Hồi chuông báo tử cho một nền Văn Học miền Nam!

Nguyễn Văn Lục

Hồi chuông báo tử cho một nền Văn Học miền Nam!



Lê Phụng đã nằm xuống. Sự ra đi của ông làm tôi trăn trở tới số phận một con người làm văn học. Một con người hầu như để cả nửa cuộc đời từ sau 1975 đọc và nghiên cứu, rồi cầm bút để nhận được sự thờ ơ, ghẻ lạnh của mọi người.

 Nghĩ xa hơn thay vì chỉ nghĩ tới cá nhân Lê Phụng. Tôi đang phải đối mặt với một cái chết — không phải của chế độ miền Nam — mà nghĩ tới một sự chấm dứt một dòng văn học đã có một thời làm cho người miền Nam nói chung thấy hãnh diện.

Sự hãnh diện ấy thật chính đáng mà không có gì phải lấy làm hổ thẹn. Sự hãnh diện ấy tôi đã nhiều lần bày tỏ công khai trên các diễn đàn báo chí hải ngoại trong nhiều năm nay. Nhưng nay đến lúc phải nhìn ra sự thực

Trước đây, có lúc tôi còn vương vấn và còn gọi gián tiếp là một dòng văn học bị “nghẽn mạch”. Nhưng nghẽn là tạm thời rồi vẫn có cơ hội thông suốt.

Nhưng nay phải gọi cho đúng tên của nó. Một dòng văn học đã chấm dứt.

Thật vậy. Nay mất một người là mất một người. Chiếc ghế trống để lại không ai thay thế. Mai Thảo mất thì không có Mai Thảo thứ hai. Đơn giản như vậy bởi vì không có kế thừa. Chỉ vài năm nữa một vài người còn sống sót trong bóng tối lẻ loi như một Nguyễn Văn Trung, Doãn Quốc Sỹ cũng sẽ không còn nữa.

Hoàn cảnh nào đã đấy người cầm bút đến chỗ như thế? Tất cả là do thay đổi hoàn cảnh xã hội; họ như bị bứng gốc đi trồng ở một nơi khác. Nhãn Hưng Yên, Bưởi Biên Hòa trồng ở California hẳn có điều gì khác, huống chi một con người?

Phải chăng, nếu còn VNCH thì chỗ đứng của Lê Phụng cho một người cầm bút có tầm vóc như ông sẽ như thế nào? Thật ra, suy cho cùng, số phận người cầm bút như Lê Phụng cũng là số phận dành cho đa số người cầm bút trước 1975 và cả sau 1975.

Câu trả lời của tôi là cách đây đã lâu — khoảng hơn 20 năm — tôi có viết một bài nhan đề như một lời cảnh báo về tương lai Văn Học Việt Nam Hải Ngoại. Nhan đề bài viết của tôi là “Hiện trạng lão hóa trong văn học Việt Nam Hải ngoại”.

Tôi gọi đó là hiện tượng “Lão hóa kép” chẳng những về phía tác giả như về đề tài, về sức viết, về khả năng sáng tạo, v.v.. Và “lão hóa” cả về phía người đọc như tính trì trệ, tính thờ ơ “tính không đọc sách”, hay thiếu một vốn văn hóa đọc.

Nói như thế chẳng có ý trách ai hoặc nhắm vào người nào. Trách ai cũng là một cách gián tiếp trách chính mình.

Một xã hội người di tản vốn là thiểu số, lại thiếu một gốc gác văn hóa “truyền thống”, thường chỉ có một thứ văn hóa vay mượn từ nước Tàu mà tưởng là của mình. Hãy chỉ cho tôi có cái gì thuộc di sản thuần túy Việt Nam? 20 năm văn học miền Nam là một thành tựu đáng nể, nhưng chưa đủ cắm sào ở bất cứ bến Văn Học nào thì quy luật của đa số sẽ “ nuốt trửng” cái thiểu số đó và ngày một ngày hai sẽ nó sẽ bị tan loãng trong cái đa số theo luật “melting pot”.

