Nguyễn Phú Thứ
ĐỂ TƯỞNG NHỚ
ÔNG THỦ
KHOA-HUÂN (1830-1875)
ANH HÙNG CHỐNG PHÁP
Khi nhắc đến Ông
Nguyễn-Khoa-Huân
tức
Thủ-Khoa-Huân,
người Miền Tây Nam Phần Việt-Nam ghi công một nhân-tài khoa-bảng và
một chiến-sĩ chống Pháp rất gan-dạ oai-hùng. Tại châu thành Mỹ-Tho
chúng ta còn thấy có con đường mang tên Ông và đặt tượng đá kỷ-niệm
tại thị xã này. Ngoài ra, tại thị-xã Cần-Thơ cũng có con đường và một
trường trung-học tư thục mang tên Thủ-Khoa-Huân.
Được biết, Ông Nguyễn-Hữu-Huân (1830-1875),
sanh tại làng Tịnh-Hà (nay thuộc xã Mỹ-Tịnh-An, Tỉnh Mỹ-Tho), con của
Ông Nguyễn-Hữu-Lý,
làm Ông cả trong làng, người địa-phương thường gọi Ông Cả Cầm, thuở
nhỏ đi học ở Mỹ-Tho cho đến kỳ thi hương xem thi cử - nhơn ngày
này, thì Ông mới đi Gia-Định để thi và đậu thủ-khoa khi Ông mới 21
tuổi, cho nên người đời gọi Ông ngắn gọn là Thủ-Khoa-Huân (bởi vì,
nếu gọi Thủ Khoa Nguyễn-Hữu-Huân quá dài) và Ông được bổ-nhậm Giáo-Thọ
tại Mỹ Tho. Nhưng, Ông không vì quyền lợi riêng tư để vinh thân phì da
cho cá-nhân và gia-đình Ông mà quên bổ-phận đối với đất nước lúc bấy
giờ bị quân thực-dân Pháp xâm lăng, cho nên Ông mạnh dạn từ bỏ
chức Giáo-Thọ để liên kết với các sĩ phu để chiêu mộ nghĩa binh đứng
lên chống lại quân ngoại xâm. Năm 1861, khi quân Pháp tiến đến để đánh
vào Mỹ Tho, Ông hiệp cùng với Ông
Võ-Duy-Dương
tức Thiên-Hộ-Dương
phát động cuộc khởi-nghĩa lần thứ nhứt để đương đầu trực-tiếp với
chống Pháp. Ngoài ra, hai ông còn liên-kết với Ông
Trương-Công-Định
ở Gò-Công để chống Pháp. Quân Pháp tập trung quân tấn công Ông Trương-Công-Định,
làm cho cánh quân Ông Trương-Công-Định thất thủ, đưa đến Ông Trương-Công-Định
tự-vận để khỏi vào tay giặc. Từ đó, chỉ còn hai ông: Thiên-Hộ-Dương
làm Chánh Đề-Đốc và Thủ-Khoa-Huân làm Phó Đề-Đốc đánh quân Pháp, mãi
đến năm sau tức 1862, Ông Thủ-Khoa-Huân bị giặc Pháp bắt, Án Sát Phạm-Hoàng-Đạo
tâu lên vua Tự-Đức để chiếu chỉ vô Nam cho quan đầu Tỉnh An-Giang (lúc
đó còn trực thuộc triều đình Huế) dạy phải thả ngay Ông Thủ-Khoa-Huân
và đưa về Huế. Khi chiếu chỉ vua tới An-Giang, thì Ông Thủ-Khoa-Huân
đã bị giao cho quân Pháp rồi. Lúc đó, Bà Thủ-Khoa-Huân nhũ danh
Lê-Thị-Lộc
làm đơn kiện quan đầu Tỉnh An-Giang không tuân chiếu chỉ vua ban, đồng
thời Bà đòi Pháp phải trả ngay Ông Thủ-Khoa-Huân. Ở trong tù tại khám
lớn ở Sài-Gòn, Ông Thủ-Khoa-Huân khi hay tin này, có làm bài thơ gởi
cho Bà, đã dịch sang chữ nôm như sau :
Xem qua thơ gởi
rất kinh hoàng,
Nhi nữ chà chà
cũng lớn gan,
Đơn bẩm cuối
luồn loài bạch quỉ
[1]
Sân quì vất vã
phận hồng nhan
Bán mình đâu
ngại phiền lòng sắc
Chuộc tội thà
xin trọn nghĩa vàng
Tiết khí dưới trần coi ít
mặt
Cang thường
[2]
càng trọng gánh giang sang.
