Socrate
Tiêu biểu cho triết
học hiện sinh
hay
triết học theo chân
lý vương giả?
|
Tiểu sử Socrate (469-399)
Tiểu sử
Socrate (469-399)
Sinh trưởng tại Athènes, Scorate là con một người cha làm nghề điêu
khắc và một người mẹ hành nghề hộ sinh.
Như thế, dòng dõi Socrate không phải dòng dõi quý phái mà chỉ là
dòng dõi của những thường dân Athènes (Nietzsche thường gọi ông là "phàm
dân" (plébéien).
Nhờ một di sản nhỏ bé và những phụ cấp của chính phủ, Scorate đã
sống một nếp sống rất khiêm tốn, nhưng lại rất độc lâp về tinh thần.
Trong thời kỳ thi hành nghĩa vụ quân dịch, ông đã chiến đấu như một
bộ binh trong một cuộc chiến tranh Péloponèse. Khi thi hành những
nhiệm vụ chính trị bó buộc, năm 406, ông đã được chỉ định giữ chức
Thủ tướng chính phủ và chính lúc đó ông đã đứng về phía bênh vực đạo
luật chống lại số đông khi họ phẫn nộ đòi hỏi và bắt buộc xử án
những tướng lĩnh thuộc trận chiến Arginuses.
Nhưng không bao giờ Socrate đã mưu tìm một địa vị quan trọng nào
trong nhà nuớc hay trong quân đội.
Qua các sử liệu, ta còn hình dung được một đôi nét đặc sắc về dáng
điệu bề ngoài của Socrate: trong đối thoại Banquet thời danh của
Platon, ông được mô tả như một con người xấu xí, với đôi mắt lồi ra,
đôi mắt dầy cộp, với sống mũi cao, với cái bụng to, ngang hông mập
thù lù.
Hình ảnh ấy mô tả giống hệt những pho tượng Silènes và Satyre
Marsyas trong những xưởng điêu khắc người Hi Lạp xưa.
Trong quyển Banquet của Xénophon, ta lại thấy chính Socrate chế nhạo
hình ảnh ấy ở chương V.
Nhưng trong một thể xác xấu xí lại chứa đựng một vẻ đẹp cao quý cả
về tinh thần và đạo đức; tuy là con người đã tuyên bố không biết chi
cả, nhưng ông đã được người ta ca tụng là một kẻ chiến thắng sau
cùng trong tất cả các cuộc đấu lý; hay là người không bao giờ tự
xưng có tài hùng biện như các Ngụy luận gia, nhưng dưới con mắt
người Hi Lạp xưa, mỗi khi đàm đạo với quần chúng, ông luôn luôn là
con người có khả năng quyến rũ mọi người như một người có bùa mê.
Hơn nữa trong lối sống của ông còn biểu lộ một thái độ can trường và
tiết độ phi thường .
Đó là hình ảnh Socrate do Platon trình bày lại cho chúng ta qua cửa
miệng say sưa (trong "Bữa tiệc") nhưng thành thực của triết
gia khuyển nho Alcibiade (Cresson)
Ngoài ra trong con người ấy, người ta còn ghi nhận hai hiện tượng
phi thường khác: Mỗi khi bị chi phối bởi một ý tưởng, Socrate đứng
lại tại chỗ, bất động như một người bị thôi miên, quên tất cả những
gì khác.
Đó là trường hợp khi cùng với Aristodème, Socrate đi dự "Bữa tiệc"
vì vậy, cả hai người đã đi dự tiệc trễ, làm cho Agathon chủ tiệc
phải tức giận.
Nhờ cơ hội ấy, Alcibiade còn thuật lại cho Potidée một hiện tượng kỳ
lạ hơn như sau:
"Một buổi sáng, Socrate khởi sự suy nghĩ một việc gì thế rồi ông
đứng bất động tại chỗ. Không tìm ra, điều ông kiếm, ông cứ đứng im
và tiếp tục suy nghĩ trong cùng một tư thế. Lúc ấy đã trưa rồi,
người ta tuôn đến quan sát và bỡ ngỡ xầm xì với nhau rằng, Socrate
đứng đó suy nghĩ từ sáng giờ rồi! Tối đến, các binh lính Ioniens ăn
tối xong mang giường ngủ tới chỗ đó để ngủ cho mát (lúc ấy là mùa hè)
và quan sát xem Socrate có đứng y như thế thâu đêm không.