Cuộc di cư năm 1954 là một bài học khác hẳn về môi trường xã hội, văn học cũng như chính trị. Thay vì nó bị “hóa lỏng, hòa tan” thì nó trở thành một dòng chảy văn học từ một dòng sông nhỏ biến thành dòng sông lớn. Dòng chảy này đẹp biết là bao vì nó bao gồm được tính nhân bản, khai phá, sáng tạo và đa dạng, tính kế thừa. Mà mỗi chữ tôi dùng là một nét đẹp và nói mãi không hết. Mà nhắc đến nó là nước mắt lưng tròng. Mà nó nhỏ hay nó lớn thì chưa chắc đã quan trọng bằng cái nó là của người dân miền Nam đã nuôi dưỡng và tạo ra nó.

Nó mất đi và nay nó không còn nữa chỉ vì có cuộc đổi đời. Một cuộc đổi đời thô bạo nhất mà chỉ người trong cuộc mới thấm đẫm cái đau của nó.

Vẫn biết rằng sự hội nhập và công việc giữ gìn bản sắc luôn là một thử thách, một cái không dễ gì, mà vẫn cố trì kéo, cố níu nó lại, giữ gìn bản sắc để cái “tôi là” trước áp lực của cái “tôi sẽ là”. Một quy luật xã hội cho mọi cộng đồng, mọi sắc dân, một va chạm cọ sát với đầy những huyền thoại và thực tế.

Sụ biến chất do cọ sát hàng ngày làm ta thay đổi đến chính ta cũng không nhận ra những thay đổi ấy. Nhưng nếu có dịp về lại Việt Nam hôm nay, ta sẽ ngỡ ngàng về sự “biến chất” từ cái văn hóa vật thể thấy được bề ngoài như cách ăn mặc, cử chỉ , điệu bộ, ngôn ngữ đến cả cái văn hóa phi vật thể là tinh thần, tâm linh, cách suy nghĩ, nền tảng đạo đức đến cả tôn giáo nữa.

Đối với mọi người, ta chỉ còn có cái tên gọi, hai chữ Việt Nam và mầu da vàng đối với người ngoại quốc. Còn thực sự ta không thể chính thức là người Việt Nam hoặc người bản xứ dù đã hơn nửa đời người sống ở xứ người. Ta là “nửa người nửa ngợm” chăng? Và này dân số trẻ sinh ra và lớn lên ở xứ người, chiếm phân nửa, ít nói tiếng Việt, làm sao bắt chúng chia sẻ cái phần gia tài văn hóa, cái căn cước Việt như tiếng nói, bài ca, tình tự đất nước, hay nỗi vinh nhục của một lá cờ hay những hội chứng sau một cuộc chiến? Bình Giả hay Pleime, Đức Cơ là nghĩa quái gì cơ chứ?

Sự mâu thuẫn có tính nội tại, phi thực nằm ngay trong chính chúng ta, sống phi thực, sống giữa một huyền thoại quá khứ đã sói mòn và áp đặt một cách “xuẩn ngốc” lên người khác, lên giới trẻ.

Đến lúc nào cho phép chúng ta nói lên được câu: Giã từ quá khứ?

Mặc dầu lý lẽ thì như vậy, người Việt di tản vẫn cố gắng tìm cho mình một căn cước Việt tính như một lẽ sống còn, như một chỗ trú ẩn. Căn cước Việt tính ấy không cần tìm đâu xa xôi như trong truyền thống, lịch sử, văn hóa, tôn giáo, v.v..

Nó rất gần, còn như sôi sục. Đó là cuộc chiến tranh và sự thua cuộc còn như vết thương nhức nhối. Nó trở thành một cái “trung tâm văn hóa và kỷ niệm” phi vật thể như một trục xoay mà người ta chỉ nhận thấy và nhận ra nhau trong các buổi hội họp, trong các buổi văn nghệ hay trong lúc trà dư tửu hậu.

Hơn lúc nào hết, cái ta hiện hữu được phô trương rõ rệt và muốn được mọi người nhìn nhận. Phô trương là một trong những nét cá tính của người Việt di tản.

Không lạ gì, nếu vứt bỏ cái quá khứ đó đi thì còn lại gì?

Nhiều người sẽ buồn chán đến phát điên. Theo nghĩa xã hội học, người ta gọi cái đó là Hội chứng sau 1975, hội chứng thua cuộc. Hội chứng di tản hay còn bi kịch hơn, “Hội chứng lưu vong”.

Tất cả mọi người có mặt trong đám đông đó chỉ muốn vực dậy, làm sống lại quá khứ đó mà nay nhiều khi nó chỉ còn là sự tô hồng quá khứ, như một huyền thoại. Nó mắc sinh một sự quá đà là căn bệnh nói phét.

