Tây còn có nhiều quan niệm đạo lý khác xuyên qua cá thế kỷ.
Nhưng chung chung, hầu như người ta (chẳng hạn các trường phái stoisme
hoặc épicurisme trong truền thống văn hóa tây phương) thường cho rằng đạo
lý phải được định nghĩa là hợp với TỰ NHIÊN, thuận theo tự nhiên (conforme
à la nature).
- Gần đây
hơn, có hai trường phái đạo đức học quan trọng ở Đức quốc đang chi phối phán
đoán đạo đức của thế giới. Đó là đạo đức học của Emmanuel Kant và
của Max Scheler. Emmanuel Kant thì cho rằng TỐT là một hành vi tương
hợp với luật tự nhiên (lois de la nature) mà lý trí phổ quát (raison
universelle de l’homme) của con người có thể nhận biết. Còn Max Scheler
thì cho rằng đạo đức học của Kant quá hình thức và duy lý (xem Le formalisme
en éthique et l’éthique matériale des valeurs de Max Scheler). Theo
Max Scheler, nền tảng đạo đức phải dựa trên những giá trị tốt, và những giá trị
tốt ấy phải qui chiếu vào phẩm giá cao siêu của con người, một con người được
định nghĩa như một nhân vị có khả năng YÊU THƯƠNG.
Nhưng, khi
ta đọc thật kỷ các kinh sách của các thánh hiền là những vị tiên phong dẫn lối
cho các nền văn hóa Đông, Tây, ta sẽ ngạc nhiên khi chính các vị lại nêu thắc
mắc : Tự nhiên là gì? Phải chăng tự nhiên là toàn bộ những gì hiện hữu,
trong đó gồm luôn cả những gì tài sức con người có thể nghĩ ra và ưa thích? Nếu
tự nhiên kỳ cùng là như thế, thì phải chăng TỐT, XẤU liên quan đến nhân tính và
cuộc sống con người tuyện đối đều dựa trên những luật lệ tự nhiên của vũ trụ,
một vũ trụ mà khả năng con người có thề đo lường ? Bấy giờ, những mặc khải tôn
giáo, những trực giác của các thánh hiền như – “con người mang Phật tính,
vượt lên trên muôn vật, là “linh ư vạn vật”, là hình ảnh Thiên Chúa” – một
Thiên Chúa mà không ai có thể thấy (x. Thư của Thánh Gioan) –, liên quan
thế nào với đạo đức đây?
Nietzsche là
người đã chỉ trích quan niệm quá dễ dãi của truyền thống triết học duy lý cổ
truyền tây phương, khi truyền thống nầy cho rằng cứ thuận theo luật của lý trí
– một lý trí có thể am tường luật tự nhiên – là có đạo đức. Theo ông, nếu cho
rằng một hành vi TỐT là vì nó hợp với phán đoán của lý trí hiểu biết và luật tự
nhiên (như các trường phái đạo đức cổ điển, đặc biệt là Kant, quan niệm),
thì tại sao những hành vi con người làm theo sở thích của mình dựa trên cảm
năng thân xác lại BỊ XEM là không TỐT! Cảm năng, thân xác cũng là tự nhiên và
cũng dựa trên luật tự nhiên. Tự nhiên đâu phải chỉ có lý trí, mà còn bao gồm cả
thân xác và cảm năng nữa !!! Như vậy có thể nói, nếu tiền kiến cho rằng tự
nhiên (Nietzsche gọi là “la mère Nature”) là nền tảng mọi sự (kể cả
con người, thần thánh) và phải sống đúng theo luật tự nhiên nầy, thì trong cuộc
sống điều gọi là TỐT và cái gọi là ÁC đều là tương đối cả. Cả hai đều có thể
BIỆN MÌNH được.[2]
Thế rồi, từ
đó người ta bắt đầu nghi ngờ các giá trị đạo đức, và cho rằng CÁI GÌ CON NGƯỜI
LÀM ĐƯỢC, THÌ CŨNG LÀ CHÍNH ĐÁNG CẢ (tout ce qui est possible est permis).