Thì ra ông cứ đứng như thế tới ngày mai khi mặt trời mọc.
Lúc ấy ông cầu nguyện mặt trời xong mới rút lui."
Hiện tượng thứ hai phi thường hơn và hay được ghi nhận là "thần hộ
mệnh" (démon) của Socrate.
Vị thần ấy hình như có nhiệm vụ ngăn chặn ông mỗi khi ông toan tính
một việc không nên làm, hay mỗi khi ông có thể hành động một điều
bất chính hay phản lại quyền lợi của riêng ông hoặc của dân chúng.
Hình như chính vị thần ấy một ngày kia đã biến đổi tất cả cuộc đời
của ông, nghĩa là trước kia Socrate cũng đã am tường vũ trụ luận của
Anaxagore: ông đã chứng kiến và say mê nguỵ luận thuyết. Nhưng không
một triết lý nào trong hai triết lý đã thỏa mãn ông: vũ trụ luận thì
không giúp ích gì cho tâm hồn con người; còn ngụy luận thuyết thì
tuy có thực hiện được nhiều điều vĩ đại bằng cách nêu lên những tra
vấn, thắc mắc nhưng cách thức đặt vấn đề của họ lại đẩy nó lạc vào
một kiến thức khác sai lạc hay vào thái độ phủ nhận mọi dữ kiện của
truyền thống .
Trước sự thất bại của hai triết lý. Socrate ý thức được sứ mệnh cao
cả của mình. Nhưng sứ mệnh này không phải sứ mệnh do một Thượng đế
nào uỷ nhiệm ông để truyền đạt cho loài người những sứ mệnh của các
vị tiên tri. Trái lại sứ mệnh của ông là chỉ tìm nhân loại tức là
chính con người (Jaspers)
Hơn nữa, Socrate còn thú nhận rằng, cũng do ảnh hưởng tiếng nói của
các vị thần ấy mà ông đã thi hành một số quyết định cao cả trong đời
sống ông như: ông không nên tự biện hộ cho mình, không nên vượt ngục,
không nên chấp nhận cái chết đang khi ông còn có thể sống.
Nói tóm, với những nét đặc sắc trên ta đã có thể hình dung được
Socrate là một nhân vật độc đáo, trong xã hội đương thời của ông.
Nhưng khi Chéréphon người bạn chí thân của ông đến Delphes hỏi vị tư
tế Pythie xem trong loài người có ai khôn ngoan, thông minh hơn
Socrate không? Thì được lời sấm trả lời rằng: Không!
Lời sấm ấy được phổ biến càng tăng thêm huyền bí giá trị chung quanh
nhân vật Socrate: tất cả dáng điệu bề ngoài của ông hình như tương
tự dáng điệu của những triết gia khuyển nho kiểu Diogène, nhưng kỳ
thực ông lại là một triết gia vượt xa sự lố bịch khờ khạo của họ.
Theo Xénephon: "Chúng ta có thể tin chắc rằng cuộc đời của
Socrate hoàn toàn có tính cách công cộng. Buổi sáng ông thường đi
dạo và vào vận động trường. Ông xuất hiện ở những công trường mỗi
khi có dân chúng tụ họp đông đảo. Ngoài thời gian ấy, trong một ngày
ông còn mở rất nhiều cuộc hội thảo. Ông thường nói nhiều trong các
cuộc hội thảo ấy, những ai muốn thì có thể nghe ông".
Không bao giờ ông giảng thuyết một cách long trọng mà chỉ chuyện vãn
hay đàm đạo với một hay nhiều đối thoại viên, bất kể tuổi tác, địa
vị hay nghề nghiệp. Đời sống ấy là một đời sống đàm đạo với bất cứ
ai, với những thợ thủ công cũng như với những nhân vật trong chính
quyền, với những nghệ sĩ cũng như với những ngụy luận gia, với những
chàng thanh niên cũng như với những bạn bè hay môn đệ.
Những cuộc đàm thoại ấy mang lại một sắc thái mới mẻ, không quen
thuộc đối với người Athéniens vì ở đây cuộc đàm đạo luôn luôn có sức
mạnh khích động gây băn khoăn và xuyên thấu vào tận đáy sâu của tâm
hồn.
Trước kia, đề tài của những cuộc đàm đạo là cách thức sống của người
Athéniens tự do, nhưng với Socrate đề tài ấy trở thành một cái gì
khác.