Ở một mặt khác, người ta nhận ra rằng, càng có một truyền thống văn hóa hoặc tôn giáo truyền thống ăn sâu vào tâm thức người dân thì sự hội nhập vào một xã hội càng trở nên khó khăn. Hành lý càng nặng nề thì sự hội nhập càng khó khăn theo tỉ lệ thuận.

Trong nhiều sắc dân như Do Thái, người da đen, dân Hồi giáo, dân Palestine với một truyền thống lâu đời và một nền văn minh cố cựu bám rễ cho thấy sự đụng chạm giữa các nền văn minh càng trở thành một bi kịch của xã hội trong việc hội nhập. Như ta thấy hiện nay giữa Do Thái và Palestine.

Trong một cuốn sách nhan đề: “Juifs&Noirs, Du Mythe à la réalité”, nxb In Presse, dưới sự điều hợp của Shmuel Trigano, do nhiều tác giả cộng tác cho thấy sự mất còn của căn cước người tỵ nạn là những nhan đề gây những mối căng thẳng, đi đến kết quả là sự kỳ thị chủng tộc, sự căng thẳng đối đầu, sự cưỡng chế và khuất phục hầu như không tránh khỏi.

Nghĩ như thế, để nhìn lại căn cước người tỵ nạn Việt Nam Hải ngoại là một cuộc hội nhập tương đối êm dịu và có thể chưa hề bùng nổ một cuộc va chạm “nảy lửa và sắt máu” nào với dân bản địa.

Cho nên, không lạ gì, người Việt sinh sống tại Pháp thì dễ dàng ăn mừng lễ Noel và thói quen uống rượu vang. Trong khi người Việt tại Mỹ thì nay lại ăn mừng trọng thể ngày lễ Tạ ơn. Đây không còn là giai đọan thích ứng, hội nhập mà là đồng hóa rồi.

Ngay các đồng hương ở Ba Lan, mặc dầu chính phủ hiện nay có khuynh hướng siết chặt cánh cửa cho tỵ nạn, vậy mà người Việt ở đây xem ra vẫn ung dung, thoải mái. (Vẫn xả thịt chó ngay trong “ấp” với tiết canh, rựa mận và dồi chó.)

Bởi vì họ biết thích ứng tương đối dễ dàng, bởi vì.. bởi vì thiếu vốn “văn hóa…truyền thống” mặc dầu giữa người Việt với nhau thì “ăn thua đủ”. Ăn thịt chó, chửi tục, “ăn thua đủ” là “nếp sống” văn hóa chứ không phải truyền thống văn hóa.

Như thế thì chúng ta nên mừng hay nên lo?

Nghĩ thế, có lẽ chỉ có một nhà văn Việt Nam ở Hải ngoại là Mai Thảo xem ra có bản sắc, có “căn cước Việt tính” rõ nét và ông không dễ dàng chịu hội nhập vào xã hội mới là Hoa Kỳ. Xin trích dẫn bài viết của Nguyễn Mộng Giác về Mai Thảo:

“Anh là hiện thân trọn vẹn hai tiếng “lưu vong”, hơn thế nữa, trong khi những bạn văn khác tìm cách thích nghi với hoàn cảnh mới, Mai Thảo khăng khăng sống y như cũ, từ chối tất cả những thay đổi cần thiết để hội nhập. Anh không học Anh Văn, không lái xe, chữ viết nắn nót trang trọng trên trang giấy kẻ hàng, thậm chí hàng tháng cứ dùng viết Big viết từng địa chỉ và họ tên của 700 độc giả dài hạn của tạp chí Văn lên phong bì chứ không dùng phương tiện điện toán hiện đại. Tinh thần anh đề kháng với những gì đang đổi thay trước mắt.”

(Thư quán bản thảo, số đặc biệt tạp chí Sáng Tạo, số 60 tháng 7-2014, trang 37 Nguyễn Mộng Giác, “Nỗi cô đơn lớn lao của Mai Thảo”. Nguồn chính:tạp chí Văn Học, số 143, tháng 3 năm 1998.)

Nhìn lại các cộng đồng người di dân khác trên khắp thế giới hiện nay, sự có mặt của các sắc dân đa tạp chủng tộc trở thành mối lo cho các chính quyền đã tiếp nhận họ như tại Pháp, tại Mỹ và nhiều Quốc gia khác. Và họ tạo thành những ghettos.