Tình trạng
nghi ngờ về đạo lý con người và xã hội, không phân biệt tốt xấu, phải trái đi
kèm với quan niệm TỐT XẤU tùy thời và tùy ý thích : ta nghĩ sao, ta thích làm
sao, ta nói làm sao mà nhiều người nghe theo để đa số nghe lọt tai, để có thể
làm ra một luật lệ (chẳng hạn được đa số quốc hội phê chuẩn)… thì đó là
định chuẩn đạo đức. Tình trạng tùy nghi và hoài nghi trong lãnh vực đạo đức như
thế đang xâm nhập tâm tư và chi phối hành động con người ngày nay, một tình
trạng mà Giáo Hoàng Bênêdictô XVI gọi là “chủ trương tương đối, tùy
nghi đạo đức” (permissivité, permissivisme), một nguy cơ lớn
nhất của xã hội. Tình trạng buông xuôi của tâm thức con người không còn Ý THỨC
TỐT XẤU.
*
Nay chúng ta
trở lại thắc mắc về đối tượng đạo đức TỐT XẤU mà bạn nêu lên. Cá nhân tôi xin
chia sẻ quan niệm của mình như thế này:
1. Tốt-xấu
chỉ đặt ra và đáng bàn cãi khi tốt-xấu liên quan đến Nghĩa làm người.
Người việt Nam
gọi Nghĩa khi nói đến đạo lý, chứ không gọi Ý Nghĩa (signification).
Ý nghĩa liên quan đến sự hiểu biết một đối tượng: khi trí khôn con người
và đối tượng tương ứng với nhau, chúng ta có một Ý Nghĩa. Còn NGHĨA làm người
là phận vụ phải HOÀN THÀNH NHÂN TÍNH CỦA MÌNH trong các mối tương giao,
trong mọi hành vi, trong mọi giây phút sống của mình. Chẳng hạn: nghĩa làm
người, nghĩa vợ chồng, nghĩa làm con…Nghĩa hay còn gọi là Đạo là phải
sống làm sao cho xứng hợp với NHÂN TÍNH CAO CẢ CỦA MÌNH.
2. Các thánh
hiền đều trực giác được rằng con người là sinh vật duy nhất có khả năng SIÊU
NHIÊN. Và các vị chỉ nói đến đạo đức, khi tiền kiến trực giác về nhân tính
siêu nhiên nầy:
- Con người
được sinh ra không phải chỉ là một sinh vật tự nhiên như muôn vật khác, mà là “con
người linh ư vạn vật”, là “hơi thở, là hình ảnh của Thiên Chúa” và được
định nghĩa trong tương quan (Logos) với Thiên Chúa. Người Trung Hoa
gọi là mối tương giao làm nên nhân tính (NHÂN: 仁), là LÝ một sợi dây nối
Trời với Người, khác với lý trí là sợi dây nối trí óc với sự vật.
- Nhưng, từ
nguyên thủy (originellement) con người có khả năng lầm lạc, tự định
nghĩa nhân tính siêu nhiên của mình dựa trên khả năng đo lường các vật
tự nhiên. Sách Sáng Thế gọi là “ăn trái cấm (péché originel),
nghĩa là tự định nghĩa mình với tài sức riêng của mình” – điều mà chỉ có Thiên
Chúa mới có quyền –. Chỉ có Thiên Chúa mới gọi tên con người, ban cho con người
một mối tương giao, một phẩm giá vượt trên muôn vật. Muôn vật đó gọi là (objet),
là cái trước mắt mà mình có thể biết để quản lý và phát triển tài trí của mình.
Hẳn nhiên, trong tương quan với các đối vật (objets), con người là chủ
tri (sujet). Trong mối tương quan chủ tri (sujet) và đối vật (objet)
đó, không còn AI KHÁC để tôn trọng và yêu thương[3].
Như thế,
hoặc chúng ta đặt nền tảng TỐT XẤU nơi tương giao với AI KHÁC (tương
giao gọi là TÌNH YÊU), hoặc chúng ta đặt nền tảng TỐT XẤU trên khả năng hiểu biết
sự vật, biến AI KHÁC và NHỮNG NGƯỜI KHÁC thành sự vật, thành đối tượng hiểu
biết để chúng ta thu tóm vào khả năng hiểu biết của mình, và làm lớn cái TÔI
của mình.
