Điểm sách
NGUYỄN PHÚ ĐỨC,
NGUYỄN XUÂN PHONG VÀ NGUYỄN TIẾN HƯNG
VIẾT VỀ CÁI CHẾT
CỦA ĐỆ NHỊ CỌNG HOÀ
“We betrayed
you”
(W.Westmoreland)
Từ ba
thập niên nay, không đợi đến ngày 30 tháng tư trở lại mới có thêm tài
liệu giải mật được phổ biến từ ba phiá Mỹ, Côïng sản và Quốc gia liên
hệ đến giai đọan hấp hối của chính phủ Nguyễn Văn Thiệu kết thúc bằng
cuộc tháo chạy của Hoa kỳ năm 1975.
Người
viết cũng có dịp đọc qua và so sánh các dữ kiện trình bày trong năm
quyển hồi ký của ba nhân chứng còn sống: Pourquoi les Eùtats-Unis
ont-ils perdu la guerre ? (nxb Godefroy De Bouillon, Paris 1996)
và The VN Peace Negotiations, Saigon’s Side of the Story
(nxb Arthur J Dommen,VA, 2005) của Nguyễn Phú Đức; Hope and
Vanquished Reality (nxb Xlibris Corp., NY, 2001) của Nguyễn Xuân
Phong; Hồ sơ Mật Dinh Độc lập (viết chung với Jerrold
Schecter, nxb The C & K Promotions Inc., LA , 1986) và Khi Đồng
minh tháo chạy (nxb Hưá Chấn Minh, 2005) của Nguyễn Tiến
Hưng. Gs Đức hiện đã về hưu sau khi dạy luật năm 1975 taị ESSEC,
École Supérieure des Sciences Économiques et Commerciales, Paris, còn
hai ông Phong và Hưng thì định cư ở Hoa kỳ, người đầu là chuyên viên
nghiên cứu ở Trung tâm VN Center, Lubbock, Texas Tech University, và
người sau dạy tại Đại học Howard, Washington.
Phạm vi
hạn hẹp của bài này không cho phép đi sâu vào chi tiết diễn tiến của
những cuộc đàm phán mật và công khai của các phái đoàn tham nghị, đặc
biệt giữa Kissinger và đại diện Bắc Việt, kéo dài từ 25.3.1965 (là
ngày Tổng thống Lyndon Johnson tuyên bố sẳn sàng nói chuyện hoà bình
với CS ) cho đến 27.1.1973 là ngày ký Hiệp định Paris. Người viết sẽ
phân tích vai trò thật sự của ba tác giả nêu trên, các đặc điểm trong
những hồi ức của họ và bối cảnh hỗn loạn ở Miền Nam VN vào tháng tư
1975.
Chính sách tóm thu quyền bính và bố trí nhân sự của Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu
Từ ngày
đảo chính 1.11.1963 lật đổ Đệ nhứt Cọng hoà cho đến 1967 là năm ban
hành Hiến pháp Đệ nhị Cọng hoà, Chính phủ Quân nhân cai trị thiếu căn
bản pháp lý nên Miền Nam VN biến lọan liên tiếp. Tháng 5.1967, Hoa kỳ
thúc Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia và Ủy ban Hành pháp Trung ương tổ chức
bầu cử hai ngành Hành pháp và Lập pháp. Mười liên danh tranh chức
Tổng thống và Phó Tổng thống. Liên danh Quân đội Thiệu-Kỳ đắc cử.
Trong vòng hai năm, TT Thiệu củng cố địa vị, vô hiệu hoá Hội đồng
Giám sát của Tướng lãnh, cắt lông cắt cánh Phó Tổng thống Kỳ và ngày
1.9.1969, thay thế con gà yểu số của Kỳ là Thủ tướng Nguyễn Văn Lộc
bằng Nội các Trần Thiện Khiêm do Thiệu kiểm soát hoàn toàn. Năm 1971,
Thiệu độc diễn với “chính sách 4 không” và đắc cử dễ dàng
nhiệm kỳ hai.
Qua
trung gian hai Pháp kiều Raymond Aubrac (bạn thân của Hồ Chí Minh) và
Herbert Marcovich (một khoa học gia), giáo sư Kissinger (K) tổ chức
cho Averell Harriman, đại diện Hoa kỳ, gặp ngày 10.5.1968 ngoại trưởng
Xuân Thủy, có Lê Đức Thọ cố vấn. Khi chính thức trở nên Phụ tá an ninh
cho Nixon, K nhờ Jean Sainteny, nguyên đại diện cho Pháp taị Hoà ước
Genève năm 1954, sắp xếp cho y gặp riêng ngày 4.8.1969 Xuân Thủy taị
tư thất của Sainteny, đường Rivoli, Paris. Năm 1971, cuộc thương
thuyết công khai bắt đầu. Hoa Thịnh Đốn ép Chính phủ Sàigòn chấp nhận
sự tham gia của Mặt trận Giải phóng Miền Nam, (MTGPMN). Hoa đàm dẩm
chân khá lâu vì bốn phe nghị hội: Mỹ, VNCH. Bắc Việt và MTGPMN tranh
luận về thủ tục và kèn cựa mặc cả. Bắc Việt áp dụng chiến thuật vưà
đánh vừa đàm vì biết người khổng lồ Hoa kỳ với đôi chân đất sét thiếu
kiên nhẩn và bị cánh phản chiến trong nước khoá tay. Chiến cuộc trở
nên khốc liệt với biến cố Tết Mậu thân (1968). Ngày 2.3.1971, Việt
cộng pháo kích Sàigon, Đà nẳng, Biên Hoà và 115 chổ. Ngày 9.7.1971,
để gây áp lực với Bắc Việt, K qua Bắc kinh viếng Chu Ân Lai và chuẩn
bị cuộc gặp mặt đầu năm 1972 giữa Nixon và Mao Trạch Đông. CS tổng
tấn công vào lễ Phục sinh, lối năm tuần sau chuyến công du của Nixon
taị Bắc kinh. Ngày 8.5.1972, Nixon ra lệnh gài mìn Hải phòng và dội
bom Bắc Việt.