Đó là cách thức đưa vào chân lý của Socrate, vì ở đây từ bản chất,
chân lý phải xuất hiện và chỉ xuất hiện với cá nhân và cho cá nhân.
Vậy muốn đạt tới sự minh bạch thì cuộc đàm đạo cần phải thực hiện
giữa nhiều người, người ta cần tới ông và chính ông cũng tin chắc
rằng ông cần tới người ta. Nhưng trước hết là những chàng thanh niên,
Socrate muốn giáo hoá.
Đối với Socrate, giáo hoá không phải là truyền đạt một cái gì khác
từ ngoại tại, như lối nhà bác học dạy khoa học cho người không biết.
Trái lại, theo ông giáo hoá là yếu tố làm cho con người này tiến gần
lại với người khác để nhờ sự tiến gần ấy mà họ gặp được sự thật. Các
chàng thanh niên trợ giúp ông khi ông muốn trợ giúp họ.
Kết quả: sẽ khám phá ra được những khó khăn trong chính những gì xem
ra hiển nhiên, gây thắc mắc, bó buộc suy nghĩ thêm, học hỏi cách
nghiên cứu, tra vấn và tra vấn mãi không bao giờ trốn tránh trả lời
với niềm tin chắc chắn rằng chân lý là yếu tố quy tụ loài người lại
với nhau (Jaspers).
Với cuộc sống và phương pháp giáo hoá mới mẻ ấy, dĩ nhiên Socrate đã
thành công một cách rực rỡ.
Nhưng chính sự thành công ấy đã tạo nên một sự hiểu lầm và nghi kỵ
trầm trọng giữa ông với chính quyền đương thời.
Kết quả Socrate sẽ là nạn nhân của sự hiểu lầm và nghi kỵ ấy. Nhưng
sự nghi kỵ ấy không bắt nguồn từ một tình cờ nào cả. Nó đã phát xuất
ngay từ những hài hước của Aristophane phổ biến rộng rãi trong quần
chúng qua quyển "Mây Gió" (423). Như đã nói sơ qua ở trên, nhà hài
kịch Aristophane trình bày một Socrate say sưa với vũ trụ thiên
nhiên học, chăm chú quan sát những hiện tượng xảy ra trên trời, dưới
đất; ngoài ra Socrate còn phủ nhận những vị thần của truyền thống và
thay vào đó khí trời và mây gió; ông còn dạy cách chiến thắng một
cuộc tranh luận và thâu thù lao sau khi dạy.
Nhưng như vừa trình bày, Socrate đã thực hiện cuộc sống và cách thức
trái ngược hẳn với những điều vu khống của Arisophane.
Ngoài Aristophane, phong trào chống đối Socrate cũng đã chớm nở từ
nhiều phía khác nhau. Người ta chỉ trích Socrate đã truyền bá thái
độ thụ động lười biếng, đã lợi dụng lối giải thích của các thi sĩ để
thiết lập những lý thuyết gây tội ác.
Đó là một hình ảnh sai lầm về Socrate, nhưng đã được những kẻ thù
xây dựng trên những sự kiện có thực mà đã bị xuyên tạc. Ví dụ lúc
thiếu thời Socrate đã am tường vũ trụ thiên nhiên học và ngụy luận
thuyết nhưng ông đã bị nghi ngờ là người khởi xướng một phong trào
triết lý mới, bị công chúng thù ghét, vì họ không hiểu thế nào là
ngụy luận thuyết và kẻ chiến thắng nguỵ luận thuyết.
Quả vậy, không phải Socrate ùa theo Phong trào ngụy luận mà là vì
phương thức mới ông nêu ra để vượt ngụy luận và đem lại một đường
hướng mới cho tư tưởng, đã là điểm quần chúng không thể chấp nhận.
Phương thức mới ấy, như đã nói là ở chỗ Socrate luôn luôn thắc mắc,
tra vấn mà không biết mệt mỏi, chỉ đẩy tới những câu hỏi căn bản mà
không giải đáp. Thái độ ấy thường gây bối rối, tự ti và yêu sách
khắt khe đến mức khai nguồn cho sự bực tức và căm hờn.
Một trong những phản ứng thời danh là của Hippias sau đây với
Socrate. Ông ấy nói: "Ông (Socrate) chỉ muốn xâu xé người khác
bằng những câu hỏi và đẩy họ vào chân tường. Còn ông không bao giờ
ông cho ai là có lý cả, cũng không bao giờ cho ý kiến của ông. Tôi
không muốn bị ông chọc tức như thế nữa". (Xénephon)
Không những thế, sự kiên nhẫn còn phát xuất từ hàng ngũ của chính
những người bạn thân Socrate cỡ như Alibiade và Critias.
