Hoà Giang Đỗ Hữu Nghiêm
Đại Học Việt Nam Thời Khai Sinh
1. Việc thành lập Viện Đại Học Đông Dương tại
Hà Nội
Viện Đại Học Đông Dương tại Hà Nội được
thiết lập do sáng kiến của chính quyền thuộc địa, đã được bổ sung
nhiều lần từ đó qua những thời kỳ khác nhau
Theo Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại (Centre des
Archives d’Outre-Mer) tại Aix-en Provence, miền Nam nước Pháp,
và Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội, một khối lượng lớn tài liệu
về Đại học Đông Dương (Université Indochinoise) từ khi
thành lập (1906) cho đến khi người Pháp chính thức rời khỏi miền Bắc
Việt Nam còn được bảo quản (1954).
Những tài liệu này tập trung cơ bản trong
các kho tư liệu của Phủ Toàn quyền Đông Dương Fonds du
Gouvernement général de l’Indochine - GGI), kho tư liệu Phủ
Thống sứ Bắc Kỳ (Fonds de la Résidence supérieure au Tonkin - RST)
và khối tài liệu của Bộ Pháp quốc Hải ngoại (Ministère de la
France d’Outre-Mer - FOM).
Như thế trong cuộc di tản khỏi miền Bắc
Việt Nam năm 1954-55, chính quyền Việt Pháp đã không chuyển toàn vẹn
những kho lưu trữ tư liệu tại Hà Nội từ các thời kỳ trước cho đến
thời điểm chính quyền Việt Pháp rời khỏi Hà Nội vào Nam (ngày giao
vùng Hà Nội cho lực lượng Việt Minh là ngày 10/10/1954).
Ngoài ra, hai Trung tâm Lưu trữ Quốc gia
này còn lưu trữ một khối lượng lớn tài liệu khác có liên quan trực
tiếp đến sự ra đời và phát triển của trường Đại học Đông Dương và về
hai cuộc cải cách giáo dục ở Đông Dương do hai viên Toàn
quyền Pháp là Paul Beau và Albert Sarraut là những người khởi
xướng. Ở đây chúng ta chú trọng hai tài liệu quan trọng có ý nghĩa
quyết định đối với thời gian ra đời của trường đại học Đông Dương.
2. Quá Trình Thành Lập Viện Đại Học Đông
Dương
Nghị định số 1514a ngày 16/5/1906
do Toàn quyền Đông Dương Paul Beau ký ban hành. Nghị định này chính
là văn bản khai sinh ra trường đại học đầu tiên theo mô hình của
Pháp tại Đông Dương.
Điều 1 của Nghị định ghi rõ:
“Nay thành lập ở Đông Dương, dưới tên
gọi Viện đại học, một tập hợp các khoá đào tạo bậc đại học
cho các sinh viên xứ thuộc địa và các nước láng giềng.
Cơ sở đào tạo này có nhiệm vụ phổ biến ở
Viễn Đông, chủ yếu là thông qua tiếng Pháp, những kiến thức về các
ngành khoa học và các phương pháp Châu Âu”.
Mục đích thành lập Viện Đại Học được
ghi rõ trong Nghị định số 1514a là nhằm “đào tạo nhân viên bản xứ
cho các bộ máy hành chính địa phương hoặc các cơ quan chuyên môn
thuộc Phủ Toàn quyền Đông Dương”.
3. Các trường đưọc thành lập
Theo Nghị định số 1514a ngày 16/5/1906,
Viện Đại Học Đông Dương được tổ chức khởi đầu với 5 trường liên
thuộc:
a). Trường Cao đẳng Luật và Pháp chính
(École supérieure de Droit et Administration) gồm ba khoa dự
kiến được thành lập bởi Hội đồng Tốt Nghiệp Giáo dục Bản xứ (Conseil
de Perfectionnement de l’Enseignement Indigène), trong đó khoa
thứ nhất đã có từ trước, đó chính là trường Hậu bổ Hà Nội (École
d’Administration de Hanoi) được thành lập theo Nghị định ngày
20-6-1903, là nơi đào tạo nên hệ thống quan lại cho bộ máy hành
chính người bản xứ.