Theo Vincent Viet, trong cuốn “Histoire des Francais venus d’ailleurs de 1850 à nos jours” ông đã viết:

“Chẳng hạn ở trung tâm thành phố Marseille, có những khu như: Auvergnats trên đường Roquette, ở khu 11, dân Bretons thì tụ tập chung quanh nhà ga Montparnasse, dân Alsaciens thì quần tụ chung quanh vùng Villette, ở phía Đông Bắc thành phố, ở khu 19.

Đặc biệt những nhân công di dân làm phu thợ, phu đập đá, phu lợp mái nhà, sống theo lề thói của họ từ nếp sống bản địa. Họ cùng đi làm một nơi, cùng về một khu nhà chung cư, ăn chung cùng một món súp do người chủ nhà trọ nấu, nói chung một thứ tiếng hay nói chung một thổ ngữ.”

(Vincent Viet, Histoire des Francais venus d’ailleurs de 1850 à nos jours, nxb Perrin, 2004 trang 22)

Bài viết này chú trọng nhiều đến vấn đề văn học với các nhà văn của cộng đồng người Việt mà không quan tâm nhiều đến các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị của cộng đồng người Việt.

Thoạt đầu, sau 1975, nhất là sau đợt Boat people, 1979, số lượng các nhà văn, các tác giả cầm bút trước 1975 vượt biển tìm tự do khá đông, rộ lên một đợt di dân đã từng có kinh nghiệm sống dưới chế độ cộng sản. Họ hừng hực khí thế đấu tranh và thề sẽ có ngày trở về giải phóng quê hương. Trong một bài phỏng vấn ông bà Võ Kỳ Điền, do báo Sóng ở Montréal thực hiện, qua đó nó cũng phản ảnh cái tâm tình của người tỵ nạn Việt Nam lúc bấy giờ (năm 1992), tôi đọc được phát biểu của chị Diên như sau:

“Tội nghiệp, vì trong khi ai ai cũng đang nghĩ đến công tác “dọn đường về nước”, mọi người chúng ta cũng đang hướng lòng về quê hương Việt Nam khốn khó, về đồng bào ruột thịt của mình.”

(Trích Phỏng vấn của Võ Bá Điền, báo Sống phỏng vấn nhà văn Võ Kỳ Điền, nạn nhân của chiến dịch thư nặc danh. Tháng 9-92, Tài liệu riêng của Võ Kỳ Điền)

Cho đến bây giờ, nhiều người trong cộng đồng vẫn có tham vọng chống Tàu và cộng sản cùng lúc. Nhưng thực tế, tôi vẫn thấy họ tổ chức các bữa tiệc tại các Restaurants Tàu, vẫn du lịch sang Trung Quốc và vẫn ra vào tiệm 1$ (Un Dolllar).

Ở thập niên 90, họ đã đem lại niềm phấn khởi, một không khí đấu tranh và một tin tưởng về một tương lai Văn Học hải ngoại? Thế giá người cầm bút lúc ấy vì thế còn cao lắm.

Tôi còn nhớ, trong số báo Hợp Lưu đặc biệt có chủ đề để tưởng niệm học giả Hán-Nôm Tạ Trọng Hiệp. Bài vở đã tạm đầy đủ với nhiều cây bút có thế giá, chờ lên khuôn. Chỉ còn thiếu có bài của Nguyễn Văn Trung ở Montréal. Tòa soạn quyết định tạm chưa in, chờ bài viết của Nguyễn Văn Trung. Bài viết của Nguyễn Văn Trung viết tay, phải gửi bằng bưu điện sang Mỹ, thời gian chờ đợi trong 10 ngày. Báo đành ra trễ.

Xin ghi lại nguyên văn lời tòa soạn, số 34 tháng 4&5, 1997 như sau ở Lời tòa soạn:

“Lẽ ra số báo này không đến tay bạn đọc trễ nải như đã. Chỉ vì tòa soạn đã cố gắng – ngót mười ngày – chờ đợi bài viết dưới đây của giáo sư Nguyễn Văn Trung.

Những vị nào đã từng đọc bản thảo của giáo sư Nguyễn Văn Trung , đều hiểu là rất khó đọc (hình như khó nhất trong các tác giả viết tay), các chuyên viên đánh máy đều “chạy”, nên tòa soạn đã phải vừa đọc (đoán) vừa thực hiện công việc này.”

