TS Hoàng Sỹ Quý. SJ
Một tạo thế quan mới cho những giải đáp sinh đức
Từ
mấy thập kỷ nay, những khám phá mới về sinh học đã gây cám dỗ Thủ biến
con người (manipulation de l’homme), nhất là nhân bản (cloning, clonage)
nó, do đó đặt ra bao vấn đề gay cấn về Sinh đức hay đạo đức sinh học
(bioethics). Từ bấy đến nay, các nhà luân lý thần học vẫn vò đầu suy
nghĩ, nhưng với những quan niệm quá cũ về tạo thế và bản tính con
người, liệu họ có ứng phó nổi với những phát minh quá mới, hòng đưa ra
những giải đáp đủ sức thuyết phục hay không?
Khám phá về nền tảng sự sống và những viễn ảnh y tế mở ra
Những
viên gạch làm nên ngôi nhà sự sống là các acid amin, rồi acid nucleic.
Do sự trùng kết (polymérisation) của các acid amin mà ta có những đại
phân tử protein. Mà acid amin, người ta đã có thể tạo nó trong phòng thí
nghiệm. Còn cách trùng kết, người ta cũng biết rồi. Acid nucleic thì
khó hơn, nhưng chắc rồi cũng tìm ra cách chế tạo thôi, có điều từ đó làm
nên các ARN, nhất là phức hợp tinh tế các chuỗi xoắn ADN (cùng với sự
kết nối và trình tự của bốn chất kiềm làm nên mã số di truyền) là công
việc quá nhiêu khê, tỉ mỉ. Ngoài ra,người ta cũng mới phát hiện tế bào
gốc (stemcells, cellules souches), tế bào mà, tùy môi trường nuôi cấy,
khoa học có thể làm nên mọi loại tế bào cho mọi loại mô, cơ quan, thậm
chí cả tế bào phôi, từ đó tạo thành cả một cơ thể.
Tế
bào gốc đã được phát hiện ngay từ năm 1981, nhưng ở chuột cơ. Và cơn
sốt Tế bào gốc chỉ thực sự bốc cao trước thềm năm 2000 khi các ống kính
khoa học hướng về nó nơi con người.
Tế
bào gốc trước hết là của trứng thụ tinh. Từ 1 tới 5 ngày, nó sinh sôi
thành mấy chục, và trong giai đoạn đầu ấy, chúng là toàn năng
(totipotent), nghĩa là, nếu cứ thế phát triển, sẽ làm nên toàn bộ một cơ
thể. Sau ngày thứ năm, trứng hõm lại thành túi phôi (blastocyste), với
một đầu là núm phôi, để từ đấy, tùy vị trí trong phôi mà các tế bào
chuyên biệt hóa hướng phát triển (hướng về một số mô và cơ quan nhất
định), và đây là trạng thái đa năng (pluripotent) của chúng.
Một
cơ thể dù trưởng thành vẫn còn những tế bào gốc, vì một tế bào gốc, để
thành tế bào chuyên loại, luôn phân thành hai, trong đó chỉ có một tế
bào dự chuyên (précurseur), còn tế bào kia là tế bào gốc mới. Tế bào gốc
này, nếu cấy nuôi vào một mô, cơ quan thích hợp (như tim), có thể sinh
ra những tế bào thuộc mô hay cơ quan ấy. Nếu lấy ra nuôi cấy trong một
môi trường, thì tùy môi trường mà sinh ra những loại tế bào chuyên biệt
khác nhau. Cũng thế nếu cấy vô một phôi, thì tùy vị trí trong phôi mà
sinh ra một số dạng tế bào nhất định.[1]
Những
phát minh nói trên mở ra biết bao triển vọng về mặt y khoa. Người ta có
thể thay thế hay sửa chữa những gen nào là nguồn gốc một căn bệnh.
Người ta có thể sản sinh máu tốt từ tế bào gốc người bệnh để thay thế
máu cũ. Người ta có thể nâng cấp di truyền của một người, nhờ đó người
này và con cháu họ có thể khỏe hơn, miễn nhiễm hơn hay thông minh hơn.
Người ta có thể tạo ra phiên bản của những con người tuyệt thế như
Einstein, Ali, Pelé…
Thế nhưng. . .
Những vấn đề đạo đức đặt ra
Việc
thiết lập bản đồ gen và phát hiện tế bào gốc, cùng với những triển vọng
mở ra, đặt con người trước những vấn đề đạo đức chưa từng có. Người ta
đang tạo ra những chú heo mang gen người để dùng tim, thận… của nó thay
ghép cho con người. Người ta cũng muốn tạo những con chuột mang não
người “để xem sao” nữa. Sự cao quý của con người như đang bị xói mòn
dần! Vì mục đích trị liệu, trước đây người ta chỉ lập hồ sơ nhóm máu của
anh thôi, chứ nay thì luôn cả hệ gen (génome). Mà tình trạng di truyền
này nếu lộ ra sẽ gây những hậu quả xã hội rất nghiêm trọng : một người
nào đó sẽ bị các hãng bảo hiểm chê, cũng như không thể tìm được việc làm
cho mình. . .