Trường nhắm đào tạo những người có
bằng Thành chung trong ba năm để làm Tham tá Hành chánh
(Commis de Services Civils). Năm 1926, trường đổi tên thành
Cao học Đông Dương (Hautes Études Indochinoises), đào tạo
sinh viên có bằng Tú tài, bổ làm Huyện. Năm 1933, Trường Cao
Học Đông Dương bãi bỏ chương trình đào tạo này và thay vào đó là các
Cử Nhân Luật Khoa
b). Trường Cao đẳng Khoa học (École
supérieure des Sciences): gồm các ngành Toán, Vật lý, Hóa học và
sinh vật. Nhiệm vụ của trường là đào tạo những người nghiên cứu
khoa học và giáo viên trung học hoặc cao đẳng sư phạm. Trường
được trang bị các phòng thí nghiệm và khoá học của năm thứ nhất thì
không phải chỉ dành riêng cho sinh viên của trường này mà còn cho
sinh viên của các trường khác như trường Y, trường Xây dựng dân dụng.
Về sau mở thêm Trường Cao Đẳng Sư Phạm
(École Supérieure de Pédagogie), đào tạo các giáo sư
trung học, trong hai ban chuyên khoa: Toán Pháp và Khoa học; Văn
Chương và Sử Địa. Phần mở rộng chính là việc đào tạo giáo sư trung
học dậy ban Văn chương.
Các sinh viên phải học đủ ba năm trước khi
thi tốt nghiệp.
c). Trường Cao đẳng Y khoa (École
supérieure de Médecine): đây chính là Trường Y khoa Hà Nội (École
de Médecine de Hanoi) được thành lập theo Nghị định ngày
8/1/1902 và được tổ chức lại theo Nghị định ngày 25/10/1904 do Toàn
quyền Paul Beau ký ban hành. Theo Nghị định ngày 25/10/1904, trường
Y khoa Hà Nội được đổi tên thành trường Y khoa Đông Dương (École
de Médecine de l’Indochine). Nhiệm vụ của trường là đào tạo y
sĩ và dược sĩ phụ tá (médecin et pharmacien auxiliaire),
hạn học 4 năm về y tế và 3 năm về dược. Sinh viên tốt nghiệp ban đầu
chỉ được gọi là médecin auxiliare (y sĩ phụ tá), sau mới đổi
là médecin indochinois (y sĩ Đông Dương)
Vào khoảng 1925-26, sinh viên muốn học Y
khoa Bác sĩ, phải có Tu tài Pháp. Những sinh viên nào có Tù tài bản
xứ, khi tốt nghiệp, vẫn tùy thuộc quyền docteur en medicine
(bác sĩ y khoa). mặc dù học lực tương đương nhau và có khi còn nhiều
năng lực hơn.
Trong trường còn có lớp nữ hộ sinh bản
xứ (sage-femme indigène), học trong hai năm.
Về sau Trường Y Khoa tách lập với Trường
Dược Khoa (École de Pharmacie). Sinh viên phải học bốn
năm để được đào tạo thành Dược sĩ Đông dương (pharmacien
indochinois)
Phần y sĩ cho thú vật cũng được tổ chức
giảng dậy trong Trường Thú Y (École Vétérinaire). Sinh
viên phải học bốn năm, để được đào tạo thành Thú Y Sĩ Đông Đương
(vétérinaire indochinois).
d). Trường Cao đẳng Xây dựng Dân chính
(École supérieure du Génie Civil) với ba khoa dự kiến được
thành lập, trong đó khoa Cầu - Đường bộ, Đường sắt và Mỏ chính là
những ngành của trường Công chính (École des Travaux publics)
được thành lập theo Nghị định ngày 22/2/1902.
Ở Hà Nội người ta gọi là Trường Lục Lộ,
đào tạo các Đốc Công (agent technique), trong hai năm. Nếu
sinh viên học tập theo một chương trình lâu hơn, thì khi tốt nghiệp,
họ sẽ thành adjoint technique, agent voyeur, ingénieur adjoint.