(Hợp Lưu, số 34, năm 1997. Bài Nguyễn Văn Trung: Tạ Trọng Hiệp, Ông Đồ gàn thời nay, trang 26)

Đó là 1997; nào có xa xôi gì!

Như thế cho thấy, tác giả viết bài còn có giá lắm chứ! Hơn 10 năm sau, Nguyễn Văn Trung ngưng cầm bút, nay sống lủi thủi ở nột góc nhà, không một bạn bè, it ai thăm hỏi. Và hoàn toàn bị rơi vào quên lãng! Phải chăng sự bỏ rơi này chỉ là luật cung cầu? Và nếu cần trách cái gì và trách ai bây giờ.

Trong số những người cầm bút hết lòng với văn học miền Nam Hải Ngoại từ 1979 kể ra thì nhiều lắm. Như một Nguyễn Mộng Giác, Cao Xuân Huy, Hoàng Khởi Phong, Bùi Vĩnh Phúc, Phạm Quốc Bảo, Võ Đình, Vũ Huy Quang, Nguyễn Bá Trạc, Trịnh Y Thư, Khánh Trường, Mai Kim Ngọc, Nguyễn Đức Lập, Trần Vũ đều xả thân với văn học với đầy thiện chí.

Nhưng tôi vẫn thấy có hai người để hết tấm lòng cho văn học miền Nam như Viên Linh và Trần Hoài Thư.

Nếu như báo Văn Học ít lắm có mặt được 16 năm mà vẫn cứ “ Xìu xìu ểnh ểnh” chết lên, chết xuống, thay mấy đời chủ bút mà dần đần số người đọc ít hơn số người viết.

Và nếu có cuốn sách nào được in ra thì đó không phải là nhu cầu của người đọc mà là nhu cầu của người viết.



Báo chợ hay những tập quảng cáo? Nguồn: DCVONline tổng hợp.

Sau này, nhiều tác giả muốn có danh đã tự bỏ tiền in sách, mời bạn bè thân hữu đến ăn uống. Khi ra về, mỗi người còn nhận một cuốn sách biếu. Đúng là vừa được ăn, vừa được gói mang về. Vấn đề là người được tặng sách có đọc hay không lại là một chuyện khác.

Đó quả thực không phải là một sinh hoạt văn học lành mạnh và thiếu một điều quan trọng là niềm tự trọng.

Trở lại báo Văn Học. Mỗi khi hết tiền để trả tiền in, tiền tem thì Trịnh Y Thư chủ nhiệm lại móc tiền túi ra trả các chi phí. Có thế nào được coi là bình thường khi từ chủ nhiệm, chủ bút đến người viết bài trong 16 năm ấy, chưa một ai nhận được tiền nhuận bút dù chỉ một lần.

Sau này viết cho một “tờ báo chợ”, chắc chắn có tiền, nhiều thì không có, nhưng rủng rỉnh thì có.

Hiện nay thì có thêm nạn “Ti vi chợ” Từ 10 năm nay, nhiều đài Tivi chợ xuất hiện mà mục đích chính là quảng cáo thương mại về các sản phẩm làm đẹp cho phụ nữ. Tệ thêm một bậc là quảng cáo đủ loại các thuốc men trị bá bệnh. Thuốc thật hay giả là chuyện của luật pháp của chính quyền Mỹ.

Nhưng tôi cảm thấy hổ thẹn thay cho một bọn người nay có danh phận đã đồng lõa một cách vô lương tâm để lừa bịp những người dân, phần đông là có lợi tức thấp.

Sự trơ trẽn của họ làm tôi không vui. Nghĩ lại thời nào họ cũng chống Cộng vung vít lắm. Sự “xuống cấp” văn học Việt Nam hải ngoại với báo chợ, tivi chợ thì theo tôi thà chúng không có.



Tivi chợ và quảng cáo. Nguồn: DCVOnline tổng hợp

Nhưng tôi vẫn thấy có hai người để hết tấm lòng cho văn học miền Nam như Viên Linh và Trần Hoài Thư.

Viên Linh là tờ Khởi Hành, một mình một chợ, chủ nhiệm kiêm chủ bút, kiêm tất cả cặm cụi suốt năm tháng với Khởi Hành.

