Tác giả: David W.P. Elliot
Người dịch: Trần Văn Minh
23-12-2015
Kết thúc ảo tưởng: Việt Nam chọn con đường hòa giải với Trung Quốc thay vì quan hệ đối tác hay liên kết chính trị
“Một trong những mục tiêu của việc tiết lộ cuộc đàm
phán được cho là bí mật, là để dựng nên một hình ảnh về một Việt Nam dối
trá, không đáng tin cậy cho đồng minh [của Việt Nam] biết, và để gieo
sự bất hòa trong giới lãnh đạo Việt Nam. Về vấn đề này, Trung Quốc đã
thành công: trong một cuộc họp bộ chính trị giữa tháng 5 năm 1991, Phạm
Văn Đồng đã bày tỏ sự hối tiếc vì bị ép buộc phải ủng hộ một chính sách
thiếu khôn ngoan. Đỗ Mười cũng lấy làm tiếc về kết cuộc, với lý do là
điều đó sẽ làm cho Việt Nam trở thành một người bạn không đáng tin cậy
trong con mắt các đối tác. Nguyễn Cơ Thạch cũng nói với lãnh đạo đảng,
ông Linh, rằng ông đã phạm một sai lầm nghiêm trọng”.
Trích dẫn từ sách “Thế giới thay đổi: Sự chuyển tiếp
của Việt Nam từ chiến tranh lạnh sang Toàn Cầu Hóa”. NXB University
Press năm 2012. Trích dẫn các trang từ 112-116.
.
.
Một phần trong Chương 4: Quan hệ đối tác thay đổi trong một thế giới thay đổi (1990-1991)
Trong suốt mùa hè năm 1990, những thay đổi được tác
động bởi các sự kiện của năm trước bắt đầu chuyển đổi các động lực ngoại
giao quốc tế. Hồi ký của Trần Quang Cơ về giai đoạn quyết định trong
việc bình thường hóa quan hệ Việt – Trung minh họa đầy đủ cuộc chuyển
hóa này. Khi bộ chính trị vẫn tiếp tục tranh luận về việc có nên thử
thương lượng với Trung Quốc dựa trên ý thức hệ chung (“giải pháp đỏ”)
hay tham gia vào các hoạt động ngoại giao nhiều bất ngờ hơn với Liên
Hiệp Quốc, trong đó cũng bao gồm Hoa Kỳ và ASEAN. Ông Cơ hỏi ý kiến ông
Phạm Văn Đồng, lúc đó là “cố vấn” cho giới lãnh đạo hàng đầu. Ông Đồng
nói với ông Cơ vào đầu tháng 8 năm 1990, “Chúng ta phải dám chơi trò
chơi với Liên Hiệp Quốc và Hội đồng Bảo an, với Mỹ và châu Âu. Chúng ta
cần phải tận dụng yếu tố Mỹ trong tình hình mới… Kế hoạch này rất hay về
mặt lý thuyết, nhưng điểm mấu chốt là làm thế nào để thực hiện nó…
Chúng ta không nên đưa ra những yêu cầu quá cao [như] ‘giữ vững thành
quả của cách mạng (Campuchia)’. Nếu bạn bè của chúng ta có thể nhận được
50% trong một cuộc tổng tuyển cử, đó sẽ là điều lý tưởng”.
.
.
Không lâu sau buổi trò chuyện này, Trung Quốc đưa ra
lời mời gặp khẩn cấp và bất ngờ đến Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười
(chẳng bao lâu nữa sẽ thay thế Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư) và Phạm
Văn Đồng tại Thành Đô xa xôi (người Trung Quốc nói điều này cần thiết để
bảo mật) để bắt tay vào nỗ lực giải quyết vấn đề Campuchia và tiến tới
bước đột phá trong việc bình thường hóa quan hệ giữa Trung Quốc và Việt
Nam. Điều này đến một cách bất ngờ, bởi vì cho đến lúc đó, Trung Quốc
vẫn kiên quyết khẳng định rằng vấn đề Campuchia sẽ phải được giải quyết
theo yêu cầu của họ trước khi có thể thương lượng việc bình thường hóa.
