Việt Minh Cướp
Chính Quyền, 73 Năm Nhìn Lại:
Cả
Nước Bị Lừa
Từ Cướp Chính
Quyền Đến Cướp Tài Sản?
Nhạc Sĩ Tô Hải và Cựu Đại
Tá Bùi Tín
Viết
Gì Về Biến Cố 19 Tháng 8, 1945?
Phạm Cao Dương
Đoàn
quân Việt Minh đi
Xe
nhà phất phới
Dắt
họ hàng làng nước ra làm quan.
Cùng
chung sức phá két xây nhà mới,
Đứng
đều lên may vá cho thật sang.
Lời hát nhái bài Tiến Quân Ca thời 1945
Bọn
thanh niên chúng tớ ngơ ngác về chính trị, cứ thấy Mít tinh là ào ào đổ ra
đường chẳng hiểu ai lãnh đạo? Ai hô thế nào thì hô theo thế ấy. Cờ vàng, cờ
đỏ chẳng có gì quan trọng.
Nhạc Sĩ Tô Hải
Sau 70
năm, nhìn lại không thể gọi biến cố đó là Cách mạng tháng Tám. Gọi vậy là “ngoa
ngôn”, là “đại ngôn”.
Cựu Đại Tá Bùi Tín
Chúng
mình già trẻ mắc lừa bọn du côn.
Cựu
Hoàng Đế Bảo Đại
Trước khi vào đề: Cách đây đúng 73 năm, hai biến cố lớn đã xảy ra trên
lãnh thổ Việt Nam, đã đưa dân tộc Việt Nam vào một khúc quanh lịch
sử vô cùng quan trọng: Biến Cố 19/8/1945, Việt Minh cướp chính
quyền và Biến Cố 2/9/1945, Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam độc
lập. Hai biến cố này đã đưa tới sự thay thế chính quyền
của Hoàng Đế Bảo Đại và Thủ Tướng Trần Trọng Kim bằng chính quyền
Việt Minh do Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản lãnh đạo, từ đó tới Cuộc
Chiến Ba Mươi Năm, đầy đau thương, chết chóc, chia rẽ và hủy diệt, kéo
dài từ năm 1946 đến năm 1975. Hai biến cố này thực ra là đều
không cần thiết vì ít nhất hai lý
do:
Thứ nhất: Người Pháp đã bị
nguời Nhật loại trừ ra khỏi chính quyền Đông Dương từ sau ngày
9/3/1945, ngày Nhật đảo chính Pháp. Tiếp theo đến lượt người
Nhật đầu hàng, Việt Nam
đương nhiên độc lập với chính quyền Bảo Đại–Trần Trọng Kim là chính
quyền đương nhiệm
và hợp pháp. Sau này khi người Pháp muốn trở lại, người ta
vẫn có thể dùng
các phương tiện ngoại giao để điều đình nhưng với một
tư thế hoàn toàn khác trước như Thủ
Tướng Trần Trọng Kim đã dự trù và
viết trong hồi ký của ông.
Thứ hai: Chính quyền của Hoàng Đế Bảo Đại và Thủ Tướng
Trần Trọng Kim không
phải là một chính quyền tệ hại, như bị CS tuyên truyền, trái
lại gồm toàn những trí thức ưu tú
đương thời, có khả năng, nhiệt tâm và
sự hiểu biết cần thiết để điều hành đất nước,
khác với các chính quyền sau đó. Chính
quyền này đã và đang thực hiện được nhiều công trình
quan trọng như thu
hồi và cụ thể hóa nền độc lập và thống nhất quốc
gia, thiết lập những cơ chế căn bản
cho một chế độ dân chủ, tự do trong
một tuần lễ được báo chí đương thời mệnh danh là Tuần Lễ Của
Các Tự Do,
đặc biệt và tồn tại cho đến tận ngày nay là công cuộc Việt hóa
và xây dựng nền
giáo dục quốc gia...dù chỉ mới cầm quyền được trên
dưới bốn tháng, những gì chính
quyền Cộng Sản cho đến tận ngày nay
vẫn chưa muốn làm hay chưa làm được.