Sự kiện này nằm trong một khuôn khổ chính trị rộng rãi hơn, tức là
chiến tranh giữa Hi Lạp và Sparte xẩy ra vào năm 431. Chiến tranh
này gây những điều kiện sống khó khăn và tai họa thảm khốc cho tất
cả nước Hi Lạp và riêng cho Athènes.
Theo Cresson, các sử gia phân chiến tranh này ra làm ba thời kỳ:
Từ 431 đến 421, khi bại khi thắng. Nhưng mỗi năm trước mùa gặt, các
đồng ruộng của Attique và Laconie đều bị tàn phá thành thử người Hi
Lạp bị chết đói. Vào năm 421. Nicias ký với dân Sparte một cuộc đình
chiến trong vòng năm năm.
Thời ký thứ hai bắt đầu từ năm 521 đến 412; đó là cuộc chinh phạt do
Alcibiade điều khiển chống lại xứ Sicile. Nhưng cuộc chinh phạt ấy
đã gieo tai họa cho Athènes và thủ lãnh của họ bị lưu đầy.
Thời kỳ thứ ba (từ 421 đến 404) trước hết được đánh dấu bằng sự thất
trận của hạm đội Pélopoèse ở quần đảo Aginuses (406). Không những
thất trận như thế, Đề đốc Spartiate tên Lysandre, lại thắng trận
Oegos-Potamos vào năm 405 và chiếm cứ Athènes năm 404. Rốt cuộc các
thành trì bị sụp đổ, những hạm đội bị thiêu huỷ, những thuộc địa bị
chiếm đóng.
Đó là những thống kê 40 năm binh đao cho thành Athènes phồn thịnh.
Thảm họa thêm nữa là những kẻ chiến thắng đặt ra một chính phủ gồm
30 bạo chúa. Phần đông là những người Spartiates, nhưng cũng có xen
vào một hai người Athénien, trong số có Critias, Théramène,
Chariclès.
Nhưng chính quyền ấy chỉ còn tồn tại có tám tháng trời rồi bị
Thrasybule đánh đuổi vào năm 403.
Tuy nhiên, theo Xénephon, chính quyền ấy đã gây ra những tội ác tầy
trời vì chính vì hành động độc ác của họ mà Socrate đã bị án tử
hình.
Khi đứng trong hàng ngũ chính phủ của 30 bạo chúa, Critias được giao
trọng trách dự thảo những đạo luật, trong đó có một đạo luật chống
lại Socrate, cấm chỉ Socrate không được "dạy nghệ thuật hùng biện"
nữa.
Nhưng không những không hàng phục, Socrate còn cương nghị lên án chế
độ độc tài của 30 bạo chúa, vì những tội ác của họ như đã giết một
số lớn những công dân ưu tú và áp bức một số khác phải tham gia
những tội ác của họ.
Sóng gió nổi dậy vào năm 339 (trước tây lịch) ba nhân vật tên Anytos,
Mélétos và Lycon đệ đơn tố cáo Socrate về ba trọng tội:
1. Không tin tưởng vào tôn giáo của nhà nước
2. Nhập cảng những thần mới vào Athènes
3. Làm trụy lạc thanh niên
Trong nhiều năm trường, không hề thấy Socrate đếm xỉa gì đến những
lời vu khống ấy. Trong lúc sinh thời ông đã không viết một bản văn
hay một lời nào để biện hộ cho ông và cho những điều ông dạy.
Theo những sử liệu của Laèrce và Xénephon thì nói đến những lời bạn
bè khuyên nhủ Socrate hãy tự biện hộ.
Nhưng chỉ thấy cả hai tài liệu ấy nhấn mạnh trên quyết nghị vững
chắc của Socrate là ông đã không bao giờ rút lui, lẩn trốn hay chỉ
dạy dỗ một số môn đệ nào đó trong bóng tối, trái lại ông luôn luôn
xuất hiện ngoài công trường với những đám đông của quần chúng.
Trước sự tấn công của kẻ thù, Socrate chỉ tự biện hộ trong câu ông
nói rằng: thần minh đã uỷ nhiệm cho ông sứ mệnh là phải dành cả cuộc
đời để tự kiểm thảo chính mình và kiểm thảo kẻ khác.
