Thẩm Phán Phạm Đình Hưng
Tính chánh
danh của Việt Nam Cộng Hòa
Ngày 20-7-2015, tôi đã phổ biến trên các
mạng xã hội một bài viết về “Tính Chánh Danh và Hợp Pháp Của Nhà Cầm Quyền”.
(Phạm Đình Hưng, Thay Ngôi Đổi Chủ, Chương 2, 2016, Hoa Kỳ)
Mới đây, nhân
dịp phát hành bộ Sử Việt Nam tu chính lần thứ nhứt theo chỉ thị của một cấp cao
trong hệ thống quyền lực ở Hà Nội với một mục đích thầm kín, “sửgia” Trần Đức
Cường, nguyên Viện trưởng Viện Sử Học Việt Nam cộng sản, đã buộc lòng phải công
nhận chánh thể Việt Nam Cộng Hòa nhưng lại công khai phỉ báng và miệt thị Việt
Nam Cộng Hòa thiếu chánh danh và bất hợp pháp !
Với tư cách
Giám Sát của Giám Sát Viện Việt Nam Cộng Hòa trước 30-4-1975 (thời quân chủ gọi
là Giám sát Ngự sử), tôi cần viện dẫn một số sự kiện lịch sử chính xác để chứng
minh Việt Nam Cộng Hòa là một chánh quyền có chánh danh và hoàn toàn hợp pháp.
Ngược lại, tôi cũng phải nêu ra vài sự kiện lịch sử hoàn toàn có thật để vạch
trần ngụy danh và tính bất hợp pháp của nhà cầm quyền cộng sản từ thời Hồ Chí
Minh đến thời Nguyễn Phú Trọng.
Tính chánh
danh của Việt Nam Cộng Hòa
1-Việt Nam
Cộng Hòa (Republic of Vietnam) là hậu thân của Quốc Gia Việt Nam (État
du Vietnam) do Cựu Hoàng Bảo Đại lãnh đạo với cương vị Quốc trưởng (Chef
d’État) từ 1948 đến 1955. Quốc trưởng Bảo Đại, vị vua thứ 13 của Nhà Nguyễn nối
ngôi vua Khải Định ngày 8-1-1926, đã thừa kế chánh danh của Vương triều Nhà
Nguyễn đã có từ thời Hoàng đế Gia Long lên ngôi cữu ngũ năm 1802. Chánh
danh của Quốc Gia Việt Nam
đã chuyển qua Việt Nam Cộng Hòa từ ngày Trưng Cầu Dân Ý (Referendum)
23-10-1955.
Về địa lý và
chánh trị, Quốc Gia Việt Nam là một nước độc lập và thống nhứt từ 1948, lãnh
thổ bao gồm Nam Phần, Trung Phàn và Bắc Phần chạy dài từ ãi Nam Quan đến mũi Cà
Mau.
2- Tính chánh
danh của Quốc Gia Việt Nam (1948-1955) và Việt Nam Cộng Hòa (1955-1975) đã được
củng cố do các thành tích bảo quốc an dân, duy trì và phát triển dân tộc, xây
dựng một đất nước phồn thịnh, ổn định xã hội, tôn trọng dân chủ, nhân quyền và
dân quyền, tạo lập an bình, tự do và hạnh phúc cho quần chúng nhân dân, không
phân biệt tôn giáo, đảng phái, thành phần xã hội.
3- Đến ngày
nay, không ai có thể qui trách Quốc Gia Việt Nam hoặc Việt Nam Cộng Hòa đã
nhượng bán lãnh thổ cho ngoại bang và để lại cho người dân một món nợ công nào
sau ngày Bắc Việt cộng sản xâm lăng, chiếm đoạt và thống trị miền Nam Việt Nam
như một thuộc địa.