Ngoài ra, giặc Pháp đã dùng
đủ phương cách để cho Ông hàng, từ hăm dọa đến cực hình hoặc tình-cãm
đến vật-chất để mua chuộc, nhưng Ông không hề nao-núng và mạnh dạng từ
chối, kể cả mọi vinh hoa phú quí và một lòng trung-kiên bất-khuất
chống lại ngoại xâm. Cuối cùng Ông lợi-dụng sơ xuất của giặc nên Ông
trốn thoát trở về hoạt-động kháng-chiến trở lại và cùng với Ông
Thiên-Hộ-Dương chiêu mộ nghĩa-binh để khởi sự cuộc kháng chiến lần thứ
hai vào năm 1863, được sự ủng-hộ mạnh-mẽ của của toàn dân Miền Tây Nam
Bộ kết hợp với phong trào chống Pháp của người Cao-Miên (Khrmer), nên
giặc Pháp cùng các quân Việt- gian như Đỗ-Hữu-Phương phải mất ăn mất
ngủ và phải bao vây càn quét, tấn công nhiều phen kinh hồn vào các
vùng chiến-khu mới bắt được Ông Thủ-Khoa-Huân lần thứ hai sau 1 năm
trốn thoát (1864). Lần nầy, chính tên tướng De La grandière, tổng tư-lệnh
quân-đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương đích thân gặp Ông Thủ-Khoa-Huân
để đối-đãi lịch-sự đồng thời tỏ ý mời Ông tham gia làm việc với giặc
Pháp, với bổng lộc và chức-vụ cao. Nhưng, bị Ông Thủ-Khoa-Huân nhứt định
từ chối, trong khi đó những bọn Việt gian, bán hết lương tâm, không
nghĩ tình ruột thịt dân-tộc giống nòi thì rất thèm thuồng chức-tước
của giặc ban cho Ông Thủ-Khoa-Huân không nhận. Cuối cùng, Ông
Thủ-Khoa-Huân bị khép tội chống lại chánh-phủ Pháp và bị đày 10 năm
khổ sai biệt xứ và đưa ra đảo Réunion một hòn đảo ở Đông Nam Phi Châu,
Madagasca thuộc Pháp (nơi hòn đảo này cũng là nơi vua Thành-Thái
(1889-1907) bị đày từ năm 1915 đến tháng 5 năm 1947). Với cái án 10
năm tù khổ sai biệt xứ, nhưng Ông Thủ-Khoa-Huân không bao giờ nản
ý-chí chống lại giặc Pháp và cứu nước của Ông. Với tinh thần bất-khuất
oai-hùng đó, được thể hiện qua các bài thơ yêu nước nồng nàn của Ông,
xin trích dẫn đơn cử như sau :
Bị Đày
Trăm việc nên
hư cũng bởi trời,
Cái thân chìm
nổi biết bao nơi,
Mấy hồi tên đạn
ra tay thử,
Ngàn dặm non
sông dạo gót chơi,[3]
Chén rượu Tân
Đình chưa mãn tiệc,
Câu thơ cố quốc
chẳng nên lời,
Cang thường bởi
biết nên mang nặng.