Tất cả những sự kiện kể trên
người viết ít nhiều đã ghi lại và đã giải thích tương đối đầy đủ,
với những chú thích rõ ràng trong tác phẩm Bảo Đại, Trần Trọng
Kim và Đế Quốc Việt Nam, 9/3/1945 – 30/8/1945, do Nhà Amazon in và
phát hành. Độc giả có thể liên lạc với nhà xuất bản này, tìm
đọc thêm. Trong bài này người viết chỉ xin ghi lại những nhận định
về hai biến cố kể trên của những nhân vật liên hệ hay biết chuyện,
đặc biệt là hai người vừa mới qua đời trong Tháng Tám vừa qua:
Nhạc Sĩ Tô Hải, tác giả Hồi Ký Của Một Thằng Hèn và
Cựu Đại Tá, Nhà Báo Quân Đội Nhân Dân Bùi Tín.
Nhạc Sĩ Tô Hải và Cựu Đại Tá Bùi
Tín là hai nhân vật đã có dịp theo dõi và tham gia cuộc sống trong
thời gian hai biến cố kể trên xảy ra, đã phục vụ chính quyền Cộng
Sản trong Quân Đội Nhân Dân, trong văn nghệ và báo chí, sau đó đã đổi
thái độ. Ngày 11/8/ 2018 vừa qua, hơn một tuần lễ trước ngày
có thể coi là mở đầu cho định mệnh của hai ông, hai ông cùng qua
đời. Câu hỏi được đặt ra là hai ông đã nhận định ra sao về ngày
19/8/1945 này? Người viết xin vắn tắt ghi lại sau đây để người
đọc tiện theo dõi và hiểu rõ hơn quan điểm của hai ông, đồng thời
cũng xin ghi thêm một vai chi tiết liên quan tới ngày 19/8/1945 ít được
mọi người biết tới hay chỉ biết mơ hồ, trong đó có chuyện tấm ảnh
của Tướng Cọp Bay Chennault ký tặng Hồ Chí Minh, chuyện Việt
Minh lấy đồ trong cung vua đem ra chợ bán, chuyện bốn tấn bạc người
Nhật trả lại cho Chính Phủ Việt Nam, chuyện Việt Minh tịch thu của
cải của nhà giàu...
Nhạc Sĩ Tô Hải và Cựu Đại Tá Bùi Tín
Nhạc Sĩ Tô Hải: Chỉ đơn cử 2 ngày 17
và 19/8/1945 là đã có sự lẫn lộn rồi. Thì ra 17/8 là
cuộc Mít tinh của công chức biểu tình ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim.
Còn ngày 19/8 là ngày Mít tinh ủng hộ Việt Minh.
Bọn thanh niên chúng tớ ngơ ngác về chính trị, cứ thấy
Mít tinh là ào ào đổ ra đường chẳng hiểu ai lãnh đạo?
Nhạc Sĩ Tô Hải, sinh năm 1927,
tác giả bài ca Nụ Cười Sơn Cước và Hồi Ký Của Một Thằng Hèn.
Ở vào thời điểm tháng Tám 1945, Tô Hải 18 tuổi, mới qua tuổi thiếu niên,
bước sang tuổi thanh niên và đã có bằng tú tài. Mãi 54 năm sau, đến ngày
19 tháng 8 năm 2009 người nhạc sĩ này mới có dịp ghi lại những gì ông còn nhớ
và ghi trên trang mạng riêng của mình, trong tuần ký số 17, với tiểu đề “Tớ
đúng là một tên gà mờ”, nguyên văn xin được trích như sau:
Như tớ đã thú thật, trong tuần ký số 16
là tớ chỉ viết về những gì tớ đã tham gia hoạt động thật sự
cho những tổ chức có thật trong những ngày nhốn nháo tù mù đó. Cho
nên do không được hân hạnh có nhiều tư liệu như các friends,
tớ chỉ mong muốn các nhà viết sử sẽ dựa vào những tư liệu có
thật, không phán đoán, phê phán vô bằng cớ, không cắt gọt
xuyên tạc… cùng tớ bạch hoá cái chặng đường từ 9/3/45 đến ngày ra mắt chính
phủ Cách Mạng lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà thì chính
phủ có cái cờ vàng, quẻ ly đó mà chính bản thân tớ và cả các
ông “to” trong chính phủ từng cất cao, với câu ca “Này thanh
niên ơi!” nó… biến đi đâu? Nhìn ra đường phố, hôm nay 19/8/2009 ai cần
biết cần hát cái bài “Mười chín tháng tám! Chớ quên là ngày
khởi nghĩa” nữa rồi!