Mãi sau năm 1945, mới có thuật ngữ kỹ sư
cho những sinh viên nào học ở trường Công chánh cũ hay du học từ
ngoại quốc về nước.
e). Trường Cao đẳng Văn chương (École
supérieure des Lettres): dạy Ngôn ngữ và Văn học cổ điển
phương Đông, Lịch sử và Địa lý các nước Viễn Đông, Lịch sử văn học
Pháp và nước ngoài, Lịch sử triết học và Lịch sử nghệ thuật.
Về sau có thêm Trường Cao Đẳng Thương
Mại (École Supérieur de Commerce), sinh viên phải học hai
năm. Họ được đào tạo những kiến thức thương mại để tính lời lỗ trên
bàn tính một cách đơn gỉản và tham gia điều hành doanh vụ.
4. Những người đủ điều kiện nhập học đại
học
Kèm theo Nghị định số 1514a ngày 16/5/1906
là Bản Nội quy của Trường do Tổng Giám đốc Học chính (Directeur
général de l’Instruction publique) Gourdon ký ngày 12/10/1907,
xác định rõ thành phần sinh viên cùng đội ngũ giáo viên và chương
trình của năm học đầu tiên 1907-1908
Bổ sung cho Nghị định số 1514a ngày
16/5/1906 là hai Nghị định số 577 và 578 cùng ngày 17/2/1908
do Toàn quyền Paul Beau ký về việc thành lập Ban Thư ký và bổ
nhiệm ông Henri Russier làm Thư ký trường ĐHĐD
Nghị định số 1514a ngày 16/5/1906 và những
tài liệu đi kèm cho thấy, Viện Đại Học Đông Dương được thành lập
trên cơ sở một số trường đã được thành lập trước đó và có mở thêm
một số ngành đào tạo mới. Điều đó chứng tỏ rằng, sự thành lập
ĐHĐD không phải là một việc làm hứng thú nhất thời của một cá nhân
nào, mà sự kiện này là kết quả của một quá trình vận động phù hợp
trong lịch sử Việt Nam và thế giới.
Quá trình vận động đó, qua tài liệu lưu trữ,
chính là cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất ở Đông Dương mà
Paul Beau là người khởi xướng, bắt đầu bằng việc thành lập Sở học
chính, một tổ chức “chịu trách nhiệm đưa ra một sự xung động
toàn thể về sự nghiệp giáo dục trong toàn xứ Đông Dương” do
Gourdon làm Tổng Giám đốc.
Chính thức nhậm chức Toàn quyền ngày
15/10/1902, ngay từ 1904, Paul Beau đã ký nhiều nghị định nhằm xác
định những nét lớn trong tổ chức giáo dục Pháp-Bản xứ, trong
đó có Nghị định thành lập Hội đồng Tốt nghiệp Giáo dục Bản xứ
(Conseil de Perfectionnement de l’Enseignement Indigène) được
Paul Beau ký ngày 9/3/1906.
Với trách nhiệm “nghiên cứu những điều
kiện để thành lập và hoạt động của một trường đại học gồm các môn
giảng dạy ở bậc đại học dành cho người bản xứ và người Châu Á”,
vào ngày 11/4/1906, trong phiên họp thứ nhất, sau nhiều cuộc tranh
luận, Hội đồng Tốt nghiệp Giáo dục Bản xứ đã nhất trí đề nghị lên
Toàn quyền việc thành lập ĐHĐD và được Toàn quyền chuẩn y bằng Nghị
định số 1514a ngày 16-5-1906 như đã giới thiệu ở trên.
5. Viện Đại Học Đông Dương Khánh Thành
Trường được phép làm lễ khánh thành
bằng Nghị định ngày 12/6/1907 và ngày 10/11/1907, lễ khánh thành
được tổ chức tại Phủ toàn quyền cũ (khu nhượng địa) ở Hà Nội, dưới
sự chủ tọa của Thống sứ Bắc Kỳ De Miribel.
Cuối tháng 11/1907, Trường đã tổ chức lễ
khai giảng đầu tiên với sự có mặt của 94 sinh viên mới, 62 sinh viên
dự thính và 37 sinh viên năm thứ nhất trường Y Khoa sẽ tham dự một
số giờ học của môn khoa học của Trường, tổng cộng gồm 193 sinh viên.