Để đối
phó với tình hình bên trong và bên ngoài, Tổng thống Thiệu cẩn thận
sắp xếp một Bộ tham mưu quân chính gồm những thành phần tin cẩn, dựa
vào sự trung thành cá nhân hay huyết thống gia đình, bất chấp dư luận
dèm pha. Về quân sự, Tổng tư lệnh Quân đội N V Thiệu nắm hết quyền
bính trong tay, Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên chỉ đóng vai trò
tuân hành và thị chứng. Bộ Quốc phòng là “hộp thơ” giữa Tổng thống và
Bộ Tổng tham mưu. Thiệu chọn trung tướng Đặng Văn Quang, cựu Tư lệnh
Quân đoàn 4, làm Phụ tá an ninh. Ông bổ nhiệm vào chức Tư lệnh vùng
hay sư đoàn trưởng Nguyễn Văn Toàn, Phạm Văn Phú, Ngô Dzu, Đổ Kiến
Nhiểu, Hoàng Đức Ninh.. Với một hệ thống máy truyền tin đặt taị Dinh
Độc lập, Tổng thống liên lạc thẳng với cấp chỉ huy Quân khu và theo
dõi sít sao việc điều động các đơn vị tác chiến hầu ngăn chận mọi mưu
toan đảo chánh. Nhiều thân nhân của ông Thiệu nắm giữ các cơ cấu chính
quyền như hai anh ruột là Nguyễn Văn Kiểu (đại sứ ở Đài loan) và
Nguyễn Văn Hiếu (đại sứ taị La mã); xui gia Nguyễn Tấn Trung (TGĐ Air
VN), Ngô Xuân Tích (chủ tịch Giám sát viện), Ngô Khắc Tỉnh (Tổng
trưởng,Thông tin rồi Giáo dục và Thanh niên), Ngô Khắc Tịnh (Tổng
trưởng Tư pháp), cháu Hoàng Đức Nhã (Bí thơ đăc biệt rồi Tổng ủy Dân
vận và Chiêu Hồi), em cột chèo Nguyễn Xuân Nguyên (bí thơ,), Nguyễn
Khắc Bình (Tổng giám đốc Cảnh sát kiêm đặc ủy trưởng Trung ương tình
báo)..v..v..Là đảng viên Cần lao thời Đệ nhứt Cọng hoà và Đại Việt, TT
Thiệu trọng dụng một số nhân vật chế độ củ hay đảng phái trong Thượng
viện hoặc bộ máy chính trị như các ông Nguyễn Văn Hướng (tự Mười Hướng),
Nguyễn Văn Ngải, Trần Trung Dung, Trần Chánh Thành, Trần Văn Lắm, Lê
Văn Đồng, Phạm Như Phiên, Trần Hữu Phương.. (hai ông Lắm và Thành có
lúc được bổ nhiệm Tổng trưởng Ngoại giao). Tại Quốc hội, các phe nhóm
chống Chính phủ lần hồi bị vô hiệu hoá bằng sự chia rẻ nội bộ, đàn áp,
mua chuộc, không kể việc xâm nhập của Cộng sản. Đa số thẩm phán Tối
cao Pháp viện bị Phủ Đầu Rồng chi phối nghiêm trọng.
Vì biết
khả năng của mình giới hạn, ông Thiệu - theo Ngô Khắc Tỉnh nói với
người viết – chiụ khó hỏi ý kiến của nhiều chuyên viên, phân tíùch kín
đáo và đúc kết lại thành ý kiến riêng để lấy quyết định cuối cùng. Với
bẩm tánh đa nghi, kiên nhẩn chiụ đựng, và khi cần, chấp nhận khổ nhục
kế, ôâng Thiệu đã gở nhiều thế bí trong cuộc tranh quyền với Kỳ.
Cuối cùng, Kỳ bị loại vì ba hoa hơn mưu lược. “Làm chính trị,
phải lì “, ông Thiệu nói.
Trong
lúc đàm đạo thân tình, người viết có dịp hỏi đại tướng Cao Văn
Viên: “Nếu
sánh hai
ông Diệm và Thiệu thì người nào độc tài hơn
?”. Suy nghĩ một phút, tướng Viên đáp: “Ông Thiệu độc tài trong dân
chủ ”, ngụ ý TT Thiệu khôn ngoan che lấp độc tài dưới võ ngoài dân
chủ. Khác với TT Diệm, ông chấp nhận sự chỉ trích khi cần thiết. Nhờ
thế, ông Thiệu tồn tại lâu hơn ông Diệm.
Dư
luận thắc mắc vì sao, từ 1972, Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên buông
xuôi và Thủ tướng Trần Thiện Khiêm giữ thái độ bất động? Nghị sĩ Trần
Văn Đôn ghi như sau nơi trang 430-431 của hồi ký Việt
Nam Nhân
chứng
(1989): “..Ông Thiệu nghĩ rằng hai tướng Viên và Khiêm không có can
đảm phiêu lưu làm đảo chánh, nhất là không có lịnh của Mỹ…..Năm 1971,
TT Thiệu nhờ tôi nói với đại tướng Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, về
việc ông này cứ ở mãi trong văn phòng, không chiụ đi ra ngoài. Ông
Viên trả lời: Tôi đã xin từ chức mấy lần mà ông Thiệu không chấp thuận
nên tôi cứ ở văn phòng làm việc mà thôi!”. Nơi trang 429, Đôn ghi
thêm: “ Tôi hỏi ông Thiệu: Nếu Tổng thống không bằng lòng về hai
ông Viên và Khiêm thì sao không đổi người khác để làm việc hữu hiệu
hơn? Ông Thiệu đáp: Hai người này của Mỹ, nếu tôi đổi hai người này
thì Mỹ sẽ phản đối, tôi sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc lãnh đạo Miền
Nam. Cái khó khăn của tôi ai cũng nghĩ là đối đầu với Cộng sản. Thật
ra trở ngại và khó khăn cho tôi là Mỹ.”
Điều
mà Ns Đôn quên nêu ra là cả hai tướng Khiêm và Viên từng tuyên bố “không
ham thích chính trị.” TT Thiệu tìm đâu ra những nhân vật “lý tưởng
hơn” để tránh sự cạnh tranh về quyền lực ?