Thế đấy! chỉ qua những tài liệu văn bản thu thập được
chỉ trong có một tuần, so với lúc tớ viết
tuần kí số 16, thì tớ đã tự trả lời được rất nhiều câu hỏi,
để cỏ thể đủ khả năng kết luận vì sao?
Tại ai? Cụ thể là:
Chỉ
đơn cử 2 ngày 17 và 19/8/1945 là đã có sự lẫn lộn rồi. Thì ra 17/8 là
cuộc Mít tinh của công chức biểu tình ủng hộ chính phủ Trần
Trọng Kim. Còn ngày 19/8 là ngày Mít tinh ủng hộ Việt
Minh. Bọn thanh niên chúng tớ ngơ ngác về chính trị, cứ thấy
Mít tinh là ào ào đổ ra đường chẳng hiểu ai lãnh đạo?
Ai hô thế nào thì hô theo thế ấy.
Cờ vàng, cờ đỏ chẳng có gì quan trọng. Miễn là
đi qua trại lính Nhật chẳng thấy đứa nào dám nổ súng dù có
hô to “Đả đảo Phát xít Nhật!” “Việt Nam muôn năm!” Cả hai cuộc mít tinh nói
trên đều có mặt cái thằng tớ. Cũng may là tớ chẳng vướng vào các
cuộc mít tinh có lính Tầu Tưởng đứng gác ở chợ Đồng Xuân để
bị nghe “Tỉu cái là ma lồng pào!” khi bị
Việt Minh giải tán!...
Cựu Đại Tá Bùi Tín: Sau 70 năm, nhìn lại không
thể gọi biến cố đó là Cách mạng tháng Tám. Gọi vậy là
“ngoa ngôn”, là “đại ngôn”
Khác
với Nhạc Sĩ Tô Hải, như một nhà báo và một nhà lý luận chính trị,
sau khi định nghĩa từ ngữ “cướp”, nguyên đại tá Bùi Tín, trong bài viết trên
trang mạng của ông, đã đặt vấn đề nghiên cứu sâu thêm sự kiện lịch sử của
thời gian này để trả lời câu hỏi Tổng Khởi Nghĩa hay Cách Mạng Tháng Tám, hay
Cướp Chính Quyền, gọi sao cho chính xác? Đặt câu hỏi nhưng ông đã lập tức
trả lời ngay sau câu hỏi do ông đặt ra và trả lời một cách khẳng định:
Sau 70 năm, nhìn lại không thể gọi biến
cố đó là Cách mạng tháng Tám. Gọi vậy là “ngoa ngôn”, là
“đại ngôn”, vì “cách mạng” là phải thay đổi hẳn chế độ cai trị, đổi
mới hoàn toàn bản chất chế độ, đem lại dân chủ, tự do cho
mọi công dân, quyền tự do bình đẳng trong kinh doanh, cốt
lõi là tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Ông lý luận nguyên văn như sau:
Gọi là cách mạng trước hết là không chính xác. Cách
mạng là một cuộc thay đổi chế độ trong
đấu tranh quyết liệt, thường có bạo lực chống đối, giằng co nhau, có đổ máu,
như cách mạng ở Pháp, ở Hoa Kỳ mà ông Hồ chí Minh đã dẫn ra
trong bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945.
Biến cố gọi là Cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt Nam hoàn toàn
không đổ máu, không có đấu tranh giằng co
bằng bạo lực quyết liệt. Chính quyền thực dân Pháp đã bị
phát xít Nhật lật đổ ngày 9/3/1945 trong
một cuộc đảo chính nhẹ nhàng. Trước đó cả Đông dương
thuộc Pháp đã đầu hàng phát xít Đức, Việt Nam trở thành thuộc địa của nước
Pháp thua trận đã đầu hàng phát xít, cho nên bị khối Đồng
minh xếp vào loại bị quân Đồng minh là quân đội Anh và quân
đội Trung Hoa Dân quốc chiếm đóng để giải giáp quân đội Nhật
đã đầu hàng Đồng minh. Quân đội Trung Hoa vào miền Bắc, quân Anh vào miền
Nam.