.
.
Phân tích của ông Trần Quang Cơ là Trung Quốc hiện
phải thay đổi lập trường bởi vì phát triển kinh tế là ưu tiên hàng đầu
của họ, [sự phát triển kinh tế] đã bị cản trở bởi các biện pháp trừng
phạt được áp đặt sau Thiên An Môn. Ngoại giao tăng tốc của các các bên
khác (trong đó có Hoa Kỳ, Nhật Bản, và ASEAN) và sự loại bỏ yếu tố chính
đã thống nhất lập trường của Trung Quốc với ASEAN (sự chiếm đóng
Cambodia của Việt Nam), cùng với các mối quan tâm của ASEAN về mưu đồ
của Trung Quốc trong khu vực, đang đe dọa khả năng của Trung Quốc trong
việc kiểm soát kết quả việc giải quyết vấn đề Campuchia – vì thế đưa tới
ý muốn mau chóng thương lượng với Việt Nam.
.
.
Nguyễn Văn Linh và Phạm Văn Đồng đã dẫn đầu đoàn đại
biểu Việt Nam để gặp người Trung Quốc tại Thành Đô vào đầu tháng 9 năm
1990, trong đó đáng chú ý là, không có Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ
Thạch, mà Bắc Kinh coi là chống Trung Quốc quá mức. Trong các cuộc họp
Bộ Chính trị, ông Thạch đã bày tỏ sự phản đối của ông đối với cả “giải
pháp đỏ” ở Campuchia lẫn đánh cược toàn bộ con bài ngoại giao của Hà Nội
lên lợi ích được cho là chung giữa Việt Nam và Trung Quốc vào việc tham
gia lực lượng để “cứu chủ nghĩa xã hội”, như ông Nguyễn Văn Linh và một
số lãnh đạo bộ chính trị khác chủ trương. Vị thế của ông Thạch đã bị
suy yếu bởi ông không trưng ra được bất kỳ kết quả nào trong việc chơi
“con bài Mỹ”. Cuối cùng, giới lãnh đạo đảng quyết định loại ông Thạch
lớn tiếng chống Trung Quốc ra ngoài để xoa dịu Bắc Kinh.
.
.
Mặc dù có những dấu hiệu mơ hồ từ phía Trung Quốc về
việc Đặng Tiểu Bình có thể tham dự các cuộc họp ở Thành Đô (là điều đã
thuyết phục Phạm Văn Đồng đến dự và làm tăng thêm tính kỳ cựu và uy tín
của ông trong dịp này), nhưng không thấy Đặng đâu cả, và Giang Trạch Dân
cùng với Lý Bằng đại diện cho Trung Quốc. Võ Văn Kiệt sau đó kết luận,
đây là một sự cố ý xúc phạm Việt Nam, và rằng phái đoàn “đã rơi vào bẫy”
bằng cách gửi đi một nhà lãnh đạo cấp cao mà không có sự đáp trả tương
ứng của phía Trung Quốc. Khi đó phái đoàn Việt Nam nhanh chóng phát hiện
ra rằng Trung Quốc không quan tâm đến “giải pháp đỏ” hoặc bất kỳ một
liên minh ý thức hệ nào với Việt Nam. “Trong tình hình quốc tế hiện nay,
nếu hai đảng cộng sản cùng bắt tay, điều này sẽ không có lợi cho cả hai
chúng ta”, Việt Nam được cho biết như thế. Sự miễn cưỡng đối với liên
kết ý thức hệ bằng cách nuôi dưỡng mối quan hệ đảng với đảng giữa các
phe phái cộng sản đối nghịch tại Campuchia đã không ngăn cản Trung Quốc
trong việc đánh lừa Bộ Ngoại giao chống Trung Quốc của Việt Nam và thực
hiện liên lạc ngoại giao thông qua Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam, mặc dù sự nhấn mạnh của Trung Quốc về việc giữ quan hệ với
Việt Nam chủ yếu trên cơ sở quốc gia với quốc gia (không theo ý thức
hệ) cho thấy rằng ngoại giao nên được thực hiện thông qua sự giao tiếp
giữa chính phủ với chính phủ, chứ không phải là kênh đảng với đảng. Điều
này tiếp theo cho thấy rằng, Trung Quốc sẽ yêu cầu liên kết đảng với
đảng chỉ khi nào phù hợp với lợi ích riêng của họ, và họ vẫn tiếp tục
chống lại lời kêu gọi của Việt Nam để thay thế Liên Xô như là “bức tường
thành của xã hội chủ nghĩa” trong một thế giới đang thay đổi.