Như vậy tự
căn, TỐT XẤU phải căn cứ trên hai trục giá trị này về nhân tính con người.
3. Cuộc sống
con người căng thẳng giữa hai loại ánh sáng (hoặc ánh sáng của lý tri hiểu
biết sự vật, hoặc ánh sáng của yêu thương), giữa hai mối tương giao (tương
giao với Ai Khác và những người khác, hoặc tương quan với các đối vật mà con
người làm chủ theo ý muốn và hiểu biết riêng của mình). Thánh hiền xưa gọi
là Cuộc Chiến (Polemos), cuộc tương tranh giữa hai khả năng (từ
nguyên sơ, originellement) đã gắn bó với con người: Hoặc là LOGOS, mở ra để
yêu thương KẺ KHÁC, hoặc ta đi tìm cái Ta của ta (le soi), điều mà Nhà
Phật gọi là chấp ngã, Lão tử gọi là VI (ta làm nên ta), Khổng học
gọi là BẤT NHÂN, vì Nhân (仁) là kết nối Người với Ai Khác.
Dài dòng như
thế, xem như chưa trả lời gì cả cho thắc mắc bạn nêu lên.
Nhưng nếu
tôi trả lời ĐỐI TƯỢNG hay GIÁ TRỊ mình phải thực hiện vốn là TỐT hay HÀNH VI
thể hiện ý muốn hợp lẽ phải (bonne volonté) là TỐT, cái nầy là nền tảng
hoặc cái kia mới là nền tảng, thì tôi không trung thực với chính cảm nhận của
mình.
Không phải
nói vậy, tức là ngầm hiểu rằng các bản văn được nhiều tác giả viết ra để tố
giác tình trạng tùy nghi đạo đức hiện nay là không giá trị. Nhưng tôi muốn nói
là, trước hết phải xác định TỐT XẤU muốn nói lên điều gì để từ đó có thể soi
sáng cách trình bày quan điểm của mình trong những nội dung khác liên quan mà
chúng ta muốn nêu lên.
Rất tiếc là
dài dòng không trả lời vào chính đề bạn nêu ra.
§ – Câu
hỏi của người bạn
Chân thành
cám ơn ông Nguyễn Đăng Trúc đã chia sẻ, tuy nhiên tôi chỉ muốn chốt lại một vấn
đề: những hành vi như PHÁ THAI, HIẾP DÂM, TRỘM CẮP… phải được quan niệm thế nào
về mặt đạo đức làm người ?
§ – Trả
lời của Nguyễn Đăng Trúc
Bạn nêu lên
câu hỏi: Những hành vi như PHÁ THAI, HIẾP DÂM, TRỘM CẮP… đặt thành vấn đề đạo
đức cho con người như thế nào. Tôi chỉ xin trả lời tóm tắt thế này:
- Phá thai
là một tội ác vi phạm đến sinh mạng kẻ khác, vốn không thuộc
quyền của ý muốn và quyền quyết định của người mang thai.
Quan điểm
cho phá thai nêu lên quyền con người để biện minh cho hành vi nầy, nhưng
làm như vậy là vấp phải lầm lẫn giữa nhân quyền trong mối tương giao giữa
người nầy với người khác và quyền của một chủ thể trên một đồ vật
mình sở hữu. Không ai là đồ vật của ai cả. Thai nhi không phải là đồ vật, nhưng
là “một người khác”. Chúng ta nhớ lại giá trị văn hóa Việt Nam: Âu Cơ mang thai
một trăm trứng và mỗi một trứng sinh ra một đứa con hoàn hảo, phi thường,
không ăn, không uống mà vẫn lớn lên [4]. Hình ảnh huyền thoại đó nói lên giá trị LINH Ư VẠN VẬT
của mỗi người trong nhân loại, không ai có quyền xâm phạm.
- Hiếp dâm
là hành vi cụ thể xâm phạm đến nhân phẩm của NGƯỜI KHÁC. Nhân phẩm nơi thân
xác, ý muốn, tự do, sự cao cả của hành vi yêu thương thể hiện nơi tính dục của người
khác. Thân xác, ý muốn của kẻ khác vốn không phải là những đồ vật mà kẻ
hiếp dâm muốn sử dụng tùy nghi.