Nguyễn Phú Đức, Nguyễn Xuân Phong và Nguyễn Tiến Hưng: Ba nhân chứng,
ba giai đọan, ba trách vụ
Như
đã ghi trên, cuộc đàm phán tại Paris gồm có ba giai đọan liên tiếp:
mật đàm (từ 25.3.1965 cho đến đầu 1968), đàm phán công khai
(từ 1968 cho đến 27.1.1973 là ngày Hiệp ước hoà bình được ký tại
Paris) và giai đọan thi hành Hiệp ước, (từ 27.1.1973 cho đến
30.4.1975, kết thúc bằng sự vi phạm của Bắc Việt) .
Chính phủ VNCH không liên hệ đến giai đọan mật đàm. Năm 1965 và 1966,
K qua Sàigòn với tư cách chuyên gia tư vấn của Thống đốc Nelson
Rockefeller (Dân chủ) tìm hiểu vấn đề VN. Y tiếp xúc với vài nhân vật
đối lập như Trần Văn Tuyên, Phan Huy Quát..và thẩm lượng (bi quan) khả
năng lãnh đạo của các tướng trẻ Jeunes turcs. K cũng có ra Bắc
gặp Phạm Văn Đồng. Năm 1968, Nixon đắc cử Tổng thống. K mau lẹ xoay
qua cố vấn chủ mới Cọng hòa. K say mê ánh đèn sân khấu và thích thú đi
đêm với Hànội. Từ tháng 8.1969 cho đến cuối tháng giêng 1973, K gặp
riêng Lê Đức Thọ, Cố vấn phái đoàn Bắc việt, lối 15 lần ở Choisy Le
Roi hay Gif sur Ivette.
Khi
đàm phán tiến vào giai đọan công khai, TT Thiệu giao cho Ngoai trưởng
Trần Chánh Thành phụ trách. Trần Văn Lắm thay thế Thành sau cuộc hội
kiến Johnson-Thiệu ở Honululu ngày 18.7.1968. Tại Paris, đại sứ Phạm
Đăng Lâm hướng dẫn phái đoàn VNCH, gồm có Nguyễn Xuân Phong, (Phó
trưởng đoàn), Trần văn Ân, Trẩn Văn Đổ, Nguyễn Quốc Định, Nguyễn Đắc
Khê, Nguyễn Ngọc Huy, Nguyễn Ngọc An, Nguyễn Thị Vui, và Nguyễn Triệu
Đan (phát ngôn viên). Cố vấn Kỳ và vợ gây nhiều tai tiếng taị Thủ đô
Ánh sáng. Tiến sĩ Nguyễn Phú Đức, phụ tá ngoại giao cho TT Thiệu,
đóng một vai trò kín đáo, khiêm nhường bên sau hậu trường còn Gs
Nguyễn Tiến Hưng thì chưa tham chính lúc đó.
Hiệp
định Paris được thi hành ra sao? Sau ngày 27.1.1973 ký xong Hiệp định
Paris, Trần Văn Lắm trở về Thượng viện để giữ chức Chủ tịch, nhường
ghế Ngoại trưởng cho Phụ tá Nguyễn Phú Đức. Phó thủ tướng Nguyễn Lưu
Viên được chỉ định làm trưởng đoàn VNCH taị Hội nghị La Celle Saint
Cloud để chuẩn bị cuộc bầu cử tại Miền Nam VN với chính phủ MTGPMN.
Bs Viên, về sau, tiết lộ với người viết: “ Chúng tôi biết trước Hội
nghị La Celle St Cloud không đi đến đâu, chỉ có tác dụng câu giờ,
mọi vấn đề sẽ giải quyết trên chiến trường.” Hai ông Nguyễn
Xuân Phong và Nguyễn Tiến Hưng tham gia Nội các vắn số Nguyễn Bá Cẩn,
thành lập ngày 14.4.1975, vào lúc Chính Phủ Sàigòn sập tiệm, người đầu
trong chức Quốc vụ khanh đặc trách Hoà đàm (thay thế Trần Văn Lắm) và
người sau, trong chức Tổng trưởng Kế hoạch. Dưới danh xưng này, Hưng
được TT Thiệu động viên (tuyệt vọng) vào giờ thứ 25 sang Hoa kỳ van
xin cứu viện. Nhiệm vụ của bs Nguyễn Lưu Viên và Đs Nguyễn Xuân Phong
chỉ có trên giấy tờ vì Bắc Việt từ chối nhóm họp và ào ạt xua quân
thôn tính Miền Nam. bất chấp các điều ký kết.
Vai trò đặc biệt của hai cố vấn Huỳnh Văn Trọng và Hoàng Đức Nhã
Chính
quyền Nguyễn Văn Thiệu từng gây xôn xao trong quần chúng bởi xử dụng
một số nhân vật tai tiếng như Nguyễn Cao Thăng, Vũ Ngọc Nhạ, Nguyễn
Văn Ngân, Huỳnh Văn Trọng, Hoàng Đức Nhã…Ba cố vấn của Thiêu bị điều
tra, cách chức hay đưa ra Toà: Trọng, Nhạ (tình báo CS) và Ngân (xây
dựng uy thế riêng). Bài này chỉ đề cập đến Trọng và Nhạ vì cả hai
liên hệ đến hoà đàm Ba Lê.
A-
HÙYNH VĂN TRỌNG.
Năm 1958,
khi người viết phụ trách Bộ Nội vụ thời Đệ nhứt Cọng hoà, Bernard
Hùynh Văn Trọng
(Pháp tich và công giáo) bị Đoàn công tác đặc biệt Miền Trung lùng bắt
trong vụ mệnh danh Gián điệp Tây ở Nhà hàng Morin, Huế. Y thoát
được qua Nam Vang và tại đây, móc nối với Ca Văn Thỉnh, trưởng đoàn
đại diện thương mại CS Bắc Việt. Trọng có bằng cử nhân luật, thông
thạo Pháp - Anh ngữ, từng làm thẩm phán ở Huế và năm 1950 giử chức
Tổng thơ ký Chính phủ và Bộ trưởng Nội vụ trong Nội các Nguyễn Phan
Long. Sau chính biến 1963, D V Minh thả bưà bải tù nhân chính trị.