Cuối tháng 3-2014, Viên Linh phải trải qua một cuộc giải phẫu tim thập tử nhất sinh để thay thế các “aortic valve, mitral valve và coronary valve” 31 tiếng đồng hồ sau mới tỉnh dậy, ông viết,

“Chủ trương lúc lên đường từ 1996 tới nay vẫn được tiếp tục: Khởi Hành có mặt để bảo tồn, duy trì và phát triển di sản văn học miền Nam, Văn Học Việt Nam.”

(Viên Linh, Chủ nhiệm, chủ bút Khởi Hành, số 209-210, May-July, 2014, lời mở đầu)

Có lẽ tờ Khởi Hành với Viên Linh là tờ báo có mặt lâu nhất cho đến nay nếu tính từ năm 1996.

Người thứ hai là Trần Hoài Thư. THT tự mua máy in, rồi một mình sưu tầm các tác giả là các nhà thơ trẻ có thơ trước 1975 cũng như các nhà văn trẻ mà một số ở trong quân đội, các nhóm như Sáng Tạo, v.v.. Ông đặt tên cho các tuyển tập ấy nằm trong Thư Quán Bản Thảo với nhiều chủ đề. Cặm cụi làm việc một mình, ngoài việc phải chăm sóc cho người vợ nằm liệt một chỗ, rảnh là chúi đầu vào in ấn, cắt xén và gửi bạn bè.

Trong số những tác giả lạc quan nhất về tương lai Văn học hải ngoại lúc ấy có Nguyễn Mộng Giác và Mai Kim Ngọc. Nhưng trong một số báo Văn Học, xem ra niềm tin vào sự trường tồn của văn học hải ngoại của ông Nguyễn Mộng Giác có phần lung lay. Ông đã viết một bài nhan đề“Triển vọng của văn học hải ngoại” trong đó, ở phần kết luận ông viết:

“Sinh hoạt văn nghệ di dân không còn biệt lập, dần dần yếu đi, khiêm nhường, đóng vai trò “đại lý” y như những người Thụy Sỹ gốc Pháp, gốc Ý, gốc Đức, hoặc những người Mỹ gốc Hoa ở New York, San Francisco.”

(Nguyễn Mộng Giác Văn Học, số 103, tháng 11 năm 1994, trang 39)

Người viết đông đảo với số lượng tạp chí văn học sầm uất như thuở nào với Văn, Văn Học, Thế kỷ 21 rồi Khởi Hành, Hợp Lưu, Làng Văn. Tại chỗ tôi ở, Montréal, có tờ Đi Tới và có tới ba tiệm sách.

Nhưng có một hiện tượng ngược chiều là số người đọc mỗi ngày một ít đi. Cắt nghĩa hiện tượng này thì có thể trong quá trình Hội Nhập vào bản địa từ giai đoạn: Thích ứng-Hội Nhập và Đồng hóa, có hiện tượng melting-pot. Trong đó cái đa số, số đông áp đảo cái thiểu số theo cái tinh thần rất thông tục là “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”.

Các tiệm sách thay nhau đóng cửa. Tôi cũng đã thấy có người từ khi di tản năm 1975 sang đây, chưa hề đọc một cuốn sách nào. Nhà trang trí nào đàn Piano, tủ kính đựng bát đĩa. Nhưng thiếu tủ sách, ngay đến một kệ sách cũng không có.

Trên bàn thờ, có bầy hương án, bài vị, dòng họ con quan cháu quan, các vị tổ tiên áo mũ, cân đai, thẻ bài trước ngực. Nhưng con cháu xem ra “mù chữ” theo nghĩa không đọc sách tiếng Việt.

Nhận xét như trên có vẻ sống sượng. Nhưng đó lại là sự thật.

Chỉ cần đưa ra một nhận xét rất đơn giản là: văn học hải ngoại mà chất liệu sáng tạo là quá khứ. Quá khứ kéo dài được bao lâu? Trí nhớ người cầm bút thì như mặt lõm của một ngọn đồi — nhớ nhớ quên quên. Chuyện hiện tại thì như mặt phẳng của một ngọn đồi, vừa nói xong đã quên.

Mà mất cái quá khứ thì như thể mất cái căn cước người tỵ nạn, mất chỗ trú ẩn, mất cái làm nên họ là họ.

Người giữ được quá khứ, theo tôi, không ai khác là nhà văn Xuân Vũ. Một cán bộ hồi chánh trước 1975.