"Sứ mệnh ấy thần minh đã uỷ thác cho tôi qua những sấm ngôn,
những chiêm bao và tất cả những biểu hiện có thể có mà thường thường
thần minh xử dụng để tự biểu thị ra với loài người".
Sứ mệnh ấy ông đã chấp nhận, nên ông phải cương quyết ở địa vị đó mà
không sợ nguy hiểm hay sợ chết.
"Tôi sẽ thần phục thần minh hơn thần phục các ông; và bao lâu tôi
còn hơi thở và sức mạnh tôi sẽ không thôi dò thám chân lý để báo
động và soi sáng cho các ông, và tôi sẽ không thôi nói với ý thức
của tất cả những ai tình cờ gặp tôi, như thói quen tôi thường làm,
nghĩa là tôi sẽ nói với họ rằng: hỡi ông bạn, tại sao ông không chú
ý đến trí não, đến chân lý và cải thiện tâm hồn ông đến mức tối đa,
và tại sao ông lại không ưu tư gì điều ấy cả?"
Trong việc tự biện hộ ấy, Socrate còn phản đối các quan toà của ông
rằng: "Quý vị tuyên án tôi là quý vị gây tai họa lớn nhất cho quý vị
hơn là cho tôi."
Dĩ nhiên họ có thể giết ông, bỏ tù ông, đặt ông ra ngoài vòng pháp
luật. Nhiều người coi đó là một tai họa lớn, nhưng Socrate nói: "Còn
tôi, tôi không coi đó là một tai họa, nhưng đó là một xảo kế để lên
án tử hình cho một người một cách bất công nhất."
Rồi dân thành Athènes sẽ tự nhận lỗi mình khi đã phủ nhận ân huệ của
thần minh ban cho họ qua sứ mệnh của Socrate: "Vì nếu quý vị cướp
đoạt sự sống của tôi, quý vị sẽ không dễ tìm được một người khác như
tôi, vì – tuy điều ấy xem ra buồn cười – đó chính là một ân huệ thần
minh ban cho công dân đô thị làm lợi khí sửa sai…, vì tôi không bao
giờ ngơi báo động, huấn dụ và tưởng lệ….
Nhưng có lẽ quý vị nội giận mà đánh đập tôi, không khác gì một người
đang ngủ say mà bị con mòng chích…. đập chết mòng để rồi say ngủ lại
triền miên hơn trong quãng đời còn lại."
Nhưng bây giờ bản án đã tuyên đọc có nên xin các quan toà ân xá bằng
nước mắt theo thông lệ không?
Điều ấy không thể quan niệm được, không hợp lý và không hợp đạo:
"Vì quan toà không phải được chỉ định để ân xá mà là để xét xử,
không phải để tỏ lượng khoan hồng mà là để tuyên án theo luật định."
Và Socrate đã chấp nhận bản án, để vào ngồi tù và uống thuốc độc tự
tử. Trong thời gian ngồi tù, một biến cố đã trì hoãn bản án được ba
mươi ngày. Số là hàng năm, dân Athéneiens có gửi một hạm đội sang
Délos. Các bạn hữu của Socrate muốn nhân cơ hội mà cứu nguy cho
Socrate, nhưng ông đã không chấp nhận cơ hội may mắn ấy.
Đối thoại Phédon đã thuật lại những chi tiết cuối cùng trước giờ
chết của Socrate.
Khi đến giờ uống độc dược, theo công lệ, người ta cởi xiềng xích cho
ông. Bà con bạn hữu đươc phép tới để từ biệt và chứng kiến ngày tận
số của ông.
Vào lúc chiều tà Socrate đã tự vận bằng ly độc dược!
Cái chết của Socrate là yếu tố thiết định hình ảnh và ảnh hưởng của
ông. Ông đã chết như một vị tử đạo chứng minh cho triết lý.
Đó là sơ lược những sử liệu về thân thể của Socrate.
*
* *
Lý thuyết
Về một số điểm căn bản trong lý thuyết của Socrate, lịch sử đã đồng
ý ghi nhận như sau:
a. Socrate không chủ trương xây dựng một vũ trụ luận như các triết
gia trước ông ví dụ Empédocle và Héraclite, vì theo ông loài người
phải để cho thần thánh nhiệm vụ chú ý tới vũ trụ ngoại tại, còn
chính con người lại phải chú ý những gì trực tiếp liên hệ với mình.
