Kiêm tính – bản năng và lẽ sống của người Hán
Tuy vẫn còn những tranh cãi về nguồn gốc của người Hán, nhưng hầu như
tất cả các nhà nghiên cứu đều thống nhất ở một điểm quan trọng: đây là
một dân tộc mà “kiêm tính” (hay thôn tính: tức xâm chiếm, cướp đoạt đất
đai của người khác và biến thành của mình) đã trở thành một thứ bản năng
hay một lẽ sống từ hàng ngàn năm nay. Lịch sử hình thành và phát triển
của Trung Hoa Đại Hán là lịch sử của những cuộc chiến tranh xâm lược,
thôn tính lãnh thổ và đồng hoá các dân tộc khác.
Hơn hai thế kỷ trước, Napoleon Bonaparte từng nói: “Trung Hoa là một
con sư tử đang ngủ. Hãy để cho nó ngủ, bởi khi thức giấc, nó sẽ làm thế
giới rung chuyển.” Và sau “thế kỷ ô nhục” kéo dài từ thế kỷ 19 sang đầu
thế kỷ 20, thời kỳ mà Trung Quốc hết bị phương Tây xâu xé lại đến Nhật
Bản xâm lược, đường lưỡi bò do chính quyền Tưởng Giới Thạch tưởng tượng
ra trên Biển Đông đã đánh dấu sự thức tỉnh của con sư tử Trung Quốc ngay
khi quốc gia này còn đang trong cơn biến loạn của cuộc nội chiến quốc -
cộng.
Mao Trạch Đông từng khẳng định
trong một cuộc họp của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1965:
“Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Châu Á, bao gồm cả miền nam Việt
Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore… Một vùng như Đông Nam
Châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản… xứng đáng với sự tốn kém cần
thiết để chiếm lấy…”
Năm 2009, một viên tướng Trung Quốc thẳng thừng đề nghị với Mỹ là nên “chia đôi Thái Bình Dương” với họ. Và đến năm 2015, Hoàn Cầu Thời Báo, một ấn phẩm của Nhân Dân Nhật Báo, cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đã lên tiếng đòi Trung Quốc phải chuẩn bị chiến tranh “hất cẳng” Mỹ để trở thành bá chủ thế giới.
Chiến lược thôn tính Việt Nam của Trung Quốc
Trung Quốc chưa bao giờ nguôi dã tâm thôn tính Việt Nam. Ngay trong
thời kỳ “trăng mật” của mối quan hệ Việt - Trung “vừa là đồng chí, vừa
là anh em”, họ đã lợi dụng việc vẽ bản đồ giúp Việt Nam để dịch chuyển đường biên giới; lợi dụng việc đưa quân sang giúp Việt Nam
làm đường để tàn phá di tích, cảnh quan và long mạch của Việt Nam, v.v.
Tháng 6/2014, khi nói chuyện với các nhà lãnh đạo Việt Nam, Ngoại
trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì thậm chí còn thúc giục “đứa con hoang đàng” Việt Nam trở về nhà.
Để tiến tới ngôi vị bá chủ thế giới, hướng bành trướng khả dĩ nhất
của Trung Quốc là về phía Nam, nơi Việt Nam là chướng ngại đầu tiên cần
phải vượt qua. Điều này càng khiến họ quyết tâm thôn tính dải đất hình
chữ S. Vì thế, song song với kế hoạch thôn tính Việt Nam về kinh tế và văn hoá, các ông chủ Trung Nam Hải đã đề ra kế hoạch thôn tính Việt Nam về quân sự.
Rút kinh nghiệm từ các cuộc xâm lược trong quá khứ, mà gần nhất là
cuộc chiến tranh biên giới năm 1979, Trung Quốc đang hướng đến một cuộc
chiến với Việt Nam mà các mũi tấn công chủ yếu không chỉ nằm ở biên giới
phía Bắc như trước kia. Với điều kiện của kỹ thuật chiến tranh hiện
đại, đặc biệt là khai thác triệt để các nhân tố Trung Quốc trong ban
lãnh đạo Việt Nam - Lào - Campuchia, chiến lược của Bắc Kinh là tạo ra
nhiều gọng kìm hòng bao vây và siết chặt Việt Nam từ mọi phía: biên giới
phía bắc, biên giới Lào - Việt, biên giới Campuchia - Việt Nam, Biển
Đông và vùng duyên hải Việt Nam. Một khi chiến lược này triển khai thành
công, Trung Quốc chưa đánh đã thắng. Đó là chính kế thượng sách của họ.