4- Các “sử
gia” cộng sản cũng không thể vu cáo Chánh phủ Quốc Gia Việt Nam đã chia cắt đất nước Việt Nam tại Hội
nghị Genève 1954. Thật vậy, phái đoàn Quốc Gia Việt Nam do Bác sĩ Trần văn
Đỗ lãnh đạo đã không ký Hiệp định Genève nhưng chính Thứ trưởng bộ Quốc
Phòng Tạ Quang Bửu của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Việt Minh) đã ký hiệp
định nầy cùng với Thiếu tướng Delteil, Đại diện Chánh phủ Pháp, theo
quyết định của Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai để phân chia nước Việt
Nam ra hai miền Nam Bắc, mỗi miền có một chánh thể riêng và ranh giới giữa hai
miền Nam Bắc được ấn định rõ rệt tại vĩ tuyến 17. Một Khu Phi Chiến (DMZ) rộng
3 miles (hải lý) từ ranh giới của hai bên cũng được thiết lập để ngăn cách hai
miền Nam Bắc Việt Nam.
5-Thể chế dân
chủ pháp trị đã được Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa liên tục áp dụng để
bảo đảm nhân quyền và dân quyền, đồng thời xây dựng dân chủ và phát triển đất
nước. Các cuộc bầu cử ở các cấp trung ương, tỉnh và xã đã được tổ chức theo
nguyên tắc tự do ứng cử và bầu cử và phổ thông đầu phiếu.
6- Báo chí tư
nhân đã được tự do xuất bản căn cứ theo đạo luật ban hành năm 1881 tại Pháp và
được áp dụng tại Nam kỳ (Nam Việt Nam) từ thời thuộc địa Pháp để tôn trọng
quyền tự do báo chí và quyền tự do tư tưởng. Tư nhân xuất bản sách báo chỉ cần
tôn trọng quy chế nạp bản tại Văn khố (Archive).
7- Hoạt động
của các cơ quan cảnh sát công an đặt dưới quyền kiểm soát chặt chẻ của bộ Nội
Vu, Công tố viện và Tòa án. Nói một cách cụ thể, dưới chánh thể Đệ Nhứt Cộng
Hòa của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Thẩm phán Huỳnh Sanh Phương
(anh của Giáo sư Huỳnh Sanh Thông, dịch giả Flowers In Hell từ tập thơ
Hoa Địa Ngục của Nguyễn Chí Thiện), Chánh Biện Lý Tòa Sơ thẩm Sài Gòn đã
mở cuộc điều tra sâu rộng khi một bị can chết trong thời gian bị tạm giam tại
Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia.
8- Chánh
nghĩa sáng ngời của Quốc Gia Việt Nam đã được thể hiện qua lập trường của Thủ
tướng Trần văn Hữu xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa tại Hội nghị San Francisco 1951 kết thúc Thế Chiến II.
Phái đoàn của hai nước cộng sản Liên Xô và Trung Quốc đã không tranh cải về chủ
quyền trên hai quân đảo kể trên với phái đoàn Quốc Gia Việt Nam.
9- Chánh
nghĩa của Việt Nam Cộng Hòa trên chánh trường và dư luận quốc tế cũng đã được
soi sáng bởi sự hy sinh cao cả của 74 chiến sĩ Hải quân trong trân hải chiến
hào hùng tại Hoàng Sa ngày 19-1-1974 để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển
Đông mặc dầu trận chiến không cân xứng.
Tính Hợp
pháp của Việt Nam Cộng Hòa
Trong thế kỷ
20, Việt Nam Cộng Hòa thật sự là một quốc gia độc lập, hợp pháp và có chủ
quyền.
1- Về mặt
quốc tế công pháp, Việt Nam
đã được hai nước Nhựt và Pháp lần lượt trao trả độc lập trước và sau khi chấm
dứt Thế Chiền II :
- Ngày 9-3-1945,
quân đội chiếm đóng Nhựt bổn đảo chánh nhà cầm quyền Pháp và Đại sứ Toàn Quyền
của nước Nhựt trao trả độc lập cho Việt Nam. Ngày 11-3-1945, Hoàng
đế Bảo Đại tuyên cáo hủy bỏ các hiệp ước 1862, 1874 và 1884 và ban hành Tuyên
ngôn độc lập lần thứ nhứt: nước Việt Nam đôc lập gồm cả ba miền Nam, Trung,
Bắc. Nội các Trần Trọng Kim do Hoàng đế Bảo Đại bổ nhiệm gồm có nhiều
trí thức lỗi lạc. Nhưng ngày 19-8-1945, đảng Cộng Sản Việt Nam sử dụng bạo
lực cướp chánh quyền của Hoàng đế Bảo Đại và cưỡng bức nhà vua phải thoái vị để
tránh khỏi nội chiến. Nhận thấy rõ đảng Cộng Sản chủ trương bạo động để cướp
đoạt chánh quyền, Cựu Hoàng Bảo Đại đã rời Hà Nội, đi lưu vong tại Trùng Khánh
và Hong Kong trước khi thương thuyết với Cao ủy Pháp Emile Bollaert và
ký kết hiệp định Vịnh Hạ Long (Accords du Baie d’Along) ngày 5-6-1948
công nhận nền độc lập của nước Việt Nam trong khuôn khổ Liên Hiệp Pháp. Hiệp
định Vịnh Hạ Long đã được bổ túc bởi hiệp ước Élysée (Traité d’Élysée)
ký kết ngày 9-3-1949 giữa Cựu Hoàng Bảo Đại và Tổng Thống Pháp Vincent
Auriol công nhận một Quốc Gia Việt Nam thống nhứt và độc lập hoàn toàn.