.
.
Gọi hội nghị Thành Đô là một thất bại ngoại giao của
Việt Nam, ông Trần Quang Cơ nói rằng, lời giải thích chính là Việt Nam
đã tự lừa dối mình bằng cách bám víu vào sự tin tưởng rằng Trung Quốc
quan tâm đến một liên minh ý thức hệ để tự vệ chống lại âm mưu “diễn
biến hòa bình” của đế quốc, để tận diệt các nước cộng sản còn lại. Sự
thất bại của các nỗ lực không thành với “giải pháp đỏ” là một bước quan
trọng trong sự lụi tàn tất yếu của sức mạnh bóng ma “diễn biến hòa
bình”, được giới bảo thủ ở Việt Nam vịn vào như một lý do để chống lại
việc thỏa thuận với các lực lượng tích hợp của hệ thống toàn cầu hóa hậu
chiến tranh lạnh.
.
.
Bồi thêm sự xúc phạm vào vết thương, những cuốn băng
do Trung Quốc vui vẻ tiết lộ về cuộc thảo luận với các nhà lãnh đạo Việt
Nam qua việc đồng ý về một ưu thế cho các lực lượng chống Hun Sen trong
một liên minh chính quyền; thực ra là bán đứng đồng minh chính của Việt
Nam ở Campuchia, là lực lượng thắng thế tại Campuchia thời bấy giờ; cho
chính Hun Sen, cũng như một loạt các bên khác. Một trong những mục tiêu
của việc tiết lộ cuộc đàm phán được cho là bí mật, là để dựng nên một
hình ảnh về một Việt Nam dối trá, không đáng tin cậy cho đồng minh [của
Việt Nam] biết, và để gieo sự bất hòa trong giới lãnh đạo Việt Nam. Về
vấn đề này, Trung Quốc đã thành công: trong một cuộc họp bộ chính trị
giữa tháng 5 năm 1991, Phạm Văn Đồng đã bày tỏ sự hối tiếc vì bị ép buộc
phải ủng hộ một chính sách thiếu khôn ngoan. Đỗ Mười cũng lấy làm tiếc
về kết cuộc, với lý do là điều đó sẽ làm cho Việt Nam trở thành một
người bạn không đáng tin cậy trong con mắt các đối tác. Nguyễn Cơ Thạch
cũng nói với lãnh đạo đảng, ông Linh, rằng ông đã phạm một sai lầm
nghiêm trọng.
.
.
Vào ngày 2 tháng 9 năm 1990, ngày quốc khánh nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, một ngày trước khi khai mạc cuộc đàm
phán bí mật giữa Việt Nam và Trung Quốc tại Thành Đô, địa chỉ chính của
ông Đỗ Mười ở cho dịp này đã thừa nhận rằng cú điện thoại của Lý Bằng
nói “hai người hàng xóm” (không phải “hai đồng chí” ) khôi phục quan hệ
bình thường và tìm kiếm một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia.
Ông Mười nhớ lại sự hỗ trợ của Liên Xô và Trung Quốc đối với Việt Nam
trong cuộc đấu tranh vũ trang, và nói rằng: “Hôm nay, trong nhiệm vụ
‘đổi mới’ đất nước của chúng ta, sự hỗ trợ của bạn bè quốc tế sẽ có một ý
nghĩa rất lớn”.