Nhưng tệ hại nhất và vô cùng tệ hại là họ chuyển hóa những hoài niệm quá khứ thành lý tưởng, thành một chủ trương, một đường lối, một chỉ hướng soi đường để họ hành xử và phê phán bất cứ ai không theo họ hay nghĩ khác họ.

Tệ hại này là lớn nhất, bi kịch nhất, đã kéo dài trong nhiều năm cho đến tận bây giờ. Cộng đồng người Việt khắp nơi dần trở thành những ghetto để bêu xấu, chửi bới nhau. Họ “mềm” và dễ sai bảo đối với người dân bản địa. Nhưng họ trở thành “cứng” hung dữ đến sẵn sàng “ ăn thua đủ” chỉ vì một nhận xét, một ý kiến trái chiều. Họ là nhất, ai không theo họ là bị chụp mũ, đủ thứ mũ. Họ độc tài hơn cả những kẻ độc tài mà họ từng phải bỏ chạy.

Đã có thời thư rơi, thư nặc danh hay ngay cả thư rơi có tên người viết nhiều như bươm bướm bêu xấu đời tư, chửi bới nhau thậm tệ và không cần bằng chứng. Người chửi và người bị chửi cùng ở trong cộng đồng người tị nạn chống cộng sản.

Tìm hỏi người đã “ký tên” trong một lá thư rơi tôi được biết chỉ có một tên — người đã viết lá thư rơi — là thật, còn lại những người “ký tên” khác cũng chỉ là nạn nhân. Tôi có lá thư này do do một nạn nhân giao lại. Nội dung những lá thư nặc danh, thư rơi giả tên người viết là rác bẩn trong cộng đồng người Việt, không đáng được nhắc đến. Chúng đã tạo ra một bầu khí vẩn đục, gây sự nghi kỵ giữa những người cùng trong cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản.

Khắp nơi, cộng đồng người Việt dần trở thành những ghetto để bêu xấu, chửi bới nhau mà những người làm báo, viết văn có trách nhiệm không nhỏ.

Nghĩ tới việc người Việt chửi bới người Việt, tố cáo chụp mũ nhau thân cộng. Tôi nghĩ đến cuốn truyện của nhà văn Nguyễn Khắc Trường nhan đề “Mảnh đất lắm người nhiều ma”. Cuốn truyện cho thấy cùng trong làng xã, nhưng hai họ có mối thủ riêng, truyền hết từ đời cha dến đời con như thể không bao giờ dứt.

Phải chăng đó cũng là hoàn cảnh người Việt hải ngoại hiện nay? Tệ hại này sẽ còn kéo dài mãi cho dù nền Văn Học của hải ngoại đã khép lại.

Cái yếu tố làm cho nền văn học hải ngoại chết non, ngoài những yếu tố vừa nêu trên, còn có vấn đề nền văn học đó không có kế thừa.

Trên tờ Hợp Lưu, số 72, tháng 8-9, 2003 có dành hẳn một số báo cho các nhà văn được gọi là “Thế hệ sau chiến tranh” với các bài viết Đỗ Lê Anh Đào, Thơ Thơ, Quang Thanh, Nguyễn Hương, Bùi Hoằng Vị, Lê Quỳnh Mai, Bảo Phi, Nguyễn Việt Hà, Trần Tiến Dũng, Phan Huyền Thư, Đinh Linh, Phạm Thị Ngọc, Thận Nhiên, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Nguyễn Quốc Chánh, Đình Trường Chinh, Nguyễn Thanh Hùng Tylur, Thu Hiền ngô, Trần Tiễn cao Đăng, Đông Triều, Nguyễn Danh Bằng, Nguyễn Nam Trân, v.v..

Lúc đó các nhà văn trẻ trên dưới 40 tuổi trên không bị triệu chứng hậu chiến tranh, lại có trình độ, đủ mọi điều kiện vật chất.

Nghĩa là họ hội đủ các yếu tố khách quan để thành danh trớ thành những nhà văn như lớp kế thừa. Vậy mà họ dần dần buông bứt. Nhiều người chỉ vỏn vện có vài truyện ngắn rồi im bặt. Và tôi tự hỏi, bây giờ họ ở đâu?