Trọng trở về Sàigòn và tham gia cụm tình báo chiến lược A22 do Vũ Ngọc
Nhạ phụ trách. Để sinh sống, Trọng dạy tiếng Pháp cho nhân viên ngoại
giao Mỹ và nhờ cha Trần Ngọc Nhuận giới thiệu với TT Thiệâu . Y được
Thiệu tin dùng và bổ nhiệm phụ tá Tổng thống về chính trị, ngoại giao.
Đầu 1969, vợ Trọng đến Văn phòng luật sư của người viết, đường Hàn
Thuyên, nhờ biện hộ trước Toà Nhà phố trong vụ bị đuổi ra khỏi một
khách sạn đường Lê Lợi Sàigòn vì thiếu tiền thuê nhiều tháng. Trọng
nói không dư dã tiền bạc tuy có chức vụ cao.
Tháng 11.1969, vụ án Điệp báo Cố vấn TT Thiệu gây chấn động dư
luận. Trọng nhờ tác giả bài này bênh vực trước Toà án Quân sự vùng 3
Chiến thuật. Trọng tiết lộ với người viết rằng y và cụm trưởng Vũ
Ngọc Nhạ muốn giúp TT Thiệu tìm ra với MTGPMN một giải pháp cho cuộc
chiến, không ngờ CIA theo dõi và phá vỡ mọi việc. Trọng còn cho biết
năm 1968, để chuẫn bị hoà đàm taị Ba Lê, TT Thiệu đã gởi Trọng cùng đi
với linh mục gốc Bỉ Raymond de Jeagher (cựu cố vấn của TT Diệm và một
thành viên năng động trong Liên Minh Á châu chống Cộng) qua Hoa kỳ
vận động với Quốc hội, báo giới và nghiệp đoàn. Chuyến công du này
không gặt nhiều kết quả vì , theo Trọng, dư luận Mỹ chán ngán chiến
tranh.
Vụ
án kết thúc ngày 29.11.1969. H V Trọng rất sợ bị tử hình. Người viết
khuyên y bình tỉnh vì bên trong sân khấu chính trị, những dàn xếp bât
ngờ có thể xảy ra, Hoa kỳ còn một số phi công tù binh tại Hànội
Hilton; hơn nửa, trong vụ này, Trọng chỉ đóng vai trò “Lê Lai cứu
chúa”.Vị Chánh thẩm cho phép các bị can nói lời chót trước khi
tuyên án. Vũ Ngọc Nhạ cường điệu tuyên bố nhóm của y hành động vì
quyền lợi quốc gia, họ tin sẽ thắng và hẹn có ngày trở về vinh quang.
Trọng lên tinh thần, ngổ ngáo lập lại trước Toà câu nói của người viết:
“Tôi chỉ đóng vai trò Lê Lai cứu Chúa, tôi không có tội.’
Các sự kiện này được kể lại trong quyển hồi ký Ông Cố vấn do CS
xuất bản năm 1984 tại VN, với nhiều khoản thêu dệt. Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh
Văn Trọng, Lê Hữu Thuý và Nguyễn Xuân Hoè bị chung thân khổ sai, đày
đi Côn Đảo. Sau 1975, chúng dược CS giải thoát. Nhạ thăng Thiếu tướng,
ngành tình báo.
B- HOÀNG ĐỨC NHÃ.
Tuy
không phải là thành viên của phái đoàn VNCH dự hoà đàm tại Ba Lê, Nhã
là người gây bực bội nhứt cho K trong nhiều lần chạm trán. Trần Văn
Đôn (trong hồi ức VN Nhân chứng, trang 406- 415) , Nguyễn Phú
Đức (trong quyển sách The VN Peace Negotiations, trang 400-403)
và K (trong Ending the VN War, trang 310) đề cập
nhiều đến Nhã. N P Đức cho biết Nhã là cháu kêu ông Thiệu bằng cậu,
tốt nghiệp đại học Oklahoma, trở về VN trong Khối chuyên viên, tiến
thân rất mau trong các chức vụ liên tiếp: thông dịch viên, Bí thơ tin
cẩn của Tổng thống và cuối cùng, Tổng ủy Dân vận /Chiêu hồi, phụ trách
sau Hiệp ước Ba Lê mạng lưới Thông tin Quốc ngoại có nhiều quyền lực.
Ảnh hưởng của Nhã gia tăng từ tháng 8.1972 (khi K đề nghị Thiệu từ
chức hai tháng trước ngày bầu cử với CS) và tăng cao hơn sau ngày Hiệp
ước được ký cuối tháng giêng 1973. Nhã luôn luôn có mặt trong các buổi
họp riêng giữa Thiệu và K, Haig và Bunker cũng như trong những phiên
nhóm Hội đồng An ninh Quốc gia để thông dịch vì Phó Tổng thống Nguyễn
Văn Hương, Chủ tịch Thượng viện Nguyễn Văn Huyền và Hạ viện Nguyễn Bá
Lương không rành Anh ngữ. Theo N P Đức, Nhã thiếu kinh nghiệm và sự
già giặn để thảo những công văn ngoại giao trao đổi giữa hai chính phủ
Mỹ-Việt. Nhã nuôi nhiều cao vọng chính trị và trong những ngày tháng
chót của TT Thiệu, Nhã tìm cách gài phe cánh vào Nội các tuy họ thiếu
khả năng. Điều này làm cho chính gia quyến ông Thiệu cũng lo ngại, đặc
biệt Ngô Khắc Tỉnh và đại sứ Nguyễn Văn Kiểu (trang 403).