Việt Nam trở thành đất trống về quyền lực cai trị, chính phủ Trần
Trọng Kim vừa thành lập được 6 tháng còn
non yếu, tuy về danh nghĩa đã giành được nền độc lập từ tay
phát xít Nhật đã buông súng đầu hàng Đồng minh. Do sức ép của quần chúng
xuống đường theo lời hiệu triệu của Mặt
Trận Việt Minh do đảng CS Đông Dương tổ chức ra. Vua
Bảo Đại thoái vị nhanh chóng, bày tỏ niềm vui “từ bỏ ngai
vàng để trở thành một công dân tự do”.
Những nhân chứng khác
Đoàn Thêm. Đoàn Thêm sinh năm 1915, lúc đó 30 tuổi, cử nhân
luật khoa, công chức cao cấp của Phủ Toàn Quyền trước đó và là tác giả của hồi
ký Những Ngày Chưa Quên, xuất bản năm 1969 tại Saigon, người đã trực
tiếp tham gia cuộc biểu tình vào lúc 3 giờ chiều ngày 17 tháng 8 năm 1945 ở Hà
Nội do Tổng Hội Công Chức tổ chức nhằm mừng độc lập hoàn toàn, thâu hồi toàn
vẹn lãnh thổ và ủng hộ Chính Phủ Trần Trọng Kim.
Sau đây là nguyên văn lời tường thuật về những gì đã xảy ra
trong cuộc biểu tình ngày 17 tháng 8 năm 1945 của Đoàn Thêm 24 năm sau:
Trước Nhà Hát Lớn, 15 giờ ngày 17-8,
trời kéo cơn mưa, nhưng hàng vạn công chức đã sắp thành đoàn
đứng chặt đường Paul Bert, kéo dài suốt Hàng Trống. Dân
chúng tới xem, chen chúc trên các ngả phụ cận, Bobillot,
Amiral Courbet.
Trên bao-lan Nhà Hát, cờ ba vạch gãy Quẻ
Ly được từ từ đưa lên, trong tiếng đồng ca vang dội Tiếng
gọi Thanh-Niên... Mây xám giãn dần; chợt thấy giọng ai như của
L. béo ngập ngừng qua ống phóng thanh: “mặt trời tỏ, một
điềm vui… Hôm nay chúng ta họp mặt tại đây để `mừng cho chủ-
quyền đã thâu hồi toàn-vẹn, và hoan hô Chánh-phủ
Trần-Trọng-Kim…”
Hoan-hô! V.N. độc-lập muôn năm!
Hoan-hô VM!
Những tiếng sau là của kẻ nào lén vào
hàng ngũ công-chức. Những người quanh đó sửng-sốt
ngơ-ngác… Còn đa-số vẫn mải reo to: Hoan hô V.N. muôn năm
Rồi đoàn biểu-tình được lịnh chuyển bước
tuần-hành qua nhiều đường lớn, nhưng mỗi lúc những tiếng lạ
tai khi nãy lại được gào thét nhiều hơn. Tới ngã sáu Cửa-Nam,
vài anh áo cộc quần đen, chắc chắn không phải là công-chức,
vừa chạy vừa phất là cờ đỏ giữa có ngôi sao vàng, anh khác
giơ một vật ít thấy có cỏ thời đó là khẩu súng lục, bắn vài
phát chỉ-thiên như để thị-uy: anh em hãy cùng chúng tôi hô Mặt Trận Giải Phóng
muôn năm!
Vài công-chức, có lẽ hoảng sợ quá, đành
“muôn năm” theo một các gượng-gạo và máy-móc. Mấy cảnh
binh đứng cạnh dọc đường lấm lét hỏi nhau với vẻ kinh ngạc,
nhưng không can thiệp, tuy nhiều đám người khác trên các vỉa
hè cũng nắm tay giơ chào như Phát-xít Ý, và hoan hô một
đoàn-thể mà nhân-viên công-lực cũng không biết là gì.
Nhưng cần chi biết? Hàng chục,
hàng trăm, rồi hàng ngàn người cứ việc “muôn năm” mãi cho
tới khi giải-tán, vào khoảng sáu bảy giờ chiều.