Để hiện thực hoá mưu đồ này, một mặt Trung Quốc tìm cách chiếm lĩnh
những vị trí xung yếu về an ninh - quốc phòng dọc theo bờ biển Việt Nam
thông qua các dự án kinh tế trá hình, chẳng hạn như ở Vũng Áng (Hà Tĩnh), Cửa Việt (Quảng Trị), Lăng Cô (Thừa Thiên – Huế), Hải Vân, Đà Nẵng hay Vĩnh Tân (Bình Thuận),
v.v. Đây là những địa điểm vừa thuận tiện cho việc đổ bộ, vừa thuận lợi
cho việc chia cắt Việt Nam thành nhiều phần. Mặt khác, họ thuê các khu
rừng đầu nguồn ở các tỉnh xung yếu giáp biên giới Việt Nam với Trung
Quốc, Lào và Campuchia, đồng thời thiết lập các căn cứ quân sự trá hình
trên đất Lào và Campuchia, gần biên giới Lào - Việt và Campuchia - Việt
Nam.
Trên Biển Đông, sau khi đã nuốt chửng Hoàng Sa và một phần Trường Sa,
họ thực thi kế sách “tằm ăn dâu” hòng gặm nhấm dần Trường Sa, đồng thời
quân sự hoá các đảo trên Biển Đông để hình thành các căn cứ quân sự
liên hoàn nhằm bao vây Việt Nam và khống chế hoàn toàn Biển Đông. Khi
thời cơ đến – Việt Nam suy yếu hoặc xẩy ra chính biến; tinh thần phản
kháng của người Việt bị vô hiệu hóa trong bối cảnh ban lãnh đạo Việt Nam
bị Bắc Kinh khống chế, thao túng, và ra sức đàn áp nhân dân, v.v. – họ
sẽ ra tay thâu tóm nốt phần còn lại ở Trường Sa.
Từ năm 2010, các doanh nghiệp của Hồng Kông và Đài Loan - Trung Quốc đã thuê dài hạn
(50 - 70 năm) trên 264 ngàn ha đất rừng đầu nguồn tại một loạt tỉnh như
Lạng Sơn, Quảng Ninh, Cao Bằng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Bình Định,
Kon Tum và Bình Dương... để trồng rừng nguyên liệu; 87% con số này nằm
ở những vị trí xung yếu hay giáp biên giới.
Đại tá Quách Hải Lượng, nguyên tuỳ viên quân sự Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh, nhận định:
“Trung Quốc rất giỏi trong việc xâm chiếm bằng cách làm đường. Làm
đường đến đâu xâm chiếm đến đấy, di dân đến đấy. Họ mưu tính làm một con
đường suốt từ Vân Nam đi dọc Lào xuống tới tận Tây Nguyên, mà ở đoạn
cuối Tây Nguyên thì Campuchia và Lào cho họ thuê đất tới 55 năm. Như vậy
cả khu vực sẽ gần như là đất của họ... Đứng về chiến lược quân sự, đó
là những con đường cơ động chiến lược và cơ động chiến dịch. Về kinh tế
thì có thể khống chế được toàn bộ các hành lang quan trọng của bán đảo
Đông Dương.”
Hiểm hoạ Trung Quốc ở Bình Định
Vừa qua, trong một dịp đi tìm hiểu tình hình thực tế tại Khu kinh tế
Nhơn Hội, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định, chúng tôi lại phát hiện ra
những mầm mống của hiểm hoạ Trung Quốc đang rình rập nơi đây.
Khu kinh tế Nhơn Hội được thành lập theo Quyết định số
141/2005/QĐ-TTg ngày 14/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ, với diện tích
khoảng 12.000 ha. Phía bắc khu kinh tế giáp núi Bà, xã Cát Hải, huyện
Phù Cát; phía nam và phía đông giáp Biển Đông; phía tây giáp đầm Thị
Nại.
Đây là một vị trí quan trọng về mặt chiến lược bởi (i) Nhơn Hội nằm
ngay bên bờ Biển Đông, địa điểm nhạy cảm về an ninh quốc phòng; (ii) Quy
Nhơn là một thành phố lớn và quan trọng ở vùng duyên hải Nam Trung Bộ;
(iii) từ Nhơn Hội có quốc lộ 19B nối liền với ba vị trí chiến lược ở Tây
Nguyên là thị xã An Khê (cách 79km), thành phố Pleiku (cách 170km) và
thành phố Kon Tum (cách 215km). Cảng Quy Nhơn, chỉ cách Khu kinh tế
Nhơn Hội vài km, là cửa ngõ giao thương quan trọng nhất của khu vực
Miền Trung và Tây Nguyên. Năm 2014, lượng hàng hoá bốc dỡ ở càng này lớn hơn bất cứ cảng nào ở Trung Bộ. Theo quy hoạch của chính phủ, tới năm 2020, Nhơn Hội sẽ có cảng nước sâu.