Trong
Ending the VN War, K viết như sau: “Nhã là cháu tâm phúc
của Thiệu, lối 30 tuổi, phụ tá báo chí, từng du học taị Hoa kỳ,
tiêm nhiểm gương thành công của các chàng trẻ lanh lợi trong phim xi-nê,
ăn bận đúng mốt Hollywood, tướng mạo hao hao giống Alan Ladd thời
thanh xuân, nói tiếng Anh trôi chảy và vẫn giữ lại từ bản gốc Việt Nam
một khả năng mưu loạn vô biên, an infinite capacity for
conspiracy…Bunker và tôi đều đồng ý rằng Nhã đã gây nhiều rắc rối bằng
cách thổi phồng mổi sự hiểu lầm” (trang 310).
K hậm
hực kể lại trong hồi ký thái độ “bất nhã” của Nhã: ngày 19.10.1973,
theo lệnh của Nixon, K qua Sàigòn trình TT Thiệu taị Dinh Độc lập toàn
bản dự thảo Thoả hiệp. Sau khi bắt đợi 15 phút, Nhã ra đón K và Bunker
vào, Thiệu không có một lời xã giao, thản nhiên đọc và không phê bình
bức thơ riêng của Nixon do K trao lại, xong Thiệu mời hai vị khách
bước sang phòng kế bên để gặp Hội đồng An ninh Quốc gia. Giữa bầu
không khí nặng nề, Thiệu giao cho Nhã thông dịch mặc dù phiá VN nói
được tiếng Anh. K viết: Nhã “bắt đầu chế diễu vai trò của mình”
bằng cách chỉ tóm lược gần phân nửa lời thuyết trình của K. Khi K lưu
ý về điểm này, Nhả đáp ngáo ngổ: “ I am a master of
contraction, Tôi là bậc sư về khoa cắt ngắn!”. Ngày 21 tháng 10,
theo chương trình, K và Bunker gặp lại Hội đồng An ninh lúc 2 giờ 30
trưa. Đợi đến 3 giờ, Nhã điện thoại để thông báo – không cho biết lý
do, không xin lổi – phiên nhóm hoãn đến 5 giờ chiều. “ Y hịch theo
kiểu cách của Humphrey Bogart mà có lẽ Nhã đã học đòi đâu đó
trên màn ảnh”. 5 giờ 30, vẫn không tin tức. Bunker bực mình gọi
Dinh Độc lập, đòi nói chuyện với Nhã, Văn phòng đáp Nhã vưà bước ra
ngoài. Một giờ sau – tức là trể gần 5 giờ theo ước hẹn – Nhã điện
thoại báo tin TT Thiệu sẽ tiếp K và Bunker hôm sau lúc 8 giờ sáng.
Bunker bắt bẻ: “Có sự chậm trể ít nửa 24 giờ, giờ Hoa Thịnh
Đốn!” Nhã gát điên thoại. K và Bunker hỏi nhau: “Những hành vi
xấc xược này phải chăng báo hiệu một vụ chạm trán sắp đến ? Về vấn đề
gì? “
Hoàng
Đức Nhã hiện ở Chicago. Đến nay, ông chưa kể lại đầy đủ những kỷ niệm
cá nhân. Mong được nghe thêm tiếng chuông chân thực của một nhân chứng
về giai đọan lịch sử này.
Những đặc điểm trong hồi ký của ba tác giả
1-
Về Ts Nguyễn
Phú Đức,
hiện định cư ở Paris, tốt nghiệp trường luật Hànội và
Harvard,
cựu Phụ tá Tổng thống về quốc ngoại và Tổng trưởng ngoại giao VNCH sau
Hiệp ước Ba Lê, K phê bình châm biếm: “Ông Đức là một sản phẩm mỹ
lệ của hệ thống giáo dục Pháp, chuyên định nghĩa trừu tượng, kết luận
lạc dềà và có tài cãi bướng” Trong lời tựa của VN, Pourquoi les
Eùtats-Unis ont perdu la guerre xuất bản 21 năm sau ngày Sàigòn
thất thủ, ông Đức thanh minh rằng ông cần đợi thời gian lắng đọng để
phân tích thanh thản cuộc chiến VN. Quyển sách này dày 410 trang, viết
bằng tiếng Pháp, chia thành năm phần mổ xẻù chính sách Hoa kỳ tại Đông
Dương sau Đệ nhị thế chiến, sự can thiệp của Mỹ vào VN, việc Mỹ chuẫn
bị rút quân, kế hoạch Nixon và những ngày cuối của Miền Nam. Phần chót
dài 66 trang, không đi sâu vào chi tiết cuộc hoà đàm Ba Lê. Đầu năm
2005, Ts Đức cho phát hành tại Virginia, Hoa kỳ, quyển hồi ký thứ hai,
The VN Peace Negotiations, Saigon’s Side of the Story, nxb
Dalley, dày 463 trang, gồm có ba phần: mở đầu hoà dàm 1968-1969,
những khúc quanh thương thuyết và chiến tranh chấm dứt 1973-1975.
Cố
vấn Nguyễn Phú Đức tháp tùng Tổng thống Thiệu ngày 18.7.1968 hội kiến
với Lyndon Johnson tại Honululu (Mỹ hứa không áp đặt một chính phủ
liên hiệp taị Miền Nam VN) và ngày 8.6.1969 gặp Richard Nixon tại
Midway (Mỹ tuyên bố rút 25,000 quân). Mỗi lần, phái đoàn VNCH gồm có
vài chuyên viên khác. Ngày 29.11.1972, Ts Đức được phái qua Hoa Thịnh
Đốn trình với Nixon quan điểm của TT Thiệu hầu tránh hoà đàm Ba Lê bế
tắc. Ông không có trách nhiệm trực tiếp thương thuyết taị bàn hội nghị.