Một cách hiểu điều này là, Việt Nam báo hiệu rằng họ
đang chuyển từ tư thế địa chính trị trên bàn cờ thế giới sang phát triển
kinh tế; trong đó bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc sẽ có lợi,
nhưng không quan trọng như mọi khi trong lĩnh vực chiến lược. Trong phần
đầu bài phát biểu, Đỗ Mười nói: “Tình hình quốc tế đang
tiến triển một cách rất phức tạp. Cuộc khủng hoảng ở các nước XHCN Đông
Âu là vô cùng nghiêm trọng, và sẽ có tác động không phải là không đáng
kể vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Các lực lượng đối
phương đang tiến hành nhiều hoạt động phá hoại sự phát triển và bảo vệ
Tổ Quốc của nhân dân ta”.
.
.
Thêm một chỉ dấu cho thấy, các lãnh đạo Việt Nam đang
thay đổi quan điểm của họ về bản chất của các mối quan hệ quốc tế, Đỗ
Mười đã phác thảo đề cương rộng lớn về những gì sẽ được biết đến như là
“toàn cầu hóa”. “Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ và xu
thế của toàn cầu hóa kinh tế đang đưa đến cho dân chúng trên thế giới
nhiều khả năng tuyệt vời để phát triển”. Nhận thức rằng, “nhiều sai lầm
đã phạm phải” trong chính sách kinh tế “trong nhiều năm qua”, ông Mười nói rằng: “Hiện
nay, chúng ta đang phải đối mặt với thực tế là mức sống và trình độ
phát triển của nhân dân ta quá thấp. Đó là một tình huống căng thẳng và
một thách thức lớn cho nhân dân ta”.
.
.
Động lực cho sự nhượng bộ ở Thành Đô vì lợi ích của
việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc là cả chính sách thực dụng
(bù lại cho sự mất mát hỗ trợ của Liên Xô và cúi chào trước thực tế về
vị thế chiến lược gia tăng của Trung Quốc) lẫn ý thức hệ (bảo tồn và
củng cố một số cốt lõi nhỏ nhoi các nước cộng sản còn lại). Bài diễn văn
của Đỗ Mười vào tháng 9 năm 1990, là sự mở rộng thêm diễn văn của ông
hồi tháng 12 năm 1989 (được thảo luận trong chương 3), cũng chỉ ra rằng
Việt Nam đang cố gắng hiểu rõ ý nghĩa của kỷ nguyên mới trong quan hệ
quốc tế, trong đó không phải chính sách thực dụng cũng không phải yếu tố
ý thức hệ, sẽ có tính quyết định trong việc giải quyết các vấn đề cấp
bách nhất của Việt Nam: sự lạc hậu về kinh tế của mình. Tuy nhiên vào
thời điểm đó, việc truất bỏ vấn đề Campuchia nan giải và tìm kiếm một
thỏa hiệp với Trung Quốc để cho phép Việt Nam tập trung vào phát triển
kinh tế là điều cần thiết.
.
.
Mặc dù đoàn Việt Nam đến Thành Đô đã có sự nhượng bộ
lớn về việc đồng ý với đề nghị của Trung Quốc, có thể làm nghiêng cơ chế
cai trị được đề nghị tại Campuchia về phía các đối thủ của Hun Sen,
Nguyễn Văn Linh và lãnh đạo quân đội Lê Đức Anh đã bay sang Phnom Penh
và cố gắng thuyết phục bạn hàng Hun Sen Campuchia của họ đồng ý hợp tác
với lực lượng Pol Pot, bởi vì khung cảnh lớn là các đế quốc đang cố gắng
tiêu diệt xã hội chủ nghĩa, và người Campuchia có thể làm phần của họ
để cứu CNXH bằng cách đạt được sự hòa giải giữa cộng sản Hun Sen và
Khmer Đỏ. Nguyễn Văn Linh đã nói với các lãnh đạo Campuchia, “ ‘Chúng
ta phải thấy rằng cũng có những mâu thuẫn giữa Trung Quốc và các đế
quốc về vấn đề Campuchia. Chúng ta phải có một chiến lược để khai thác
những mâu thuẫn này. Đừng tranh cãi với Trung Quốc tới
mức đẩy họ đứng về phía với các đế quốc’. Lê Đức Anh giải thích thêm
lập luận này: ‘Người Mỹ và phương Tây muốn có một cái cớ để loại bỏ chủ
nghĩa cộng sản. Họ đang loại bỏ chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu. Họ đã loan
báo rằng họ sẽ loại bỏ chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng
họ là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Chúng ta phải tìm kiếm đồng minh.