- Trộm cướp
cũng thế: lấy của cải của kẻ khác xem như sở hữu của mình là hành vi bạo
lực chống lại cuộc sống của kẻ khác.
Mức tối đa
của trộm cướp là giết người, vốn là một trực giác căn cơ của mọi tôn
giáo, mọi nền văn hóa: NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC GIẾT NGƯỜI. Cướp lấy sinh mạng của người
khác (un autre) còn là chống lại ý muốn của KẺ KHÁC (L’AUTRE,
Đấng Tối Cao mà không ai có thể gọi tên nhưng luôn nói với lương tâm
của bất cứ ai) : Đó là BẤT CÔNG nền tảng, chống lại CÔNG
CHÍNH, một tên gọi khác của sự TỐT LÀNH, hay Thiện Hảo.
Tôi dùng lại
lối nói cổ điển để trình bày cho dễ hiểu. Nhưng, tất cả những lý chứng chúng ta
nêu lên chỉ có giá trị, khi chúng ta xây dựng trên nền tảng về nhân tính, hoặc lý
lịch siêu nhiên của con người được định nghĩa như mối tương giao với kẻ khác.
Nhân tính
không phải là một bản thể (une substance autosuffisante, un soi), một sự
vật tự đủ cho mình (un soi, une chose à elle-même, avec elle-même,
pour elle-même[5]). Nói
cách khác lý lịch con người không phải là bản ngã (le soi) và sức sống
con người không phải là ý muốn riêng của mình (le désir de soi). Nhưng
là NHÂN (chữ 仁 và hai gạch) tức là một mối tương giao giữa mình và KẺ KHÁC và
những người khác. Người Công giáo xây dựng nền tảng về nhân tính dựa trên LOGOS,
chữ Hy Lạp nầy diễn tả sự tương giao, nối kết giữa Thiên Chúa và Con người.
Gián tiếp nói rằng lý lịch thần thánh của nhân tính là chết đi con người tự
đóng khung nơi mình (le soi), nơi ý muốn cá nhân mình, để NỐI KẾT với KẺ
KHÁC, với Ý MUỐN của Cha trên trời [6], vốn mình không thể thấy
[7].
Nói tóm,
theo tôi, hôm nay văn hóa gặp khủng hoảng về giá trị TỐT XẤU, vì chúng ta bị
tiền kiến định nghĩa nhân tính dựa trên nguyên lý đồng nhất (le principe
d’identité, le soi), một nguyên lý dùng để đo lường và hiểu biết một sự
vật… Con người được định nghĩa như một bản ngã (un soi), không liên hệ
với ai. Kẻ khác bị hiểu lầm là một mối đe dọa làm tổn thương đến bản chất và
tự do của mình. Vì không nhận ra sự khác biệt căn cơ giữa lý lịch
« linh ư vạn vật » của con người [8] và lý lịch của một đồ vật hoặc một đối tuộng nào bất kỳ
của ý muốn và tài sức đo lường của con người, nên người ta tìm mọi cách để tôn
vinh tự do và cứu cánh con người dựa trên bản chất TỰ TẠI (của MÌNH và do
chính MÌNH).
Khi xây
dựng sự thật, sư thiện hảo trên một bản thể tự tại, thì có thể nói như Jean Paul Sartre : kẻ khác là hỏa ngục (les
autres sont des enfers). Mọi kẻ khác đều tiên kiến cho là một KẺ THÙ xâm
phạm đến ý muốn TỰ TRỊ (autonomie de la volonté) và làm cho bản ngã bị
tha hóa (altération du soi). Nếu nhân quyền được tiền kiến là
quyền của tự do được hiểu là quyền tự trị của bản ngã (autonomie = mỗi
người là một mẫu mực cho mình, do ý muốn của chính mình – tiếng hy lạp, auto
là chính mình, nomos là phần đất riêng tùy quyền sử dụng), thì không thể
nào hiểu ra được tại sao người ta muốn bào chế làm ra những con người trong
phòng thí nghiệm, phá thai, hiếp dâm…lại là điều ÁC cả. Không phải những hành
vi ấy xây dựng trên sự tự do được hiểu là ý muốn của con người hay sao?