Với việc Bình Định và Kon Tum nằm trong số những địa phương mà người
Trung Quốc nhắm đến để thuê đất rừng dài hạn và việc Trung Quốc đã thuê
đất lâu dài ở khu vực biên giới Lào - Việt và Campuchia - Việt Nam tiếp
giáp với Tây Nguyên, Quy Nhơn và đặc biệt Nhơn Hội rõ ràng là đã lọt vào
“mắt xanh” của các ông chủ Trung Nam Hải từ lâu. Nếu thiết lập được căn
cứ ở đây thì khi chiến sự nổ ra, với lực lượng tại chỗ, lực lượng đổ bộ
và lực lượng nằm vùng gần biên giới, họ sẽ dễ dàng thực hiện được ý đồ
kiểm soát Tây Nguyên, nóc nhà Đông Dương, và chia cắt Việt Nam thành 2
phần ở khu vực này. Dĩ nhiên, dự án Bauxite Tây Nguyên cùng quả bom nổ
chậm mang tên “bùn đỏ” cũng là những vũ khí hết sức lợi hại của họ.
Sau hơn 10 năm thành lập, đến nay cả Khu kinh tế Nhơn Hội mới chỉ có 6
doanh nghiệp hoạt động, mà 3 trong số đó là của… Trung Quốc: Cty TNHH
MTV Hong Yeung Việt Nam, Cty CP Vật liệu Xây dựng Baoercheng Nam Dương
Việt Nam và Cty TNHH Sinh hoá Minh Dương Việt Nam.
Người Trung Quốc đã xuất hiện ở đây từ khi khu kinh tế mới ra đời. Đó là Cty TNHH MTV Hong Yeung Việt Nam
– hoạt động từ ngày 01/03/2007. Công ty này hiện là chủ của 700ha mặt
bằng khu công nghiệp trong Khu kinh tế Nhơn Hội. Cả Cty Baoercheng Nam
Dương và Cty Minh Dương đều thuê đất của Cty Hong Yeung.
Bên
trái giáp đầm Thị Nại, bên phải giáp Biển Đông, “lãnh thổ” của người
Trung Quốc bắt đầu từ đây và kéo dài hơn 7km về phía bắc trong Khu kinh
tế Nhơn Hội.
'Lãnh thổ' 700ha kéo dài 7km của người Trung Quốc nhìn từ cầu Thị Nại: trước mặt là đầm Thị Nại, bên kia dãy núi là Biển Đông.
Cty
Sinh hoá Minh Dương Việt Nam rộng 20ha, nằm dưới chân núi Phương Mai,
bên kia dãy núi là Biển Đông. Kiểm soát được các điểm cao trên dãy núi
này sẽ khống chế được một vùng rộng lớn, kể cả Cảng Quy Nhơn.
Nhà
máy sản xuất vật liệu xây dựng nhựa UPVC của Cty Baoercheng Nam Dương
nằm sâu phía trong trạm gác này nên chúng tôi không thể tiếp cận.
Nhà máy Sinh hoá Minh Dương khởi công tháng 9/2010; hoàn thành giai
đoạn 1 tháng 10/2012; hoàn thành giai đoạn 2 và chính thức đưa vào hoạt
động từ tháng 3/2015. Giống như tất cả các “dự án kinh tế” của Trung
Quốc ở Việt Nam, Cty Minh Dương cũng do một nhà thầu Trung Quốc xây dựng
– đó là Tập đoàn Xây dựng Công trình Quảng Tây, một doanh nghiệp có “truyền thống” đưa người Tàu vào làm chui tại Việt Nam, dù thuê người Việt thì chi phí rẻ hơn rất nhiều.
Anh Võ Khắc Bình ở xã Nhơn Lý, người từng làm công nhân xây dựng cho
Cty Minh Dương cho chúng tôi biết, các công trình, đặc biệt là nền sân -
nhà - xưởng của công ty được xây dựng hết sức kiên cố. Cách nền khoảng
1m là hệ thống đường hầm dày đặc, với những đường hầm rộng 2m, cao hơn
1m, được đổ bê-tông 4 mặt dày hơn 30cm. Bản thân anh cũng không nắm được
hết các đường hầm, mà chỉ biết chỗ anh làm. Theo anh, các đường hầm này
đủ sức chịu được bom đạn.
Một người dân xã Nhơn Lý khác là anh Lê Văn Quốc từng làm bảo vệ cho
Cty Minh Dương một năm rưỡi. Anh cho biết, giai đoạn mới khởi công, ông
giám đốc công ty đã mấy lần dẫn cả bộ sậu cầm cờ Trung Quốc đi tìm hiểu
mọi ngóc ngách của dãy núi Phương Mai cũng như vùng biển dưới chân núi.