Nói cách khác, ông là một luật gia phụ trách phần “đấm bóp thời cuộc”
hơn là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp. Tuy nhiên, một số nhận xét
của ông vẫn có giá trị. Đặïc biệt, thay vì dùng danh từ
vietnamization, Việt nam hóa chiến tranh, Ts Đức đề nghị chữ
de-americanization, kế hoạch giải kết vai trò chiến đấu của Hoa kỳ,
nhằm mục tiêu võ trang một quân đội quốc gia VN đủ mạnh để giúp Mỹ rút
quân tuần tự. Ngoài ra, về mối liên hệ giữa K và Nixon, Ts Đức nhận
xét rằng Nixon không tin dùng Bộ Ngoại giao, nhưng đồng thời cũng bực
bội không ít về cách tự đề cao ba hoa của K với báo giới, tự cho mình
là một “ phù thủy hoà bình, a peace magician”, đặc biệt sau
chuyến công du bí mật của y qua Bắc kinh, làm lu mờ vai trò của Nixon
về mặt đối ngoại. Tại sao Nixon không hãm bớt K? Nixon không quên K đã
phản Rockefeller và Đảng Dân chủ để giúp Nixon (Cọng hoà) thắng cử
năm 1968. Bởi thế, Nixon ngán K có thể trở cờ một lần nữa vì quyền lợi
cá nhân. (trang 337-338). Sau hết, Ts Đức lưu ý: Khác với Eisenhower
từng mời thượng khách Ngô Đình Diệm đọc diễn văn tháng năm 1957 trước
lưỡng viện Quốc hội Hoa kỳ, hai Tổng thống Johnson và Nixon đều tránh
tiếp chính thức ông Thiệâu taị thủ đô Washington, viện lẽ sợ phe phản
chiến biểu tình. Sau Hiệp định Ba Lê, Nixon miễn cưởng mời vợ chồng TT
Thiệu qua San Clemente để an ủi xã giao. Nixon và Thiệu gặp nhau ba
lần. Nixon đã gởi Thiệu trên 20 mật thơ hứa hưu, hưá vượn.
2-
Ông Nguyễn Xuân
Phong,
tốt nghiệp đaị học Oxford, nguyên Tổng trưởng Xã hội và Chiêu hồi,
thay thế ngọai trưởng Trần Văn Lắm sau 3.2.1973 trong chức vụ Trưởng
đoàn VNCH tại hoà đàm Ba Lê. Ông cho phổ biến “Hope and Vanquished
Reality, Hy vọng và Khắc phục Thực tại” năm 2001 tại New York,
nhà xuất bản là Center for A Science of Hope trực thuộc ICIS
(International Center for Integrative Studies), một tổ chức truyền
giáo Thụy điển ở Hoa kỳ đấu tranh cho nhân quyền và chuyên nghiên
cứu về vai trò của Hy Vọng trong tín ngưỡng. Ông Phong cọng tác trong
Hội đồng Cố vấn ICIS từ 1988. Quyển hồi ký Hope dày 374 trang,
chia thành 11 chương kể lại việc tác giả từ Paris trở về Sàigòn năm
ngày trước khi Sàigòn sụp đổ vào tháng tư 1975, ba năm cải tạo trong
trại học tập Cộng sản, đời sống cơ cực ở VN khi được phóng thích năm
1980, những tang tóc liên tiếp trong gia đình và thủ tục phiền toái để
xuất ngoại.
Hope
& Vanquished Reality là một sổ tay chấm phá ghi lại, qua đức tin
cá nhân, cảm nghĩ của một nhà ngoại giao về giai đoạn hạ màn của chế
độ mà y phục vụ. Người đọc có cảm tưởng tác giả muốn chứng minh qua
quyển hồi ký rằng Hy vọng là ngọn hải đăng dắc dẫn ông vượt qua mọi
thử thách gian nguy cá nhân, mọi sụp đổ của Quê hương. Bởi thế N X
Phong không đi sâu vào chi tiết của Hoà đàm Bá Lê, không đề cập nhiều
đến giai đoạn đấu khẩu gay go giữa hai phái doàn Bắc-Nam tại bàn hội
nghị. Sự kiện đáng lưu ý là chương 11 trong hồi ký “ The
Longest Road: The Communicative Hope, Con đường dài nhất: Hy vọng
truyền nhiểm”, trang 290-392, kể lại việc Phong tiếp xúc và giữ liên
lạc với Nguyễn Cơ Thạch, thứ trưởng Ngoại giao, phụ tá cho Lê Đức Thọ,
vai trò chính trong phái đoàn Bắc Việt. Chính K đã giới thiệu Phong
với Thọ và Thạch trong một đêm tiếp tân của Ngoại trưởng Pháp Maurice
Schumann, sau đó Thạch và Phong gặp nhau lại nhiều lần ngoài phòng hội
nghị, trao đổi ý kiến cởi mở vàtrở nên “đôi anh em đối nghịch thành
thực, true brother-enemies” tuy dị biệt về một số quan điểm.
Phong đánh giá Thạch “thông minh, hiểu biết, có văn hoá, không quá
khích và chủ trương thỏa hiệp hơn là hận thù”. Thạch và Phong đồng ý
với nhau ít nữa về một điểm: “Hatred and bitterness have never
generated anything really good in the end, Cuối cùng
Hậân thù và Đắng cay không bao giờ sinh sản điều gì tốt thật sự .”
Sau
1980, Phong ra khỏi trại cải tạo, phải đi dạy Anh văn với số lương năm
chục đô hằng tháng, Thạch trở nên một nhân vật của Chính trị Bộ, Phó
Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng. Thạch có mời Phong đến Văn phòng để hỏi ý
kiến, đối xử lịch sự như trước, Phong thẳng thắn đề nghị cần đổi mới
kinh tế và bình thường hoá ngoại giao với Mỹ. Một thời gian sau,
Nguyễn Cơ Thạch mất ghế trong Chính trị bộ và Chính phủ vì bị xem như
thành phần quá cấp tiến.
3. Ts
Nguyễn Tiến Hưng
cho ra mắt tại Little Saigon, Californie, tháng tư năm nay, quyển hồi
ký thứ hai “Khi Đồng Minh Tháo chạy” (KĐMTC) vào lúc George
Bush tiếp Phan Văn Khải taị Hoa Thịnh Đốn, cộïng đồng người Việt hải
ngoại sôi sục chống đối. Việc giới thiệu sách thành công về thương mại.