"Hãy tự biết mình!" đó là châm ngôn ghi trên khung cửa đền thờ
Delphes và được coi là châm ngôn cho tinh thần nhân bản của Socrate.
b. Nhưng mục đích của Socrate không phải là dạy ta lý thuyết về bản
tính con người nghĩa là ông không muốn trình bày cho ta một kiến
thức khách quan, ngoại tại mà có lẽ không bao giờ ta sở đắc được.
Trái lại, ông chỉ muốn giúp ta suy nghĩ, gây ý thức cho ta về những
tư tưởng ý nghĩ ấy gợi ra.
Lối dạy ấy đã tạo nên cả một nghệ thuật độc đáo gắn liền với tên ông.
Đó là thuật "Sản ý" (maieutique) ông tự thú đã học được ở nghề thực
hành hộ sinh của mẹ ông, vì hộ sinh không phải là sinh thay cho
người khác mà là giúp đỡ họ để họ sinh dễ dãi và bảo đảm.
Trong lãnh vực tư tưởng cũng vậy, dạy không phải là truyền đạt một
tri thức khách quan từ ngoại tại vào trí óc của người khác mà là gợi
lên những thắc mắc để người khác khám phá được chân lý tiềm ẩn trong
trí óc và tâm hồn của họ.
c. Nhưng đang khi kêu gọi người khác về những ý thức tư tưởng riêng
tư của họ bằng sản ý như vậy thì Socrate còn muốn họ phải hiểu rằng:
những gì họ tưởng đã biết thực sự là những gì họ còn ngu dốt.
Nghệ thuật ấy thường được gọi là "Hài hước" (Ironie). Theo nghĩa đen,
danh từ ấy muốn nói lên nghệ thuật biết tra vấn, nghĩa là mỗi khi
nêu lên những thắc mắc, Socrate thường giả bộ như muốn học hỏi với
người khác. Ví dụ với các ngụy luận gia - những người thường bị ru
ngủ với những kiến thức giả tạo của mình – Socrate thường giả vờ tỏ
thái độ khiêm tốn, nhưng nhờ những thắc mắc ông nêu lên, đối phương
mới nhận thức được những mâu thuẫn trong tư tưởng của mình và sự ngu
dốt trầm trọng của họ.
d. Tuy là người đầu tiên và trên hết tự nhận thức sự ngu dốt của
chính mình, nhưng Socrate lại là một nhà tư tưởng đặt tư tưởng tuyệt
đối vào chân lý, vì trên hết phương pháp của ông là khám phá cho
được những ý tưởng tổng quát hay những định nghĩa ví dụ từ những
biểu thị khác nhau của đức công chính nơi nhiều người và trong nhiều
hoàn cảnh khác nhau, nhà tư tưởng tìm ra được một định nghĩa chung
thiết định được yếu tính của đức công chính là gì?
Chỉ có định nghĩa yếu tính ấy mới dung nạp được mọi biểu thị khác
nhau của đức công chính vừa nói trên. Socrate đã sáng nghĩ được hai
điểm quan trọng một là những chứng lý diễn dịch (les arguments
déductifs), hai là những định nghĩa tổng quát và phổ biến (Méta.
1078b 27) (A.E. Taylor: Sokraytes, trg 153).
Vì theo W. Capell. Tuy xem ra rất đơn giản, nhưng khám phá trên đã
ảnh hưởng xâu xa cho những vấn đề trí năng thuộc tâm lý học và tri
thức luận tương lai (Geschichte der Philosophie, II, trg 35).
Riêng trong lĩnh vực đạo đức, sự tin tưởng tuyệt đối vào tri thức và
chân lý như trên vừa giải thích đã biểu thị rõ rệt tính chất duy lý
của Socrate (rationalisme moral). Điều này được trình bày rõ rệt
nhất trong các đối thoại đầu tiên của Platon, mỗi khi phải tranh
luận về một nhân đức như công chính, tiết độ, can đảm, sùng tín, v.v.
Từ những tranh luận ấy, theo Socrate, Platon luôn luôn muốn trình
bày rằng, tất cả những người bất công hay có thể làm điều ác chỉ vì
họ không biết, không tri thức, không đạt được chân lý. Nói khác,
theo Socrate – Platon, sở dĩ những người không thực hiện hay sống
nhân đức là vì họ không thể suy diễn ra được một định nghĩa hay một
ý tưởng tổng quát. Một khái niệm yếu tính về nhân đức đặc thù. trái
lại nếu thực sự họ tri thức được những nhân đức nói chung hay từng
nhân đức một như công chính, tiết độ, v.v. bằng một ý niệm tổng quát
kiểu định nghĩa thì đương nhiên họ sống nhân đức, công chính và tiết
độ.