Ngay sau đó, Quốc Gia Việt Nam (État du Vietnam) dưới quyền lãnh đạo của Quốc
trưởng Bảo Đại đã được nhiều nước trong Thế Giới Tự Do (Free World) công nhận
và trao đổi quan hệ ngoại giao. Ngoài ra, Quốc Gia Việt Nam còn tham gia một số
lớn tổ chức quốc tế như Văn Hóa Quốc tế (UNESCO), Lương Nông Quốc Tế (FAO), Y
Tế Thế Giới (WHO) v.v...
Sau ngày
Trưng Cầu Dân Ý (23-10-1955), nền Đệ Nhứt Cộng Hòa dưới quyền lãnh đạo
của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã được thành lập và thay thế chế độ Quốc
Gia Việt Nam của Quốc trưởng Bảo Đại. Dưới chánh thể Cộng Hòa, miền Nam Việt Nam đã đẩy mạnh
việc phát triển các quan hệ quốc tế. Vì Liên Xô phủ quyết (veto) sư gia nhập
Liên Hiệp Quốc của Việt Nam Cộng Hòa, vị trí Quan sát viên thường trực Liên
Hiệp Quốc đã được Tổ chức quan trọng nầy dành cho Việt Nam Cộng Hòa.
2- Về mặt nội
trị, Quốc Gia Việt Nam
cũng như Việt Nam Cộng Hòa đã được tổ chức và điều hành theo thể chế dân chủ
pháp trị:
- Ban hành Dụ
số 1 ngày 1-7-1949 tổ chức nền hành chánh trung ương và Dụ số 2 ngày 1-7-1949
tổ chức nền hành chánh địa phương.
- Thành lập
Quân đội Quốc gia và ngành Tư pháp độc lập năm 1950.
- Áp dụng Quy
chế Công vụ (Statut de la Fonction Publique) quy định nghĩa vụ và quyền lợi của
công chức cùng các hình thức thưởng phạt công minh.
- Tổ chức bầu
cử Quốc Hội Lập Hiến để soạn thảo, biểu quyết và ban hành Hiến pháp ngày
26-10-1956 dưới thời Đệ Nhứt Cộng Hòa và Hiến pháp ngày 1-4-1967 dưới thời Đệ
NhịCộng Hòa.
- Các cơ quan
công quyền phải điều hành một cách minh bạch căn cứ theo pháp luật. Không cá
nhân nào có quyền đứng trên Hiến pháp và luật pháp.
- Thành lập
Giám Sát Viện với thẩm quyền của một định chế hiến định độc lập phụ trách bài
trừ tham nhũng, thẩm tra kế toán và kiểm kê tài sản của tất cả nhân viên các cơ
quan cộng quyền, kể cả Tổng Thống.
Chế độ
cộng sản Việt Nam
có chánh danh và hợp pháp hay không?
Các sự kiện
lịch sử kể sau có thể chứng minh nhà cầm quyền cộng sản thiếu chánh danh và bất
hợp pháp:
1- Cướp
chánh quyền bằng bạo lực: Các tài liệu tuyên truyền của đảng Cộng sản Việt
Nam công nhận đã sử dụng bạo lực của súng đạn để cướp chánh quyến chánh thống
của Hoàng đế Bảo Đại ngày 19-8-1945 tại Hà Nội và ngày 23-8-1945 tại Sài Gòn.
Chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của Hồ Chí Minh đã ra đời từ bạo
lực cướp chánh quyền thay vì do nhân dân bầu cử. Một người xa lạ từ hang Pác Bó
ở Cao Bằng tự nhiên về Hà Nội làm Chủ tịch nước mặc dầu không được người dân
bầu cử lựa chọn để lãnh đạo quốc gia Việt Nam mới thâu hồi độc lập sau khi
Nhựt đảo chánh Pháp ngày 9-3-1945. Nhân vật kỳ bí nầy lại nói và viết tiếng
Việt không rành, cầm bút sắt hoặc bút bi theo kiểu cầm bút lông để viết chữ
Hán.
Từ khi cướp
được chánh quyền của Nội các Trần Trọng Kim, nhà cầm quyền cộng sản từ thởi Hồ
Chí Minh đến Nguyễn Phú Trọng đã tổ chức các cuộc bầu cử theo lối “đảng cử,
dân bầu”. Nếu không phải là đảng viên cộng sản, người dân không có quyền tự
do ứng cử và bầu cử. Ứng cử viên phải được Mặt Trận Tố Quốc, một cơ quan ngoại
vi của đảng Cộng Sản, tuyển chọn trước.
Tiếp nối theo
hành động cướp chánh quyền năm 1945, đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành
cuộc chiến tranh 30 năm để chiếm đoạt chánh quyền trong cả nước năm 1975
với viện trợ võ khí hùng hậu của Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa. Bạo lực giết người đã giúp cho đảng Cộng sản Việt Nam trở thành chủ nhân ông của dân tộc Lạc Việt
và hoàn thành sứ mạng nhưộm đỏ cả nước Viêt Nam do Liên Xô và Trung Quốc giao
phó. Đối với đảng Cộng sản Việt Nam,
mục đích biện minh cho phương tiện.
2- Quốc tế
không công nhận ngụy quyền Hồ Chí Minh: Hình thành từ bạo lực của một vài
tay súng ngày 19-8-1945 thay vì do nhân dân bầu cử, ngụy quyền Hồ Chí Minh đã không
được các nước trên thế giới công nhận, kể cả Liên Xô. Mãi đến đầu năm 1950,
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do Hồ Chí Minh, một cán bộ cộng sản quốc tế,
thành lập ngày 2-9-1945 mới được nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa công
nhận. Quốc gia nầy là đại quốc cộng sản đầu tiên tại Á châu có ảnh hưởng chi
phối đối với nước lân bang Việt Nam nhờ Chủ tịch đảng Cộng Sản Trung Quốc Mao
Trạch Đông đã có viễn kiến gởi Thiếu tá gián điệp Hồ Quang đến hang Pác
Bó trong tỉnh Cao Bằng từ cuối năm 1940 để lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam. Nối
tiếp theo Trung Quốc, Liên Xô và một vài nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, chư
hầu của Liên Xô, mới lần lượt công nhận nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Tuy
nhiên, từ 1945 đến cuối thập niên 1960, chế độ cộng sản của Hồ Chí Minh chưa
gia nhập các tổ chức quốc tế và cũng không phải là Quan sát viên thường trực
tại Liên Hiệp Quốc như Việt Nam Cộng Hòa.
3- Hiến
pháp chỉ là một mãnh giấy vô giá trị đối với Đảng và Nhà nước cộng sản Việt
Nam: Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời trong
tháng 11-1946 nhưng bị đình chỉ thi hành từ ngày 19-12-1946 đến khi bị thay thế
13 năm sau bởi bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa ban hành năm 1959. Bản Hiến pháp
đầu tiên tương đối dân chủ chỉ sống được trên một tháng mà thôi. Hiến pháp chỉ
là một bày trò dân chủ của đảng Cộng sản. Từ 1945 đến ngày nay, chế độ Cộng sản
Việt Nam đã lần lượt ban hành 5 bản Hiến pháp vào các năm 1946, 1959, 1980,1992
và 2013 nhưng Hiến pháp của chế độ cộng sản Việt Nam bị đặt dưới các nghị
quyết của đảng Cộng sản. Xây dựng một chế độ độc tài toàn trị, Đảng và Nhà
nước cộng sản không bị bắt buộc phải tôn trong Hiến pháp như các quốc gia dân
chủ trong đó có Việt Nam Cộng Hòa. Về nội dung, các bản Hiến pháp của Việt Nam cộng sản
ngày càng tệ hại thay vì cải tiến theo xu hướng dân chủ hóa đất nước.