Giòng tít lớn (và củng là lời nguyền rủa của K) “Sao chúng không
chết phứt cho rồi” mà tác giả khôn ngoan cho in trên bià làm cho
đồng bào ta muốn biết thêm, mua sách. Hồi ức KĐMTC dày 705 trang, chia
thành bốn phần: Làm sao thoát khỏi vùng lầy, Thân phận tiểu quốc, Khi
Đồng minh tháo chạy và Rước của nợ hay được của có. Quyển sách in lại
một số đoạn và tài liệu - như các bức thơ và mật điện trao đổi giữa
Nixon, Ford và Thiệu từ 1972 đến 1975 - đã từng đăng trong tác phẩm
Hồ sơ mật Dinh Độc lập (HSMDĐL).
Trong
Lời Nói Đầu của KĐMTC, Ts Hưng xác nhận ông chỉ làm việc trực tiếp với
tướng Thiệu những ngày tháng hấp hối của chế độ sau khi Hiệp định Ba
Lê được ký. Bởi vậy các ông Cao Văn Viên, Trần Thiện Khiêm, Trần Văn
Lắm, Nguyễn Lưu Viên, Nguyễn Phú Đức và Nguyễn Xuân Phong xác nhận với
người viết không có dịp tiếp xúc với Hưng. Ts Hưng than: “Trong
cương vị điều hợp viên viện trợ kinh tế cho VNCH, nhiều lúc tôi phải
dẹp bỏ tự ái, lui tới Quốc Hội Hoa kỳ như một người đi cầu xin”
(trang21). Khi tình hình an ninh trở nên bi đát, quân đội cạn đạn
dược / xăng nhớt, ngân sách hết tiền trả lương cho lính và cảnh sát,
ông Thiệu mới nghĩ đến việc sai đại tá Đức trao cho Ts Hưng đầu tháng
4.1975 một hồ sơ bià đen đựng các thơ mật nói trên để ông Hưng gắp đi
lobby (?!) chính khách và báo giới Mỹ. Ngày 15.4.1975, một
tuần trước khi Thiệu từ chức (21 tháng 4), Hưng đáp máy bay Panam qua
Washington. Đây là một sứ mạng biết trước vô vọng vì quá trể. Không
còn nước để mà tát. Hoa kỳ đang xoá sổ đồng minh. VNCH hết được coi
như “tiền đồn của thế giới tự do” trấn giữ làn sóng đỏ. Để sớm
dứt điểm, Mỹ vận dụng mọi thủ đoạn: đi đêm với Bắc Việt, dành quyền
thương thuyết thế cho chính phủ Sàigòn, trấn an, tránh né, đe dọa ký
riêng, hăm cắt viện trợ, cam kết đầu môi và bảo đảm suông. Hoa Thịnh
đốn - và Ngoại trưởng Kissinger, gốc Do Thái - dồn viện trợ vào
Israel, “tiền đồn bảo vệ dầu lửa ở Trung Đông.” Chính sách đối
ngoại của Mỹ thực tế, realpolitik, không nặng về luân lý, ý
thức hệ hay lòng chung thủy. Căn cứ vào quyền lợi mà thội. Quyền lợi
thô bạo. “Who pays, commands, Ai chi tiền thì người đó chỉ huy”
là câu châm ngôn gối đầu ở nước này.
Vì
nhận thấy Quốc hội Hoa kỳ phủi sạch tay về VN, Ts Hưng quyết tổ chức
cho kỳ được một cuộc họp báo kiểu nhà nghèo ngày 30.4.1975 tại khách
sạn Mayflower, đường Connecticut, Hoa Thịnh Đốn, với 3.000 đô vay của
gia đình. Ông không lấy ra được ngân khoản 20.000 mỹ kim mà TT Thiệu
hưá miệng để trang trải chi phí. Thầy củ của Hưng là Giáo sư Warren
Nutter, cựu Phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng thời Nixon, hết lòng ủng hộ
nhưng không giúp được gì nhiều. Ts Hưng làm công việc của một người
chửa lửa không có dụng cụ khi nhà cháy sắp tan thành tro. Trong phiên
họp báo, ông không đề cập đến những mật điện do Ford gởi cho Thiệu và
chỉ dùng vài bức thơ cam kết của Nixon để xin cứu vớt đoàn người đang
đổ xô ra Biển Đông. Kết quả là Quốc hội HK chấp nhận trợ cấp 455 triệu
đô và mở cưả đón làn sóng tị nạn VN trên con số 50.000 người dự trù
lúc đầu. Tại Sàigòn lúc đó, ba chiến xa T54 của Bắc Việt phá cổng
xông vào Dinh Độc lập, trương cờ Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Cố TT
Thiệu cho người viết biết: sau 1975, Ts Hưng có trở về VN làm việc
trong lãnh vực tài chính.
Kết luận
Về cái
chết của Miền Nam VN, TT Thiệu tuyên bố: “ Tôi có trách nhiệm
nhưng tôi không có lổi”. Mặt khác, trong hồi ký
Ending the VN War, Kissinger viết: “Nếu không có sự sụp đổ của
quyền hành pháp vì vụ Watergate, tôi tin rằng chúng ta có thể thành
công”. Một ngày sau Hiệp định Bá Lê, Phụ tá Nixon là John
Ehrlichmann hỏi VNCH tồn tại được bao lâu, K đáp: “Nếu may mắn thì
họ có thể cầm cự được một năm rưởi”. Chính phủ Sàigòn sống
lâu hơn decent interval ấy, khiến K mất kiên nhẫn, buông
lời nguyền rủa thô bỉ.
Trong
thất bại, thay vì trách người, ta phải tự trách mình trước, Tiên
trách kỷ, hậu trách nhân. Watergate và Quốc hội Mỹ cắt viện trợ là
hai yếu tố làm Đệ nhị Cộng hoà tan rã nhưng chủ trương bỏ Miền Nam đã
có trước cả Watergate. Cá nhân TT Thiệu gánh chiụ trách nhiệm vì một
số sai lầm tai hại:
1
- Quá
tin vào sự ủng hộ của Hoa kỳ, nghĩ rằng Hoa kỳ sẽ không bỏ rơi vì VN
có nhiều
dầu lửa (!). Thiệu không thông hiểu và không đánh giá đứng đắn vai
trò của Lập pháp và Truyền thông ở xứ này, coi thường công cuộc hoạt
động hành lang, lobby, và nhất quyết bám víu vào 30 bức thơ và
mật điện trao đổi với Nixon mà ông giữ kín như bảo vật đến giờ chót
theo lời cam kết riêng tư. Thiệu không dám tiết lộ vì sợ chính quyền
Mỷ “tố cáo là bội ước“ (KĐMTC, trang 258). Cuối cùng, TT Thiệu
nhận thấy – nhưng quá trể! – mình bị gạt vì chủ tâm của Nixon và
Kissinger là dấu không cho Quốc hội HK biết những hứa hẹn thiếu thành
thật.