Sau đó, tôi có viết trên Tờ Hợp Lưu, lúc bấy giờ người chủ bút là anh Trần Vũ, yêu cầu viết để khuyến khích các cây viết trẻ như: Đỗ Hoàng Diệu, Miêng, Mai Ninh, Trần Vũ, Nguyễn Thị Thanh Bình, Lê Thị Thấm Vân, Nguyễn Bình Phương và rất nhiều nhà văn trẻ khác.

Những nhà văn trẻ trên dưới 40 tuổi này liệu họ làm được gì? Kỳ vọng gì vào họ?

Theo tôi, họ thường viết cho họ thay vì nghĩ đến chuyện kế thừa hay nghĩ tới chuyện thay thế ai?

Một nhận xét rất khác thường là họ cầm bút khá muộn và tính đến nay thì họ đã trên 60 tuổi! Tính đến năm 1995 thì Đặng Thơ Thơ sinh năm 1962, Hoàng Mai Đạt, 1960, Lê Thị Thấm Vân 1961, Lê Minh Hà 1962, Lê Thị Huệ 1953, Nguyễn Thị Ngọc Lan 1957, Nguyễn Ý Thuần 1953, Phan Thị Trọng Tuyến 1951, Trần Vũ 1962.

Nhận xét chung của tôi về họ là họ không còn viết như trước nữa.

Và cho đến hôm nay, không mấy người trong số họ tạo được một thế giá văn học.

Nhưng khi Trần Vũ ra đi khỏi Hợp Lưu thì như có một sự tan rã khó cắt nghĩa. Các nhà văn trẻ tứ tán mỗi người một nơi trên Web điện tử như Da màu, Gio-o.com. Theo tôi, cho đến nay, ít người nào có được tiếng tăm theo kiểu một Võ Phiến, Mai Thảo, Nguyên Sa. Ngay cả trường hợp Trần Vũ mà tôi trân trọng, quý mến.

Có thể nói, cái thời của một miền Nam Việt Nam trước 1975 với bao hào quang và vinh dự đã không bao giờ trở lại nữa. Vâng không bao giờ.

Những người còn ở lại sống vất vưởng và bị bỏ quên một cách rất vô tình trước sự bạc bẽo của tình người.

Họ không hẹn mà ra đi không kèn không trống.

Chỉ trong tháng 10-2017, nhà thơ kiêm nghệ sĩ thổi sáo Tô Kiều Ngân ra đi. Còn mấy ai nhớ đến Chương trình Tao Đàn của thi sĩ Đinh Hùng.

Rồi học giả Lê Hữu Mục, một nhà Hán Nôm, đồng thời là tác giả cuốn: Tác giả Ngục Trung Nhật Ký không phải của Hồ Chí Minh cũng lặng lẽ ra đi

Rồi đến lượt Lê Phụng. Và mới đây nhất đến lượt ông Trần Thiện Đạo, ở Pháp ra đi ngày 25-11. Trước 1975, ông là nhà dịch thuật các tác phẩm của các triết gia Hiện sinh như các dịch giả khác như Vũ Đình Lưu, Trần Phong Giao, Trần Thiện Đạo, Nguyễn Minh Hoàng, Bùi Ngọc Dung, Võ Lang, Lê Thanh Hoàng Dân, Mai Vi Phúc, Phùng Thăng, Dương Kiềnvv..

Nhìn lại ngày hôm nay, số lượng các nhà văn nhà thơ trước 1975 còn lại bao nhiêu? Nguyễn Văn Trung, Trần Ngọc Ninh, Nguyễn Đình Toàn hầu như đã vắng mặt. Những người khác như nhà thơ Viên Linh, nhà văn Trần Hoài Thư kể như suốt những năm ở Hải ngoại miệt mài với chữ nghĩa… với sưu tầm với nhiều tâm huyết. Những người còn lại như thi sĩ Cung Trầm Tưởng, Du Tử Lê thỉnh thoảng xuất hiện. Những nhạc sĩ như Phạm Mạnh Cương, Lê Dinh là những nhạc sĩ nằm trong danh sách chót còn sót lại.

Trong khi đó không có người kế thừa chỗ của những kẻ đã ra đi. Ghế trống mỗi ngày một nhiều không ai ngồi thay thế. Ai có thể thay thế được những người ấy?


Requiem in Pacis cho nền Văn Học Miền Nam đã một thời sáng chói và nay đã tắt.. Nguồn: DCVOnline

Requiem in Pacis cho nền Văn Học Miền Nam đã một thời sáng chói và nay đã tắt.