Đó là những ý nghĩa của câu nói hầu như đã trở thành châm ngôn kỳ
quặc trong lý thuyết đạo đức của Socrate như:
"Không ai có thể cố tình muốn làm điều ác" (Nul n’est méchant
volontairement)
Hay:
"Người ta không thể muốn điều ác nếu người ta có tri thức chính
xác về sự thiện" (On ne peut pas vouloir son mal quand on sait
de science certaine quel est le bien) nghĩa là người ta chỉ làm
điều ác được là vì người ta không quan niệm được sự thiện là gì.
Ngược lại nếu người ta hiểu được ác là gì và thiện là gì thì không
thể không làm điều thiện.
Theo bằng chứng của Xénophon, chủ trương đạo đức của Socrate là tri
thức và đạo đức là một nghĩa, là muốn sống đạo đức phải tri thức và
chỉ cần có tri thức về nhân đức là sống nhân đức (indentité de la
science et de la vertu c’est à dire pour être vertueux il faut
savoir, et il suffit de posséder la science pour être vertueux).
Trong đối thoại Protagors. Platon cũng giải thích như vậy: "không
ai làm điều ác một cách cố tình" (Personne ne peut faire le mal
volontairement) (351 c, d, và Timée, 86 d tiếp). Trong đối thoại
cuối cùng tức quyển "Pháp luật", Platon vẫn không ra ngoài viễn ảnh
đạo đức nói trên; bằng một ví dụ cụ thể, ông giải thích: Một người
nào đó vì nóng giận hoặc vì thực sự ước muốn làm điều ác và họ đã
làm điều ấy một cách ý thức là một việc không thể xảy ra, vì theo
Platon, "sở dĩ có sự bất hoà giữa đau khổ và khoái lạc với ý kiến
hợp lý là do một sự không biết trầm trọng và bao la chi phối tâm hồn
ta đó thôi" (Platon définit: "le désaccord de la douleur et du
plaisir avec l’opinion raisonnable comme la pire ignorance et aussi
la plus vaste parce qu’elle atteint la plus grande partie de notre
âme) (689 a)
Trong quyển "Đạo đức học gởi Nicomaque" (Ethique à Nicomaque),
Aristote xác nhận thêm điều ấy rằng: Socrate chủ trương đồng tính
giữa tri thức và nhân đức (VI, 13, 1144 b, 17).
Hơn nữa, để biễu lộ sự bất đồng ý kiến với Socrate, Aristote còn
trình bày một phân biệt thời danh thành hai loại nhân đức khác nhau:
một bên là nhân đức lý thuyết (vertus dianoétiques), một bên là
những nhân đức thực tiễn (vertus éthiques ou pratiques).
Nói theo danh từ triết lý Đông Phương nhân đức lý thuyết là tri,
nhân đức thực tiễn là hành. Với Aristote, tri và hành không đồng
tính: biết điều tốt không dĩ nhiên người ta làm điều tốt.
Ovide nhà văn hào trứ danh của La mã đã phát biểu một ý kiến bất hủ
tương tự:
"Tôi nhìn thấy và công nhận những điều tốt, nhưng khổ thay tôi
lại cứ theo con đường tà!" (Video meliora proboque Deteriora
sequor…) (Métam. VII,20)
Trong sự đối nghịch ấy, Aristote muốn nói rằng: chủ trương đạo đức
của Socrate là chủ trương coi tri và hành là một theo nghĩa lý trí.
Đó là lý do tại sao Taylor và Wahl, Mucchielli đã gọi khuynh hướng
đạo đức của Socrate là "Đạo đức duy lý" và so sánh với "đạo đức" của
Spinoza sau này.
Trên đây là bản tóm tắt vắn tắt và tổng hợp về thân thế và lý thuyết
của Socrate được hầu hết các triết gia và triết sử gia công nhận.
Tuy nhiên nếu nhìn vào ảnh hưởng đa diện của Socrate trên lịch sử tư
tưởng Hi Lạp và Tây phương thì sự đồng ý trên hầu như trở thành khả
nghi. Từ sự khả nghi ấy, người ta đã mường tượng ra nhiều chân dung
khác về Socrate.