Sách Trung
Dung đã khuyên người quân tử phải biết tôn kính điều mình không thể nghe [9], nghĩa là phải biết tôn trọng KẺ KHÁC vượt lên trên ý
muốn, hiểu biết…của mình. Kẻ Khác ấy hẳn sẽ bị văn hóa của tự do được quan
niệm là sự tự lập của ý muốn con người đánh giá là lạc hậu, phản động ngược
lại với nhân quyền và bước tiến của lịch sử nhân loại !!!
Hơi dài dòng
một chút để chia sẻ với bạn là việc biện mình cho hành vi nào là TỐT hay XẤU
trong xã hội ngày nay thật không đơn giản. Mỗi phe đều đưa ra lý chứng
riêng của mình. Phải chăng là lúc nên đặt lại nền tảng câu hỏi về tư tưởng mà
các bậc khai phá các nền văn hóa đã trực giác được: Con người là ai (quis),
chứ không phải con người là cái gì (quid).
Bắt đầu hỏi
con người là gì. Thượng đế là gì (la quiddité) [10] dựa trên nguyên tắc đồng nhất, từ giây phút đó, sự Ác đã
được xây dựng rồi. Vì không người nào là cái gì cả, mà là một ai. Và
AI hàm ngụ một AI KHÁC đang đến với mình, và gọi tên mình và muốn kết giao
với mình trong một tương giao mới, một LOGOS mà không trí khôn đo lường sự vật
nào hiểu được (xem Héraclite). Nếu người chất vấn là Ngôi thứ nhất, thì người
lắng nghe là ngôi thứ hai được nối kết trong câu chất vấn này.
Nói tóm,
trên bình diện triết học, việc phân luận Tốt hay Xấu ngày nay thật là khó khăn,
vì tự căn triết học, đã bắt đầu thắc mắc: Con người là gì, Thượng Đế là gì ?
Truyền thống triết học đó giúp chúng ta truy nguyên và phát triển các bộ
môn khoa học. Nhưng triết học rất khó mà thiết định được đâu là phần linh
thiêng nơi nhân tính làm nền tảng cho đạo đức. Vì con người linh ư
vạn vật mà triết học tôn vinh, đã bị tiền kiến là con người tự đủ cho mình,
không cần có ai để yêu thương cả. Trong cuốn Le Banquet, Platon nói Thần
thánh và các nhà thông thái không cần yêu thương vì họ đã tự đủ cho mình, không
thiếu gì cả. Yêu thương ở đây bị giản lược thành sự thèm khác bản ngã uyên
nguyên nhất thể của chính mình (le désir de soi [11]).
Từ nền tảng,
triết học không đủ sức để giúp xã hội ngày nay nhận ra KẺ KHÁC và tôn trọng
những người khác. Nói vậy không phải là trong thực tế quyền năng triết
học đủ sức làm cho con người mất hết ý thức về KẺ KHÁC và người khác đâu. Bên
trên sức mạnh của các truyền thống văn hóa, luôn có sức mạnh của lương tri vượt
lên trên ảnh hưởng của khôn ngoan trần thế. Chính vì niềm tin vào điều mà các
truyền thống ăn hóa chưa từng biết đến và không thể xóa nhòa được, nên TỐT và
XẤU luôn được dấy lên như những câu chất vấn luôn vẫn đến với lương tâm con
người.
Nay tôi và
bạn tự hỏi phải chăng cần lùi lại một bước, noi theo gương các thánh hiền, để
nhận ra rằng phận vụ của mỗi người làm «văn hóa thật sự» là cần xóa hết
mọi tiền kiến «văn hóa thời thượng, trước mắt» và lắng nghe lời chất vấn
uyên nguyên này!
[1] Lão-Tử, Đạo Đúc Kinh, ch. II : Thiên
hạ (…) giai tri thiện chi thiện, tư bất thiện dã..