Hể đứng làm trai chắc nợ đời,
Ông Thủ-Khoa-Huân,
còn rất nhiều bài thơ nữa, xin trích-dẫn ví như các bài sau đây :
Tri Kỷ
Có ai tri kỷ nhắn
đôi lời,
Biết thú chi vui
rủ dạo chơi,
Chốn cũ phong lưu
quen những thuở,
Cảnh này quyến
thức nhắn không người,
Ở ăn tuy phải
nương cùng tục,
Khó nhọc đà nên
cực nỗi đời,
Hương hỏa ba
sinh
[4] dầu chẳng toại,
Đừng đem hình
dịch[5]
để triêu người.
Bửa Củi
Rừng nho nhen
nhúm mảng lân la,
Bửa củi không quen nhọc sức
à,
Búa báo dốc
toan rèn cội dước,
Gươm linh đâu
nở chém cây dà,
Đoạn ngay chỉ
quyết phòng kinh chín,
Khúc vạy lòng
toan muốn chắt ba
[6] ,
Văn võ
[7] bao nhiêu ôm để đó,
Chờ khi nấu
nước sẽ đem ra.
Cảm Xúc Tự
Thuật
Tòng Cúc ngày
xưa thấy đặng còn,
Thân này chẳng
thẹn với non sông,
Miếu đường
[8] xa cách niềm tôi chúa,
Gia thất buộc
ràng nghĩa vợ con,
Áo Hán mười
phần thay cách lạ,
Rượu Hồ một mực
đắm mùi ngon
[9] ,
Giang Đông vẫn
biết nhiều anh tuấn,
Cuốn đất kìa ai
dám hỏi don.
Ông
Thủ-Khoa-Huân được giặc Pháp giảm án 10 năm còn 7 năm tù khổ sai biệt
xứ và đưa Ông về quê-hương giao cho tên Việt gian Đỗ-Hữu-Phương quản
thúc ở Chợ Lớn để dạy học, đồng thời đem vinh hoa phú-quí dự dỗ lần
nữa, nhưng bị Ông Thủ-Khoa-Huân một mực khức từ, bởi một lòng một dạ
với đất nước và dân-tộc trước sau như một. Rồi thừa lúc sơ hở Ông trốn
thoát về An-Giang để hợp cùng các kháng-chiến quân chống giặc Pháp lần
thứ ba .
Đầu năm 1874,
cuộc kháng chiến chống giặc Pháp vẩn theo lối đánh du-kích, địa bàn
hoạt-động của kháng-chiến quân chạy dài từ Bình-Cách qua Bến-Tranh,
Cai-Lậy đến Mỹ-Quí, làm cho giặc Pháp phải chùn bước xăm lăng, cho nên
quân Pháp bắt buộc phải dồn lực-lượng để đánh bại kháng-chiến quân vào
đầu năm 1873. Riêng Ông Thủ-Khoa-Huân cùng người tùy tùng là Đốc Binh
Hương lẻn về Chợ Gạo dự định quá giang thuyền buôn ra Bình-Thuận cầu
viện, nhưng dự-định bất thành, Ông bị quân Pháp và Tổng Đổng Đốc Lộc
bài kế bắt Ông và đem về giam tại Mỹ-Tho, tại đây bọn chúng cũng dụ
hàng, nhưng không thể lay chuyển Ông. Mãi đến ngày 19 tháng 5 năm 1875
dương-lịch, nhằm ngày rằm tháng tư âm-lịch năm Ất-Hợi, giặc Pháp cho
chở Ông về quê-hương ở làng Tịnh-Hà để chịu án tử hình, Ông bị mang
gông ngồi trên mui tàu và cho loa gọi dân chúng hai bên bờ sông ra xem,
nhưng dân chúng ở đây đặt bàn thờ để tiển đưa Ông. Mặc dầu cái chết
gần kề, nhưng Ông vẫn ung-dung ứng khẩu một bài thơ để đời như sau:
Mang Gông
Hai bên
thiên-hạ thấy hay không?
Một gánh
cang-thường há phải gông,
Oằn oại đôi vai quân-tử trúc,
Lung lay một cổ
trượng-phu tòng,
Thác về đất Bắc
danh còn rạng,
Sống ở thành Nam
tiếng bỏ không,
Thắng bại dinh du
trời khiến chịu,
Phản thành đứa quả
đứa cười ông.