Ông tham Đ dừng lại hỏi ông phán N:
tưởng là bìểu-tình hoan-hô Trần-Trọng- Kim, mà chẳng thấy ai
kêu cụ Trần cả? V.N. chứ sao lại mặt-trận VM? Một số ông nữa xen vào câu
chuyện: ai bảo hoan-hô như thế, bây giờ còn băn khoăn? Người ta hô, thì
làm sao khác được? – Thôi, nó bắn, ông mất hết vía rồi!
Mất vía còn ít. Như thế này thì mất cả
những gì đáng quí hơn tâm hồn tham phán. Đó là
cảm-tưởng sám ngắt như trời mây phủ, nó theo đuổi tôi trên lối về nhà.
Đêm hôm ấy, tôi trằn trọc khó ngủ, vi đầu óc rối ren
như cảnh đã mục-kích ban trưa, và như cảnh hỗn độn mà tôi
ngại cho những ngày sắp tới.
Cả
Nước Bị Lừa
Chuyện
tấm hình của Tướng Cọp Bay Chennault tặng Hồ Chí Minh
“Chúng mình già trẻ mắc lừa
bọn du côn.” Đó là câu nói
đầu tiên Cựu Hoàng Đế Bảo Đại nói với Cựu Thủ Tướng Trần Trọng Kim
khi hai người lần đầu tiên gặp lại nhau ở Hương Cảng năm 1946 và được
Trần Trọng Kim ghi lại trong hồi ký của ông. Cả hai người đều
không giải thích gì thêm nhưng sau này khi kể lại lý do khiến ông
thoái vị, trong hồi ký của mình, Cựu Hoàng viết:
Tôi không biết một
lãnh tụ nào của họ, thế mà họ đã liên lạc được với Đồng minh
Trung Hoa, Mỹ, Pháp, trong khi lời kêu gọi của tôi gửi
cho Tổng Thống Truman, cho Thống Chế Tưởng Giới Thạch, cho
Quốc Vương Anh, cho Tướng De Gaulle lại im lìm, không có hồi
âm. Họ có súng đạn, phương tiện, còn tôi thì không có cả khả năng
để tập hợp những bậc trung thần và những người thân cận xưa
nay bỗng câm như thóc, hay có âm mưu chống lại tôi… Họ đã
chiếm được quyền hành không mất một mảy lông, và tôi bị bơ
vơ trong một kinh thành chết.
Tất cả như tập họp lại cho họ, đầy bí
hiểm. Sự thành công không thể chối cãi này, phải chăng
là một dấu hiệu chứng tỏ họ đã nhận được thiên mệnh của Trời?
Độc giả cần để ý tới câu “họ đã liên lạc được
với Đồng minh Trung Hoa, Mỹ, Pháp” mà người viết bài này đánh
đậm. Thực sự thì chuyện Việt Minh “đã liên lạc được với Đồng minh
Trung Hoa, Mỹ, Pháp” chỉ là chuyện bịa đặt, tuyên truyền, phóng đại,
không có thật. Không có liên lạc nào chính thức giữa Việt Minh với Đồng
Minh mà chỉ có chuyện Hồ Chí Minh được các nhân viên cấp thấp, Đại
Úy Archimedes Patti và Trung Úy Charles Fenn, của cơ quan Tình Báo Chiến
Lược Mỹ ở Côn Minh, thuê làm tình báo cung cấp tin tức về thời tiết, về các
phi công Mỹ bị bắn hạ ở biên giới Hoa-Việt và hoạt động của Quân Đội Nhật.
Hồ Chí Minh trong thời gian này, ngày 29 tháng 3 năm 1945 lúc 11 giờ, qua
sự giới thiệu của Fenn có đến gặp Tướng Claire Chennault, Chỉ Huy Trưởng Không
Đoàn Cọp Bay hoạt động ở Hoa Nam, lấy cớ để bày tỏ lòng ngưỡng mộ của ông lên
viên tướng này. Điều kiện được Trung Úy Fenn đưa ra là Hồ Chí Minh
không được yêu cầu Tướng Chennault điều gì cả. Nhưng với bản tính
khôn lanh, Hồ Chí Minh đã nhân dịp xin Chennault một tấm hình làm kỷ niệm kèm
với chữ ký của viên tướng này (để sau này làm bằng chứng cụ thể cho cuộc gặp gỡ
để loè bịp mọi người). Chuyện này được cả Fenn lẫn Patti kể lại
trong các sách nửa hồi ký, nửa khảo cứu của hai ông (Fenn, tr. 78; Patti, tr.