2
-TT
Thiệu không có kế hoạch thiết thực cứu nguy Đất nước và đã để xứ sở
tuỳ
thuộc Hoa kỳ quá sâu về chính trị, quân sự và kinh tài. Áp dụng quá
muộn những biện pháp hốt hoảng vào những ngày cuối cùng như tiết lộ
các bức thơ mật của Nixon, chạy vay tiền của quốc vương Saudi Arabia,
thế chấp 16 tấn vàng của Quốc gia Ngân hàng, thế chấp tiềm năng dầu
hỏa, xuất cảng gạo..v..v..để mượn tiền Mỹ. Thay vì nêu gương ở lại
chiến đấu với đồng đội sau ngày từ chức, ông Thiệu bỏ xứ ra đi.
3-
TT
Thiệu nắm trọn trong tay vận mạng của quốc gia, coi thường hai ngành
Lập pháp
và Tư pháp, quyết định một mình việc bỏ rơi hỗn loạn Cao nguyên và
Miền Trung và ngang nhiên hành động vi hiến. Điều 39 Hiến pháp buộc
các hiệp ước về hoà bình (Hiến pháp dùng danh từ “nghị hoà”)
phải được Quốc hội chuẫn phê. Thiệu phạm một sai lầm căn bản khi ông
chọn không tuân hành điều này vào tháng 10.1968 để tránh chạm trán với
Johnson. Ông mời chủ tịch Thượng viện và Hạ viện tham gia thảo luận
trong Hội đồng An ninh Quốc gia để tạo cảm tưởng Quốc hội chính thức
chấp thuận các quyết định của Hội đồng. Trên thực tế, Thiệu truất
quyền của Lập pháp kiểm soát đường lối thương thuyết của Hành pháp.
Đồng lúc, TT Thiệu vô hiệu hoá luôn khả năng của Hành pháp (mà ông đại
diện) chống lại áp lực của Johnson và Nixon, để Hoa kỳ tự ý rút quân.
Ông Thiệu có dịp tâm tình với người viết rằng ông bị ám ảnh bởi vụ
đảo chính và hạ sát TT Diệm do Mỹ sắp xếp khi TT Diệm chống đối.
Ngày nay, ôn
cố tri tân, nhắc chuyện buồn đã qua không phải là để quy trách tiêu
cực mà là để rút tỉa những bài học từ những thiếu sót trong dĩ vãng
hầu giúp cho thế hệ cầm quyền sắp tới đừng tái phạm. Mỗi lãnh tụ đều
gặp những khó khăn và khổ tâm riêng, nhứt là khi phải cùng một lúc
đương đầu với đồng minh đanh thép như siêu cường Hoa kỳ và một kẻ
thù gian ngoan như Cộng sản.
Sau
buổi phỏng vấn dài tại Dinh Độc lập đầu tháng giêng 1973, trước ngày
ký Hiệp định Paris, nữ ký giả Ý Oriana Fallaci, (người đã từng phỏng
vấn Kissinger, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp), nhận xét: “Có ít
nhiều nhân cách trong TT Thiệu và thảm kịch của ông. Chúng ta
có thật hiểu ông hay không? Ít nửa, trong giờ phút đặc biệt này, ông
không còn là con muá rối lố bịch của người Mỹ như chúng ta
tưởng..Tôi hoan hỉ tỏ lòng thương xót và kính trọng đối với ông.”
(Interview with History , Oriana Fallaci, trang 48).
LÂM LỄ TRINH
Thủy Hoa Trang
Ngày 9.8.2005
Californie
THƯ TỊCH
1 - “Điểm
sách Ending the VN War của Kissinger, TT Thiệu và Hoà đàm
Paris”
by Lâm Lễ Trinh 17.8.2001, trong tạp chí VN Forum , Đức quốc
2 – “Mạn đàm
với Bs Nguyễn Lưu Viên, Từ Hội nghị La Celle Saint Cloud đến những
ngày VNCH hấp hối” by Lâm Lễ Trinh, 1.9.2001 trong Thời Luận, Los
Angeles.
3 –
“Kissinger nhận định trong hồi ký Ending the VN War: Kinh nghiệm VN và
thế trận hiện đại” by Lâm Lễ Trinh, 9.10.2002 trong tạp chí Dân
chủ & Phát triển, Đức quốc.
4 – “Mạn đàm
với cựu Ngoại trưởng Trần Văn Lắm: Bề trái trong Hoà đàm tại Bá Lê”
by Lâm Lễ Trinh, 9.8. 1999, trong tạp chí Hải Ngoại Nhân Văn, Boston
5 – “Điểm
sách: Nguyễn Thị Bình tiết lộ về Hoà đàm Bá Lê trong “Chung một Bóng
Cờ” by Lâm Lễ Trinh, 6.12. 2000, trong tạp chí Cánh Én, Đức
quốc
6 – “Our
Endless War, Inside VN” (Presidio Press, CA, 1978) và VN Nhân
Chứng, nxb Xuân Thu, CA, 1989, by Trần Văn Đôn
7 –
Interview with History, by Oriana Fallaci, Houghton Mifflin Co,
Boston, 1976
Tháng
3.2005, Ts Đức cho phát hành taị Virginia quyển hồi ký thứ hai, bằng
Anh ngữ, dày 463 trang, với tựa “The VN Peace Negotiations,
Saigon’s side of the story, nxb Dalley, gồm có ba phần: mở
đầu đàm phán 1968-1969, những khúc quanh của cuộc thương thuyết và
chiến cuộc chấm dứt 1973-1975.