Trong năm học đầu tiên này, một số viên chức các sở chuyên môn tuy
không theo học chính thức nhưng cũng được phép tham gia các giờ thực
hành tại các trường thuộc ĐHĐD.
Tuy nhiên, sau khi năm học đầu tiên này kết
thúc, ĐHĐD đã đột ngột đóng cửa, không bởi một văn bản pháp
lý nào, không cả một lời giải thích của bất cứ một vị quan chức nào
trong bộ máy chính quyền thuộc địa.
Mặc dù ĐHĐD đã phải đóng cửa sau một năm
hoạt động vì chương trình đào tạo của nó còn nhiều điểm chưa phù
hợp với điều kiện thực tế lúc đó, song thực tế cũng đã chứng
minh rằng, những sinh viên được ĐHĐD đào tạo dù chỉ trong một năm
học cũng đã không ngừng đem lại nhiều kết quả đáng khích lệ.
Nhiều sinh viên của Trường đã tiếp thu được
những khái niệm vững chắc cần thiết cho nghề nghiệp của họ,
sự ham thích thực sự đối với khoa học, và nhất là về
phương pháp giảng dạy, phương pháp mà sau này đã được phát hiện
trong rất nhiều sách giáo khoa phổ biến khoa học tập hợp về sau do
một vài người trong số họ soạn ra.
Trong vòng 10 năm, từ giữa 1907 đến 1917,
sau cuộc cải cách của Paul Beau, nền giáo dục bậc cấp 2, cả giáo
dục bản xứ lẫn giáo dục Pháp ở Đông Dương đã phát triển tốt hơn
chuẩn bị cho những sinh viên theo được giáo dục cấp 3, tạo điều kiện
vững chắc cho sự hồi sinh của ĐHĐD vào năm 1917. Cuộc cải cách
giáo dục lần thứ nhất của Paul Beau, trên thực tế, đã đặt nền móng
cho toàn bộ nền giáo dục ba cấp của Pháp ở Việt Nam.
ĐHĐD gắn liền với tên tuổi của Paul Beau,
Toàn quyền Pháp thứ 13 ở Đông Dương. Quá trình hình thành trường đại
học đầu tiên của xứ thuộc địa này cũng gắn liền với cải cách giáo
dục ở Đông Dương mà Paul Beau khởi xướng.
6. Hệ thống giáo dục ba bậc
Bộ “Tổng quy Học chính” (Règlement
général de l’Instruction publique) do Toàn quyền Albert Sarraut
ban hành theo Nghị định ngày 21-12-1917.
Với 7 chương gồm 558 điều, bộ “Tổng quy
Học chính” của Albert Sarraut qui định nền giáo dục ở Việt Nam
theo 3 cấp:
* Sơ cấp là nền học vấn tiểu học
(Enseignement primaire) gồm các trường tiểu học toàn cấp (Écoles
Primaire de plein exercice) và các trường sơ tiểu học (École
Primaire Elémentaire).
* Trung cấp là học vấn trung học gồm
cao đẳng tiểu học (học trong 4 năm để thi lấy bằng cao đẳng
tiểu học, gọi là bằng Thành chung hay Diplôme) và
trung học, học trong 2 năm để thi lấy bằng Tú tài (Diplôme de
bachelier).
Các trường tiểu học và trung học đều nằm
trong hệ thống các trường Pháp-Việt. Ngoài ra còn có hệ thực
nghiệp cho cả hai bậc giáo dục: bậc tiểu học có các trường dạy
nghề mộc, rèn, nề, trường gia chánh (École ménagère); bậc
trung học có các trường thực nghiệm toàn cấp (École
professionnelle de plein exercice).
Theo quy định của bộ “Tổng quy Học chính”,
hệ phổ thông sau khi tốt nghiệp trung học, học sinh sẽ thi
vào các trường cao đẳng, còn hệ thực nghiệp thì tùy tính chất
của từng loại trường và số năm học (tương ứng với tiểu học hoặc
trung học), sau khi tốt nghiệp sẽ làm việc ở các cơ sở sản xuất.