Một cách tinh vi, Jaspers đã phác họa một vài nét về ảnh hưởng và
chân dung đa diện ấy như sau:
"Cái chết của Socrate đã làm bùng nổ một trái bom lớn. Sau biến
cố ấy, nhóm bạn bè của ông tự cảm thấy phải có sứ mệnh phải nói về
ông, phải làm chứng nhân cho ông, phải triết lý theo tinh thần của
ông. Từ đó đã khai nguyên một đường hướng triết lý mới, mang nhãn
hiệu Socrate mà Platon là một đại diện lớn nhất. Tuy rằng không một
công tác, không một lý thuyết, không một hệ thống nhưng Socrate đã
khai trương một trào lưu triết lý hùng mạnh nhất, vẫn tồn tại cho
tới ngày nay.
Nhưng kỳ lạ thay, ảnh hưởng của Socrate đã không phản chiếu đồng
đều qua các môn đệ của ông. Muôn vàn trường phái với những màu sắc
riêng biệt đều căn cứ trên thế giá của ông: từ trường phái Mégarique
với những ngụy biện, với ý niệm khả tính và trường phái Elis với
những nghiên cứu tất cả đều mang cùng một nhãn hiệu là trường phái
Socrate.
Ngược lại không những không tham gia một trường phái nào vừa nói
vì quan niệm của chúng là những mê lộ mà còn đối lập lại chúng,
Platon đã khởi xướng một trào lưu tư tưởng cũng mang ấn tích của
Socrate, nhưng bao la và sâu sắc hơn các trường phái kia.
Nói tóm, trong khả tính tất cả đều có một điểm tựa trong tư tưởng
của Socrate nhưng không một lý thuyết nào thực sự của ông.
Ảnh hưởng ấy còn mang đầy tính chất đa diện cả trong những thời
kỳ lịch sử tiếp sau cái chết của Socrate ví dụ trong triết học Ky tô
giáo, các nhà tư tưởng giáo phụ (Pères de l’Eglise) khi gọi là
Socrate là tiền hô của các tử đạo, khi thì đặt ông ngang hàng với
Jésus: "Socrate và Christ cùng nhau đứng lên phản đối tôn giáo Hi
Lạp" (Justin) hay "chỉ duy có một Socrate" (Tatient); Origène ghi
nhận những đặc điểm giống nhau giữa Socrate và Jésus. Théodoret lại
quan niệm trực giác "vô tri" của Socrate là con đường chuẩn bị cho
Đức tin, v.v.
Qua một thời Trung cổ bị lu mờ, sang thời kỳ Phục hưng, Socrate
được Erasme ca tụng như một vị thánh:
"Lạy thánh Socrate, cầu cho chúng tôi" (Sancte
Socrate, ora pro nobis!)
Montaigne nhìn tư tưởng của Socrate là mô phạm
cho mọi khuynh hướng hoài nghi và duy nhiên, trong đó đức tính cao
cả nhất là sự thành hình của một con người dám chết.
Ở thế kỷ Ánh sáng, nghiễm nhiên Socrate trở
thành một nhà tư tưởng chủ trương tinh thần độc lập và tự do.
Với nhạc sĩ Mendelssohn, Socrate vừa là con
người đạo đức tuyệt vời vừa là chứng nhân cho sự hiện hữu của thần
minh và bất khả tử. (Phédon)
Tuy nhiên, theo Jaspers, ảnh hưởng đa diện
trên đây mới "chỉ là một khởi điểm [5] thuộc những thế kỷ trước"
Với thế kỷ chúng ta thấy xuất hiện hai khuynh
hướng giảng nghĩa Socrate một cách mới mẻ, sâu sắc khác hẳn nhưng
lại đối nghịch nhau hoàn toàn. Đó là khuynh hướng quan niệm Socrate
như khởi điểm nguyên thuỷ cho triết học hiện sinh, do Kierkegaard
cầm đầu.
Khuynh hướng thứ hai nhằm trình bày Socrate như
con người sáng lập ra phong trào suy tư bằng lý trí, do Nietzsche
lãnh đạo.
Nói tóm, một đàng Socrate được coi như tiêu biểu
cho triết học hiện sinh; một đàng Socrate được coi như tiêu biểu cho
con đường triết lý vương giả.
Đó là hai điểm cần được khai triển.
*
* *