4- Gây ra
30 năm chiến tranh (1945-1975): Dưới các chiêu bài giả dối “giải phóng dân
tộc”, “thống nhứt đất nước” và “đánh Mỹ cứu nước”, đảng Cộng sản Việt Nam dưới
quyền lãnh đạo của Thiếu tá Tình báo Hồ Quang đã liên tục tiến hành hai cuộc
Chiến Tranh Đông Dương (Indochina Wars) để bành trướng chủ nghĩa cộng sản trên
toàn cõi Đông Dương và Đông Nam Á theo chỉ thị và với viện trợ hùng hậu của
Trung Quốc và Liên Xô. Chính Lê Duẫn, cố Tổng Bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam đã công
khai nhìn nhận: Chúng ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc
và cho các nước xã hội chủ nghĩa. Dân tộc Việt Nam đã phải trả giá quá
đắt cho 30 năm chiến tranh do đảng Cộng sản gây ra theo lịnh truyền của ngoại
bang bằng xương máu và nước mắt của cả chục triệu đồng bào vô tội. Ngoài tổn
thất sinh mạng và tang tóc lan tràn khắp mọi nhà, 30 năm chiến tranh đã tàn phá
đất nước vô cùng nặng nề. Người hưởng lợi chiến tranh chỉ là đảng Cộng Sản Việt
Nam và cán bộ, đảng viên mà thôi: chiếm đoạt chánh quyền trong cả nước, trở
thành vua quan, đại gia và tư bản đỏ sống trên nhung lụa, xương máu và khổ đau
của đồng bào nghèo khổ bị đối xử và bóc lột như người nô lệ trong thời thượng
cổ.
5- Vi phạm
luật pháp quốc tế: Khi xâm lăng và thôn tính Việt Nam Cộng Hòa, một quốc
gia độc lập và có chủ quyền, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt cộng sản)
đã công khai vi phạm Hiệp định Genève 1954 và Hiệp định Paris 1973. Vi phạm
luật pháp quốc tế là một hành động hợp pháp hay bất hợp pháp ? Một nước sử dụng
bạo lực của súng đạn để thôn tính một nước láng giềng phải bị lên án là một
nước xâm lược có hành động bất hợp pháp !
6- Vi phạm
Công Ước Geneva ngày 27-27-1929 về tù binh: Sau ngày đánh chiếm Việt Nam
Cộng Hòa, một quốc gia độc lập đã chiến đấu tự vệ chống lại sự xâm lăng của
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, kẻ thắng trận đã xem tất cả quân, cán, chánh
miền Nam Việt Nam là tù binh và bắt giam họ dài hạn trong các nhà tù và trại
tập trung cải tạo nhưng không xét xử trước tòa án. Trong thời gian tù đày vô
hạn định, các tù binh Việt Nam Cộng Hòa đã bị hành hạ, ngược đải dưới nhiều
hình thức: lao động khổ sai, thiếu ăn, thiếu uống, thiếu chăm sóc sức khỏe, bặt
tin tức gia đình, bị đánh đập, đay nghiến tinh thần, chửi bới, răn đe v.v...
Rất nhiều trí thức và nhân tài của miền Nam Việt Nam đã chết trong ngục tù cộng
sản, trong số đó có Bác sĩ Phan Huy Quát, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Duy Xuân,
Đại tá Sử gia Phạm văn Sơn, Đại tá Khổng văn Tuyển, Giám Đốc Nha
Viễn Thông bộ Nội Vụ v.v.
7- Tiến
hành Cải Cách Ruộng Đất từ 1953 đến 1955 theo chỉ thị của Liên Xô và Trung
Quốc, Việt Cộng đã giết hại 172,000 đồng bào vô tội. Chánh sách dã man “Trí,
Phú, Địa, Hào. Đào Tận Gốc, Trốc Tận Rễ” đã tố cáo chế độ cộng sản Việt Nam là
một chế độ gian ác, man rợ và vô nhân tính đã giết chết ngay từ ngày đầu bà Nguyễn
thị Năm tức bà Cát Hanh Long, một ân nhân của các lãnh tụ cộng sản đã giúp
đỡ rất nhiều cho Việt Minh trong buổi ban đầu.