* Cao đẳng: về nguyên tắc tổ chức,
các trường Cao đẳng Đông Dương làm thành trường ĐHĐD nhưng trên thực
tế, các trường Cao đẳng này chưa thành lập hết nên trong “Tổng
quy Học chính”, hệ cao đẳng chỉ được nêu một cách khái quát như
sau:
- Trường Quan Lại ở Hà Nội (École
des Mandarins à Hanoi) và trường Hậu Bổ ở Huế (École
d’Administration à Hué) là những trường chuyên đào tạo quan lại,
theo quy chế này sẽ ngừng hoạt động và tổ chức lại hợp nhất trực
thuộc Giám đốc ĐHĐD quản lý.
- Trường Y khoa Đông Dương (École
de Médecine de l’Indochine) thành lập theo Nghị định ngày
25/10/1904 và trường Cao đẳng Thú y Đông Dương (École
Supérieure Vétérinaire de l’Indochine) thành lập theo Nghị định
ngày 15/9/1917 vẫn tiếp tục hoạt động.
- Trường Công chính (École des
Travaux publics) thành lập theo Nghị định ngày 22/2/1902 và tổ
chức lại theo Nghị định ngày 15/4/1913 sẽ trực thuộc vào Giám đốc
ĐHĐD.
- Bỏ các lớp dạy luật (Cours de Droit)
được thành lập theo Nghị định ngày 29/3/1910.
Bổ sung cho Nghị định ngày 21/12/1917 ban
hành bộ “Tổng quy Học chính” là Tổng Quy về giáo
dục Cao đẳng ở Đông Dương (Règlement général de
l’Enseignement supérieur) được Toàn quyền Albert Sarraut ban
hành lần đầu tiên bằng Nghị định ngày 25-12-1918 và sau đó không
ngừng được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế. Đây
là một văn bản có tính chất pháp lý quan trọng đối với giáo dục bậc
cao đẳng ở Đông Dương nói chung và đối với tổ chức ĐHĐD nói riêng.
Như vậy là, trên thực tế, kể từ khi ĐHĐD do
Toàn quyền Paul Beau sáng lập ra theo Nghị định số 1514a ngày
16/5/1906 đã ngừng hoạt động không do một văn bản pháp lý nào cho
tới khi Nghị định ngày 31/12/1917 được Toàn quyền Albert Sarraut ban
hành, chính quyền thuộc địa đã không ra thêm một văn bản nào khác về
ĐHĐD. Điều này hoàn toàn hợp lý, vì người ta không thể ra một văn
bản để thành lập một tổ chức vẫn còn đang tồn tại dù chỉ là trên
giấy tờ. Hơn nữa, ĐHĐD được nhắc tới trong bộ “Tổng quy Học chính”
này, về thực chất, được tập hợp từ các trường thành viên của ĐHĐD do
Paul Beau sáng lập ra. Có thể nói rằng, nếu sự ra đời của ĐHĐD gắn
liền với chương trình cải cách giáo dục lần thứ nhất của Pháp ở Việt
Nam mà Paul Beau là người khởi xướng thì sự tái thành lập của Trường
lại không thể tách rời chương trình cải cách giáo dục lần thứ hai
của Albert Sarraut, Toàn quyền thứ 23 của Pháp ở Đông Dương. Với bộ
“Tổng quy Học chính”, Albert Sarraut đã làm cho trường ĐHĐD
được hồi sinh sau 10 năm ngừng hoạt động.
Theo hai tài liệu trên đây, Đại học Đông
Dương được thành lập ngày 16/5/1906 và được tiếp tục khẳng định vai
trò của mình trong lịch sử giáo dục ở Đông Dương nói chung và ở Việt
Nam nói riêng bắt đầu từ ngày 31/12/1917. Những chứng cứ này tồn tại
khách quan, được lưu giữ tại các cơ quan lưu trữ Việt Nam và Pháp.
Đó là những tư liệu đáng tin cậy cho những ai quan tâm nghiên cứu về
lịch sử Đại học Đông Dương và lịch sử giáo dục đại học Việt Nam. Như
thế những thay đổi tiếp tục trong thực tế.