58) và sau này được các tác giả khác, trong đó có Dixee Bartholomew-Feis với
cuốn OSS và Hồ Chí Minh, đã được dịch sang tiếng Việt, lập lại. Patti
cho rằng tấm hình này đã trở thành quan trọng sinh tử (of vital importance) đối
với Hồ Chí Minh vì chỉ ít tháng sau, Hồ Chí Minh đã hết sức cần nó để thuyết
phục những người quốc gia còn rất dè dặt về chuyện ông được người Mỹ hỗ trợ.
Theo Patti, đó là một mưu tính thiếu căn cứ nhưng đã mang lại hiệu quả.
Vua Bảo Đại tin theo vì bị ảnh hưởng của những người chung quanh ông như
Phạm Khắc Hoè, Tạ Quang Bửu hay Hồ Tá Khanh, Trần Đình Nam, Nguyễn Hữu Thí
trong Nội Các, trong đó Phạm Khắc Hoè lại chính là người được Nhà Vua giao cho
trách nhiệm đi tìm hiểu xem Hồ Chí Minh là ai?
Những chuyện khác xảy ra
sau ngày 19/8/1945: Cách Mạng hay cướp phá?
Của cải trong cung bị Việt
Minh lấy đem ra chợ bán và bốn tấn bạc người Nhật trả cho Triều
Đình Huế biến đâu mất: Những
của cải trong cung mà Tổng Lý Phạm Khắc Hoè đã làm kiểm kê kèm theo biên bản
để giao cho nhà cầm quyền mới mà Bộ Trưởng Lê Văn Hiến là đại diện, không ai
biết là có còn đã và còn đầy đủ hay đã bị thủ tiêu, tẩu tán ngay sau đó.
Nên để ý là Vua Bảo Đại, Hoàng Hậu Nam Phương khi bị buộc phải từ bỏ
Hoàng Cung ra đi không được mang theo món gì.
Còn Hoàng Thái Hậu Từ Cung thì “chỉ có quần áo và mấy cuốn kinh
Phật”. Câu hỏi được đặt ở đây là
biên bản kiểm kê của cải trong cung do Tổng Lý Phạm Khắc Hoè làm và
giao cho Bộ Trưởng Lê Văn Hiến có được đưa về Hà Nội trình chính phủ
hay không? và nếu có thì Cục Lưu Trữ Tung Ương ở Hà Hội có còn giữ
được biên bản này hay không? Câu trả lời nhiều phần là không. Nên để ý là các báu vật của triều
Đình Huế theo Phạm Khắc Hoè được giữ ở phía sau Điện Cần Chánh,
chưa kể tới những thứ khác mà sau này Thủ Tướng Trần Trọng Kim đã ghi lại trong
hồi ký của ông:
Ở trong hoàng thành, Việt Minh cho người vào lấy những
bảo vật và y phục của các vua chúa đời trước đem ra chợ bán.
Khi quân Nhật sắp hàng có đưa trả lại cho chính phủ
Việt Nam
bốn tấn bạc bằng thoi chở vào để trong cung, số bạc ấy không biết
về sau ai lấy mất.
Độc già nên để
ý sáu chữ “Việt Minh cho người vào lấy” và bảy chữ “không biết về sau
ai lấy mất”. Câu hỏi được đặt ra là hai tiếng Việt Minh ở đây
là nhằm chỉ những người nào? Cá nhân hay Mặt Trận? Trung ương hay địa phương Huế và Thừa Thiên
hay Thuận Hoá? Tố Hữu và Tôn Quang Phiệt phải biết chuyện này. Có
điều là sau biến cố này, Vua Bảo Đại đã trở thành một thứ vô sản thứ thiệt
vì trong khi ở Hà Nội làm Cố Vấn Tối Cao cho Hồ Chí Minh và Chính Phủ Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hoà, ông đã phải nhờ Cựu Tổng Lý Phạm Khắc Hoè, khi ông này có dịp
vào Huế, xin tiền Bà Nam Phương và Bà Nam Phương thì lại xin tiền chị gái của
mình. Sau này, khi bị Hồ Chí Minh bỏ rơi ở Phi Trường Trùng Khánh, ông
chỉ còn có trơ trọi một mình với một va-ly quần áo. May cho ông là có một doanh gia người Tàu cho
ông về tá túc. Điều này cho thấy nhà vua
trong chế độ quân chủ cổ truyền ở Việt Nam trên lý thuyết là tuy là sở
hữu chủ tối cao của mọi thứ ở trong nước nhưng thực sự thì cá nhân ông chẳng
sở hữu gì cả mà là quốc gia, là nhà nước.