8- Vi phạm
thỏa hiệp ngưng bắn trong 3 ngày Têt Mậu Thân (1968), Cộng Sản Việt Nam đã
gây ra nhiều tang tóc cho đồng bào trong 3 ngày Tết Nguyên đán, nhứt là giết
chết 7,000 thường dân trong thời gian tạm chiếm cố đô Huế. Sự vi phạm thỏa hiệp
ngưng bắn và lạm sát người vô tội nầy là những hành động diệt chủng (genocide),
phi pháp và bất xứng.
9- Cướp
đoạt tài sản của Nhà nước Việt Nam
Cộng Hòa và nhân dân miền Nam
Việt Nam
sau ngày 30-4-1975 là những hành vi cướp giựt hoàn toàn bất hợp pháp. Mọi
người đều thấy vô số xe tải, xe lửa và tàu thủy liên tục chở rất nhiều vật dụng
và xe, máy có giá trị từ Nam
ra Bắc trong nhiều tháng. Dân chúng miền Nam Việt Nam cũng chắc chắn còn nhớ rõ
3 lần đổi tiền, chiến dịch đánh tư sản mại bản và chiến dịch đánh tư sản dân
tộc do Đỗ Mười điều khiển để tước đoạt tài sản của họ và đánh sập nền
kinh tế thị trường của miền Nam. Trong số tài sản cướp đọat của Việt Nam Cộng
Hòa có 16 tấn vàng của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam do Pháp quốc chuyển giao cho
Quốc Gia Việt Nam để làm trử kim bảo đảm giá trị đồng bạc của nước ta.
10- Vay nợ
công : Đến nay, Nhà nước cộng sản và các Doanh nghiệp quốc doanh của các
cán bộ, đảng viên đã vay vài trăm tỷ Mỹ kim của các quốc gia phát triển
và các định chế tài chánh quốc tế để ăn chận, thủ lợi riêng. Nếu không có khả
năng trả nợ (vốn lẫn lời) và quỵt nợ, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam sẽ bị xem
là những kẻ lường gạt bêu xấu đất nước. Phải chăng đảng Cộng sản muốn giao gánh
nặng nợ công cho các thế hệ chưa ra đời ? Quỵt nợ là một hành vi bất hợp pháp
và nhục nhã!
11- Nhượng
bán đất nước cho Trung Quốc: Từ 1958 đến nay, Đảng và Nhà nước cộng sản
Việt Nam đã ký kết nhiều văn kiện nhưọng bán lãnh thổ cho Trung Quốc vì đã mang
ơn Trung Quốc giúp đỡ đánh chiếm được chánh quyền trên toàn cõi đất nước Việt
Nam từ 1950 đến 1975:
- Công hàm
ngày 14-8-1958 của Phạm văn Đồng, Thủ tướng trong nửa thế kỷ 20 của nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa theo mật lịnh của Hồ Chí Minh. Ngày nay, Trung Quốc đã sử
dụng công hàm nầy để độc chiếm Biển Đông (South China Sea), lấn chiếm Thềm lục
địa (200-350 hải lý) và Vùng Đặc quyền Kinh tế (200 hải lý trùng lấp với Thềm
lục địa) của Việt Nam, giành độc quyền đánh cá và khai thác các tài nguyên dồi
dào của Biển Đông (dầu khí, khoáng sản, rong biển), chận bít đường đi ra hải
phận quốc tế của tàu thuyền Việt Nam, đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của
Việt Nam Cộng Hòa, xây dựng và quân sự hóa các thực thể nhân tạo trên quần đảo Trường
Sa để uy hiếp các tỉnh miền Nam Việt Nam và kiểm soát con đường hàng hải quốc
tế trên Biển Đông. Trong tương lai không xa, Trung Quốc có thể thiết lập Vùng
Nhận Dạng Phòng Không trên vùng Trường Sa để khống chế không lưu.
- Ký kết
hiệp định ngày 30-12-1999 dưới thời Tổng Bí thư đảng Cộng sản Lê Khả Phiêu
chuyển nhượng cho Trung Quốc trên 700 km2 đất liền dọc theo các tỉnh biên giới
Việt-Hoa, trong đó có Ãi Nam Quan, Bãi Tục Lãm, thác Bản Giốc, cao điểm Lão
Sơn. Hiệp định nầy đã được Quốc Hội phê chuẩn.