[2] cf. NIETZSCHE, Naissance de la tragédie grecque, N°9 : “Tout ce qui existe est juste, et injuste et justifié dans les deux cas”.
[3] Xin đọc các bản văn cổ Hy Lạp Prométhée enchaîné d’Eschyle, Oeidipe-Roi de Sophocle để biết tình trạng con người có khả năng lầm lạc căn nguyên này.
[4] Xem VŨ QUỲNH, Lĩnh Nam Chích Quái, Truyện Hồng Bàng Thị.
[5] Xem PLATON, Le Sophiste 254 d : ἕκαστον … αὐτὸ δ’ ἑαυτῷ ταὐτόν (chacun est lui même avec lui-même le même).
[6] Xem Kinh Lạy Cha : Ý Cha thể hiện dười đất cũng như trên trời.
[7] Xem Trong sách Trung Dung.
[8] Con người linh ư vận vật vì lý lịch và hơi thở của con người ấy là mối tương giao với Kẻ Khác. Kẻ Khác không những không phải là « hỏa ngục » cho con người, nhưng ngược lại, không có Kẻ Khác thì không có tương giao làm nên nhân tính siêu nhiên.
[9] Trung Dung : Dãn nhập : Mạc hiện hồ ẩn, mạc hiển hồ vi cố quân tử thận kỳ độc dã.
[10] Trong Kinh Thánh (Cựu Ước) Do-thái giáo và Kitô-giáo, câu chuyện Maisen đập nát con bò vàng được dân chúng tưởng tượng và đúc nên như một CÁI GÌ đó ăn khớp với quy nghĩ và đo lường của trí khôn con người về Thiên Chúa siêu việt, luôn nhắc nhỡ các tín đồ rằng – Thiên Chúa đến và kết ước với họ và mặc khải cho họ lý lịch thần thánh của con người -, Thiên Chúa đó không phải là MỘT CÁI GÌ BẤT KỲ mà trí khôn của họ có thể suy ra.
[11] Sụ thèm muốn chính mình (le désir de soi), nhà Phật gọi là DỤC, là điều ÁC căn nguyên.
[2] cf. NIETZSCHE, Naissance de la tragédie grecque, N°9 : “Tout ce qui existe est juste, et injuste et justifié dans les deux cas”.
[3] Xin đọc các bản văn cổ Hy Lạp Prométhée enchaîné d’Eschyle, Oeidipe-Roi de Sophocle để biết tình trạng con người có khả năng lầm lạc căn nguyên này.
[4] Xem VŨ QUỲNH, Lĩnh Nam Chích Quái, Truyện Hồng Bàng Thị.
[5] Xem PLATON, Le Sophiste 254 d : ἕκαστον … αὐτὸ δ’ ἑαυτῷ ταὐτόν (chacun est lui même avec lui-même le même).
[6] Xem Kinh Lạy Cha : Ý Cha thể hiện dười đất cũng như trên trời.
[7] Xem Trong sách Trung Dung.
[8] Con người linh ư vận vật vì lý lịch và hơi thở của con người ấy là mối tương giao với Kẻ Khác. Kẻ Khác không những không phải là « hỏa ngục » cho con người, nhưng ngược lại, không có Kẻ Khác thì không có tương giao làm nên nhân tính siêu nhiên.
[9] Trung Dung : Dãn nhập : Mạc hiện hồ ẩn, mạc hiển hồ vi cố quân tử thận kỳ độc dã.
[10] Trong Kinh Thánh (Cựu Ước) Do-thái giáo và Kitô-giáo, câu chuyện Maisen đập nát con bò vàng được dân chúng tưởng tượng và đúc nên như một CÁI GÌ đó ăn khớp với quy nghĩ và đo lường của trí khôn con người về Thiên Chúa siêu việt, luôn nhắc nhỡ các tín đồ rằng – Thiên Chúa đến và kết ước với họ và mặc khải cho họ lý lịch thần thánh của con người -, Thiên Chúa đó không phải là MỘT CÁI GÌ BẤT KỲ mà trí khôn của họ có thể suy ra.
[11] Sụ thèm muốn chính mình (le désir de soi), nhà Phật gọi là DỤC, là điều ÁC căn nguyên.