Sự
việc càng trở nên gay cấn khi, lợi dụng những phát minh di truyền, y sĩ
muốn nâng cấp (enhance) một cơ thể, đồng thời nâng cấp cơ thể những ai
sẽ sinh ra từ người ấy. Và đây là vấn đề ưu sinh (eugénics), là sửa chữa
hay biến chế gốc, mầm:
a.
Cất giữ tinh trùng và trứng trong ngân hàng băng lạnh, để sau này khi
cần, sẽ mang ra chọn, vứt bỏ cái xấu, lựa lấy cái tốt, chỉnh sửa nếu
muốn, rồi cho trứng và tinh trùng phối hợp, xong nuôi ngoại môi (in
vitro), rồi đưa vô một dạ con.
b.
Với một phụ nữ đang mang bầu: lấy phôi ra ngoài, loại bỏ nếu bất bình
thường, còn không thì chỉnh sửa, nuôi ngoại môi, rồi trả về bụng mẹ.
Đáng
sợ hơn nữa khi người ta muốn tạo mới hẳn một con ngườí! Chế tạo với kỹ
thuật đã phát minh mới đây: Nhân bản (cloning, clonage):
Nhân
bản xưa chỉ là phân trứng (thụ tinh) thành hai để có hai đứa song sinh y
hệt nhau (con do một cặp nam nữ). Nhân bản nay là nạo vét nhân một noãn
bào (ovocyte, tế bào trong noãn), rồi đưa nhân (ADN) một tế bào vào
thay thế, và thế là phiên bản của người này được tạo ra, như chú cừu
Dolly vậy.
Với
cách nhân bản như thế, bác sỹ có thể sáng tạo mọi thứ người theo đơn
đặt hàng. Đặt hàng, có thể đây là những cặp vợ chồng vô sinh. Mà cũng có
thể là những trùm độc tài hay trùm mafia, khủng bố, muốn có dưới trướng
những nhà khoa học tối thông minh để chế tạo khí giới, và những đội
quân vô cùng khỏe giúp chúng bá chủ hoàn cầu. Con người không còn là mục
đích nữa, nó thành món hàng và công cụ mất rồí!
Trước những triển vọng sinh học đáng sợ như thế, thần học luân lý đã đối phó ra sao cho tới nay?
Những giải đáp cho tới nay của thần học luân lý[2]
Thần
học luôn nhấn vào quyền tối thượng của Thiên chúa đối với thiên nhiên,
đặc biệt đối với con người “được dựng nên theo hình ảnh Thiên chúa”.
Thần học cũng dựa vào Sáng thế thư (1.28 và 2.15) mà xác lập quyền quản
lý (stewardship) của con người đối với trái đất. Vậy nếu chỉ động chạm
đến thân thể mình để sửa chữa những khiếm khuyết, dù bằng liệu pháp gen,
thì cũng không có gì đáng nói, miễn là tất cả thực hiện trong tinh thần
cẩn trọng, trách nhiệm cao. Chứ nếu di chuyển, biến đổi các gen với mục
đích ưu sinh, như cho một thiếu niên cao lớn hơn, một công nhân kháng
được những khí độc khi hành nghề, thì đây lại là chuyện lớn, bởi động
chạm đến cấu trúc con người và biến đổi cả một dòng họ. Con người không
còn là quản lý nữa: xem ra nó đã vi phạm quyền tối thượng của Thiên Chúa
và tính thánh thiêng của thiên nhiên, nhất là của con người.
Để
giải quyết vấn đề, một số nhà thần học muốn nâng cao vị thế và vai trò
của con người: con người không chỉ là quản lý, mà còn là đồng sáng tạo
(cocreator) của Thiên chúa! Vâng, con người chẳng hề “cướp quyền Tạo
hóa” bởi lẽ Tạo hóa thì sáng tạo từ hư không, trong khi con người chỉ
làm việc với những gì đã có, chỉ hoàn thiện những gì Thiên chúa đã làm
nên thôi. Và đây là nhìn vũ trụ như một cái gì chưa hoàn tất và coi tạo
thế là một sáng tạo liên tục, hướng về sự hoàn tất của thế giới ở điểm
cánh chung.
Thuộc
Dothái-Kytôgiáo có ba thứ cánh chung quan: (A) Cánh chung quan khải
huyền (apocalyptic) với tận thế-hướng: một cái nhìn yếm thế về lịch sử;
(B) Cánh chung quan hướng đích (teleological) coi thế giới như đang phát
triển về phía hoàn thiện của nó ở điểm cánh chung; (C) Cánh chung quan
sấm báo (prophetic) hướng về một tương lai tốt đẹp cho thế giới này.