Nhân viên Việt Nam được tuyển chọn hết sức khắt khe; bất kỳ ai có người
nhà dính dáng tới chính quyền đều không được nhận vào làm việc. Họ giám
sát nhân viên rất chặt chẽ. Ai làm ở bộ phận nào chỉ được biết bộ phận
ấy. Hễ thấy ai hơi tò mò một chút thôi là họ cho nghỉ việc ngay lập tức.
Trong tương lai, người Trung Quốc sẽ kéo đến Bình Định ngày một nhiều, bởi theo báo Sài Gòn Giải Phóng,
Cty Minh Dương “là dự án đầu tiên của Tập đoàn Nông Khẩn đầu tư vào
Bình Định theo Bản Hợp tác ký kết giữa tỉnh Bình Định và tỉnh Quảng Tây,
mở ra trang mới về hợp tác kinh tế giữa hai tỉnh trong thời gian tới.”
Đặc biệt, trong chuyến thăm và làm việc tại Bình Định cuối tháng
4/2015, Phó Bí thư Khu uỷ Khu tự trị Dân tộc Choang - Quảng Tây Nguỵ
Triều An còn đề xuất:
“Hai tỉnh Quảng Tây và Bình Định cần kết nghĩa với nhau nhằm tăng
cường quan hệ, mở rộng hợp tác đầu tư, giao lưu kinh tế, văn hóa,
giáo dục… trong thời gian tới”. Lãnh đạo tỉnh Bình Định thì “ghi nhận,
cảm ơn ý kiến đề xuất kết nghĩa giữa hai tỉnh của ông Nguỵ Triều An;
cho rằng đây là điều kiện thuận lợi để hai tỉnh mở rộng hợp tác đầu
tư trong thời gian tới. (…) đồng thời, mong muốn Phó Bí thư Khu ủy
Quảng Tây giới thiệu, mời gọi các doanh nghiệp ở Quảng Tây sang hợp
tác đầu tư tại Bình Định”.
Chưa hết, hiểm hoạ Trung Quốc ở Bình Định còn tiềm ẩn trong một đại dự án sắp triển khai khác. Ngày 2/12/2014, Phó Thủ tướng gốc Tàu Hoàng Trung Hải đã quyết định bổ sung
Dự án Tổ hợp Lọc hóa dầu Nhơn Hội (Victory) vào Quy hoạch phát triển
ngành dầu khí Việt Nam đến 2015 và định hướng đến 2025. Đây là dự án do
Tập đoàn Dầu khí Thái Lan (PTT) làm chủ đầu tư, tổng vốn đầu tư giai
đoạn 1 lên tới 22 tỷ USD. Theo kế hoạch, Dự án Lọc hóa dầu Victory sẽ
được khởi công xây dựng vào quý I năm 2017 và vận hành quý I năm 2021.
Vấn đề nằm ở chỗ, Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc PTT Pailin Chuchottaworn là một người Thái gốc Hoa,
trong khi các tỷ phú người Hoa ở Thái Lan thường liên hệ mật thiết với
nhà cầm quyền Bắc Kinh. Đại dự án nằm trên diện tích hàng ngàn ha này
hoàn toàn có thể trở thành một Formosa Hà Tĩnh
thứ 2 ở địa bàn chiến lược Nam Trung Bộ, bởi việc sang nhượng cổ phần
vừa không thể cấm đoán, vừa khó kiểm soát, trong khi PTT chỉ thu xếp
được 5/22 tỷ USD tổng vốn đầu tư. Chưa kể, dự án lại nhận được sự quan tâm đặc biệt của Phó Thủ tướng gốc Tàu Hoàng Trung Hải – “cha đẻ” của những hiểm hoạ Trung Quốc như Formosa Hà Tĩnh, Trung tâm Nhiệt điện Vĩnh Tân hay 264 ngàn ha rừng đầu nguồn, v.v. – bất chấp những quan ngại
của giới chuyên gia về tình trạng “bội thực” các nhà máy lọc dầu ở Việt
Nam cũng như nguy cơ ô nhiễm môi trường và hiệu quả kinh tế thấp của
chúng.
Trung Quốc mà không mưu toan xâm lược, thôn tính nước khác thì họ
không còn là chính họ. Nhưng với chúng ta, nếu không lên tiếng và hành
động để tự cứu lấy mình thì còn chờ ai?
*Ảnh trong bài: Lê Anh Hùng
Nguồn: VOA
Nguồn: VOA