Đồng minh đó là Trung Quốc’.” Giải pháp đỏ vẫn tồn tại
trong tâm trí của các nhà lãnh đạo quân sự và đảng của Việt Nam, nhưng
không có sự hỗ trợ của Trung Quốc giải pháp đỏ phải cam chịu thất bại.
.
.
Giải pháp đỏ cũng làm đồng minh Campuchia của Việt
Nam xa lánh. Đại sứ Việt Nam tường thuật rằng sau cuộc họp này, thái độ
của Hun Sen đối với Việt Nam thay đổi; mà cuối cùng dẫn đến cảnh tượng
được mô tả ở trên về vị đại sứ Việt Nam Ngô Diên “cô đơn” bị buộc phải
chứng kiến sự giải tán của Đảng Cộng sản Campuchia. Kết cục là một Việt
Nam không có nước cộng sản đỡ đầu và không có bạn hàng cộng sản. Trần
Quang Cơ có lẽ không phải là người duy nhất kết luận rằng cuộc họp Thành
Đô là một “vết nhơ trong ngoại giao của Việt Nam”. Không những Việt Nam
tiết lộ mong muốn theo đuổi một chính sách lỗi thời về tình đoàn kết ý
thức hệ với Trung Quốc, mà sự tiết lộ tinh quái của Trung Quốc về sự
thất bại của Việt Nam để đạt được “giải pháp đỏ” và sự phản bội đồng
minh của họ làm suy yếu nỗ lực của Việt Nam để đa dạng hóa chính sách
đối ngoại của mình và đạt được nhiều khoảng trống hơn để hoạt động.
.
.
Lập trường của Trung Quốc đã làm cho sự kiện này trở
thành lựa chọn ngoại giao khả thi duy nhất cho sự lệ thuộc toàn bộ của
Việt Nam vào Trung Quốc. Ngay cả tường thuật rất thành thực của Trần
Quang Cơ về cuộc họp Thành Đô giữa các lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc
cũng không đề cập đến một đề nghị (được biết) của Trung Quốc, đi xa hơn
vấn đề Campuchia. Một tờ báo của Anh tường thuật rằng, các nguồn tin
tình báo Tây Phương cho rằng Trung Quốc đã đề nghị thay thế hàng hóa mà
Liên Xô không còn khả năng cung cấp, trả lại một phần đáng kể quần đảo
Trường Sa (một khu vực có trữ lượng dầu tiềm năng). “Đổi lại sự giúp đỡ
của mình, Trung Quốc đã yêu cầu Hà Nội ‘cộng tác’ – nói cách khác là lệ
thuộc – chính sách ngoại giao của mình với chính sách của Bắc Kinh. Một
nguồn tin tình báo ở Bangkok cho biết: ‘Các chính sách rất gần nhau. Và
đó là những gì thực sự làm tôi ngạc nhiên, chứ không phải là sự từ chối
cuối cùng của họ. Củ cà rốt cho Hà Nội rất lớn, và họ đã phải suy nghĩ
lâu dài và kỹ lưỡng trước khi từ chối toàn bộ. Điều đó cho thấy người
Việt Nam tuyệt vọng thế nào”. Thực ra, tình hình chiến lược tồi tệ của
Việt Nam chẳng bao lâu sẽ dẫn họ đến việc chấp nhận một cách miễn cưỡng
vai trò lệ thuộc mà Trung Quốc đòi hỏi; thậm chí chẳng có củ cà rốt nào.
Nguồn: VietBao Online