Khi tàu cập bến
giáp nước làng Tịnh Hà, giặc Pháp đưa Ông lên nơi xử tử và cho phép
Ông làm các ước nguyện cuối cùng:
¥
Viết
đôi liễn cho gia-đình Ông thờ như sau :
Hữu chí nan
thân không uổng bách niên chiêu vật nghị,
Duy công bất
tựu diệt quyên bất tử báo quân ân.
Xin tạm dịch là :
Có chí khó giương ra, luống để trăm năm mang miệng thế.
Đầu công không đạt được cũng
liều một chết đáp ơn vua.
¥
Hướng
về Triều đình lạy ba lạy để báo ơn vua.
¥
Yều
cầu cho gia-đình nhận lãnh xác và đầu về chôn chung.
Theo Ông Nguyễn Phương
(Paris 1998) viết trong Đặc San Tiền Giang số 3, xin trích dẫn như sau
:
Hữu chí nam thân,
không uổng bách niên chiêu vật nghị,
Tuy
công bất tựu, diệc, tương
nhất tử báo quân ân.
Xin tạm dịch là :
Có chí khó bày, không uổng
trăm năm lời nghị chúng
Tuy công chưa tới, cũng đành
một thác báo ơn vua.
Được biết, Ông Thủ Khoa
Huân, lúc đó được 35 tuổi đã đền xong nợ nước tại đầu cầu Cai Lộc
khoảng giữa đường Mỹ Tho và Long An (đường dọc theo bờ Bảo Định Hà)
gần chợ Thân Trong.
Ngày nay, nếu ai có
dịp đi từ Sàigòn đến Mỹ Tho, khi đến ngã ba Tân Hiệp, rẽ trái, trên
con lộ đá đỏ khoảng 5 cây số, đưa đến Tịnh Hà, gần đến cầu sắt "Cai
Lộc" bắc qua sông Bảo Định, rẽ trái vào một đoạn đường đất, thì sẽ
thấy đình thờ và phần mộ của Ông Thủ Khoa Huân, anh hùng dân tộc để
viếng thăm, nằm trên một nền đất cao giữa ruộng, vườn cây xanh. Trở
qua cầu sắt cạnh ngã tư (đường xuống Nhựt Tiên, đường ra Phú Kiết,
đường về Tân An, đường Lên giồng Tân Hiệp) sẽ thấy tấm bia mộ của Ông
do con cháu dựng nên sơ sài.
[1]
Bạch quỉ = Chỉ quân Pháp.
[2]
Cang thường = Tam Cang là Quân Vi Thần Cang,
Phụ Vi Tử Cang, Phu Vi Thê Cang là ba giềng mối buộc Vua tôi, Cha
con, Chồng vợ. Và Ngũ Thường là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
[3]
Nghĩa khí của Ông Thủ-Khoa-Huân xem lằn tên mũi đạn khi chống
giặc Pháp như một trò thử thách và đi đánh giặc đó đây không khác
đi ngàn dặm non sông dạo gót chơi. Quả thật Ông Thủ-Khoa-Huân xem
cái chết tợ lông hồng, không hề nao núng.
[4]
Hương hỏa ba sinh
. Ở đây cả câu thơ này ý nói công ơn tổ tiên chưa được đền đáp
cho toại nguyện qua ba kiếp nguời.
[5]
Hình dịch
ý nói công việc khổ sai.
[6]
Ví kẻ xấu thì phải trừng trị.
[7]
Văn võ = ý nói hiện nay ông bị tù đày thì văn võ của ông có được
phải
[8]
Miếu đường = Ý nói triều đình.
[9]
Ý nói Tô Vũ thời Hán đi sứ rợ Hồ bị bắt và sai Hồ gian tới dụ
hàng. Tô Vũ một mực trung thành với nhà Hán mà không màn đến lợi
danh vật chất mà phản bội quê-hương, không khác Ông Thủ-Khoa-Huân
ngày nay.