Ai lấy tiền trong Kho Bạc ở Nam Kỳ?
Một điều ít ai biết là tình
trạng thất thoát của cải và tiền bạc này cũng xảy ra luôn ở Nam Kỳ. Theo Bác Sĩ
Trần Ngươn Phiêu trong hồi ký Gió Mùa Đông Bắc của ông:
[…] tối ngày 5 tháng 9, để tìm cách trấn an dân chúng, Trần
Văn Giàu đăng đàn diễn thuyết ở rạp hát Nguyễn Văn Hảo,
nhưng không thuyết phục được dân chúng phải chấp nhận
những gì y nói, nhất là khi Giàu cho biết là Kho Bạc hiện
thiếu 7 triệu đồng. Dân chúng hoang
mang: 7 triệu đồng ai lấy mà bây giờ mới thấy thiếu.
Chưa hết, trong sinh hoạt
văn hóa, ngoài các sách vở, tài liệu ở các văn khố, thư viện đã nói ở trên,
còn các sách vở, tài liệu tàng trữ trong các văn phòng các bộ và các thư viện
của các tư gia, trong đó có thư viện Long Cương (?) của Thượng Thư Cao Xuân Dục
và các thư viện mang danh hiệu nhà vua, sau này đã bị phân tán hay đem ra chợ
bán hoặc đem lên khu dùng làm giấy quấn thuốc hút mà nhà chuyên sưu tầm đồ cổ
Vương Hồng Sển thỉnh thoảng lại kể cho học trò của mình hay những người trẻ
tới thăm ông nghe với một vẻ mặt và giọng nói đầy u hoài, tiếc nuối.
Để kết
luận, người viết xin quý vị độc giả cho phép vượt ra ngoài sử học
thuần túy gửi tới quý vị nhận định sau đây:
Bảy mươi năm
đã trôi qua. Bảy mươi năm bằng cả một đời người được coi như là
thọ. Tính theo thế hệ, bảy mươi ba năm là tương xứng với gần ba thế
hệ. Đã đến lúc người ta cần phải xét lại những gì đã xảy ra
bảy mươi ba năm trước, không thể mãi mãi bị lừa. Sự thực lịch sử phải là sự thực, sự
thực đầy đủ và trọn vẹn. Người viết tin tưởng rằng với
trí thông minh, sự sắc bén, tinh thần trách nhiệm, nhất là lòng can
đảm vốn có của người Việt, dù là người Việt ở bất cứ nơi nào, ở
trong nước hay ở hải ngoại, miền đất mới mà tác giả trong nhiều bài
viết gọi là Siêu Quốc Gia Việt Nam, tất cả đều sớm nhận thức ra chân
lý của lịch sử, không để một thế hệ nào tiếp tục bị lừa thêm nữa.
Ở thời điểm 1945, điều người ta tin chuyện mắt Bác Hồ có hai
con ngươi là đúng và sau đó, năm 1946, chuyện Anh Hùng Lê Văn Tám mà
Sử Gia Phan Huy Lê, theo lời trối trăng của Nguyên Bộ Trưởng Tuyên Truyền
trong Chính Phủ Lâm thời Hồ Chí Minh, cải chính là không hề có, là
còn có thể hiểu được. Ở thời
điểm 2018 của Thế Kỷ 21, tất cả cần phải được xét lại. Cuộc luân lạc mười lăm năm của Nàng
Kiều của Thi Hào Nguyễn Du đã được coi là dài. Dân tộc Việt Nam
đã luân lạc tới bảy mươi ba năm.
Còn hai năm nữa là đúng bảy mươi lăm năm, gấp năm lần thời gian
luân lạc của Thúy Kiều. Thời gian
gần ba phần tư thế kỷ này không lẽ chưa đủ hay sao?
Phạm Cao Dương
Tháng Tám
2018