- Ký kết
hiệp định ngày 25-12-2000 dưới thời Tổng Bí thư đảng Cộng sản Lê Khả Phiêu
tăng thêm 11,000 km2 diện tích biển thuộc chủ quyền của Trung Quốc trong Vịnh
Bắc Việt (Gulf of Tonkin). Căn cứ theo hiệp ước Thiên Tân ký kết năm
1887 giữa Lý Hồng Chương, đại diện Đại Thanh và Patenôtre, đại diện Pháp quốc,
Vịnh Bắc Việt đã được phân chia như sau có lợi cho Việt Nam: Việt Nam: 63%
Trung Hoa (Chine) : 37%. Ngày nay, dưới thời cộng sản, diên tích biển trong
Vịnh Bắc Việt của Việt Nam
và Trung Quốc gần như bằng nhau. Hơn nữa, Trung Quốc có quyền lựa chọn vùng
biển có dầu khí dưới đáy biển trong Vịnh Bắc Việt thuộc chủ quyền của mình.
Hiệp định ngày 25-12-2000 cũng đã được Quốc Hội bù nhìn cộng sản Việt Nam phê chuẩn.
- Ký kết
mật ước Thành Đô năm 1990: Sau khi hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa sụp
đỗ tại Âu châu năm 1989, đảng Cộng sản Việt Nam chấp nhận đầu hàng Trung Quốc
và Tổng Bí thư Nguyễn văn Linh đã thẳng thừng tuyên bố: Thà mất nước hơn
mất đảng. Để được Trung Quốc giúp giữ vững ngôi vị thống trị Việt Nam,
Tổng Bí thư đảng Cộng sản Nguyễn văn Linh, Chủ tịch Hội Đồng Bộ trưởng Đỗ
Mười và Cố Vấn Phạm văn Đồng đã đến Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên,
hội kiến Chủ tịch đảng Công sản Trung Quốc Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý
Bằng. Phái đoàn cộng sản Việt Nam ngỏ ý Việt Nam muốn xin làm một Khu Tự
trị của Trung Quốc. Giang Trạch Dân chấp nhận đề nghị của Việt Nam và quyết
định Việt Nam phải sát nhập vào Trung Quốc năm 2020 tức là 30 năm sau hội nghị
Thành Đô. Sau khi thi hành mật ước Thành Đô trước hoặc sau năm 2020, nước Việt Nam sẽ không
còn là một nước độc lập trên bản đồ thế giới trong vài năm tới!
- Ký kết
15 mật ước năm 2016: Để chuẩn bị thi hành mật ước Thành Đô vào năm 2020, Nguyễn
Phú Trọng, đương kim Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam, đã lén lút
ký kết với Trung Quốc 15 văn kiện quan trọng. Đến nay, Đảng và Nhà nước cộng
sản Việt Nam tiếp tục giấu kín mật ước Thành Đô 1990 và 15 văn kiện Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng đã ký kết với Trung Quốc. Mặc dầu vậy. mọi người dân Việt đều
biết rõ mật ước Thành Đô và 15 văn kiện bán nước của Nguyễn Phú Trọng nhằm mục
đích sát nhập Việt Nam vảo
mẫu quốc Tàu của Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam.
Nói tóm lại,
dưới sự dìu dắt của Thiếu tá Tình báo Hồ Quang, “ Cha Già Dân Tộc” của người
cộng sản, nước Việt Nam sẽ là một bộ phận của nước Tàu như dưới thời Nhà Hán
trong thế kỷ thứ nhứt và dân tộc Lạc Việt sẽ bị Hán hóa như các bộ tộc Bách
Việt ở phía Nam sông Dương Tử sau khi đã hy sinh ít nhứt 10 triệu người trong
30 năm chiến tranh để thực hiện lời dạy của ông gián điệp Tàu gốc Hẹ: Hãy bành
trướng chủ nghĩa cộng sản trên toàn cõi Việt Nam. Đò là “thiên đường” của dân
tộc Việt Nam
và “mùa xuân của nhân loại” !
California, ngày 29-8-2017
Thẩm phán Phạm Đình Hưng