Những
người theo cánh chung quan A đòi chúng ta phải tôn trọng ý định của
Thiên Chúa đang dẫn đưa thế giới đến cáo chung, mà đừng can thiệp dù để
nâng cấp hay cứu vãn loài người. Còn những ai theo hai cánh chung quan
dưới thì chấp nhận một sự can thiệp có giới hạn vào hệ di truyền. Theo
K. Rahner, chúng ta được Thiên Chúa trao trọng trách hoàn tất công việc
của Ngài. Cả vũ trụ lẫn lịch sử đều chưa tới bến, và việc của loài người
là, bằng tự do và trong tư thế đồng sáng tạo của Thiên chúa, phải thủ
biến (manipuler) thiên nhiên, thậm chí thủ biến chính mình. Có điều thủ
biến đến đâu và thế nào hẳn phải là chuyện khác.
Trước
hềt, phải xem thiên nhiên là cái gì trong tay chúng ta. Phải chăng
chúng chỉ là phương tiện suông, tùy ý ta sử dụng, nên cũng tùy ý ta biến
đổi? Biến đổi ngay chính thân xác này vốn được nhiều người coi như
riêng rẽ và lệ thuộc tinh thần? Thật ra, cũng có quan điểm coi thiên
nhiên đã được sáng tạo hoàn tất như thế, một thiên nhiên thánh thiêng mà
ta phải tôn trọng, không được thêm bớt chi vô cả. Đối với thứ thiên
nhiên này, chúng ta chỉ đóng vai trò quản lý thôi. Quản lý luôn đối với
thân xác của mình. Thế nhưng cũng có một chủ trương nữa, rằng thiên
nhiên chưa hoàn tất và mãi trong tiến hóa theo quy định, nhưng một quy
định không cứng nhắc; và con người là một thực tại duy nhất với cả thể
xác lẫn tinh thần, với thiên nhiên thì nó có thể nhào nặn để thể hiện
chính mình, chứ đối với thân xác thì nó không thể thủ biến tới mức mầm
và gen.
Xem
như thế, phần đông coi việc trị liệu dù bằng liệu pháp gen là điều khả
thi, chứ nếu nâng cấp (enhance) bằng cách biến đổi hệ gen , thì hầu hết
chống lại. Nói chi đến tạo mới cả một cơ thể bằng cloning, nhưng đâu
phải chỉ một cơ thể, mà một con người, và đây còn là ép tạo ra một linh
hồn “từ hư vô” nữa. Một đôi người chấp nhận cloning, thì coi đây không
phải là tạo từ hư vô, mà “sinh sản có trợ giúp” (assisted reproduction)
thôi. Họ nghĩ rằng không thể tán thành cloning con người, nhưng chấp
nhận thì được. Dù sao, chứng lý thần học của họ xem ra cũng không đủ sức
thuyết phục.
Một tạo thế quan mới để giải quyết những vần đề sinh đức
Người
xưa, kể cả tác giả Sáng thế thư, luôn cho rằng tạo ra các loài sinh
vật, Hóa công đã tạo chúng trực tiếp, hết loài này đến loài kia riêng
biệt. Nhưng rồi khoa học đã cho thấy điều ngược lại: các sinh vật đã
tiến hóa từ loài này sang loài kia, kể cả loài người nữa. Ngay đến sự
sống cũng từ khoáng chất phát sinh đấy thôi.
Bắt
chước môi trường quanh các vì sao mới (với sự bắn phá dữ dội của các
hạt cơ bản và sự có mặt của một vài khoáng chất cần), người ta đã tạo ra
được trong phòng thí nghiệm những viên gạch thứ nhất của sự sống : các
acid amin, mà với phương pháp trùng kết (polymerisation) sẽ làm nên các
đại phân tử protein. Và chắc là mai ngày rồi khoa học cũng có thể chế
những acid nucleic, từ đó làm nên các chuỗi xoắn ADN nữa.
Nếu
ngày xưa, người ta nghĩ Hóa công phải nhào nặn từng loài một, thì ngày
nay, văn minh hơn, người ta biến Ngài thành kỹ sư, dựa vào quy luật mà
làm nên tất cả. Giống như Dêmiourgos (Hóa công) của Platon, chỉ cần
đẩy cái đầu tiên, để vũ trụ tự đẩy tiếp mà sinh sinh hóa hóa. Và như
thế, Ngài chỉ là nguyên nhân tác thành đàu hay Primum movens. Có điều,
muốn hưởng hiệu quả, Ngài đã phải đặt nguyên nhân, y như chúng ta muốn
ăn thì phải đi chợ và nấu nướng. Để rồi hôm nay, nếu có ai mang ADN vô
noãn bào vét rỗng nhân mà cloning, thì kẻ đó tưởng mình thay thế Thiên
Chúa, còn người khác lại kêu là hắn tiếm quyền Ngài, “dỡn mặt”
(playing) Ngài.
Thế
nhưng hướng đi mới của khoa học vĩ mô lại coi tạo thế không phải bằng
đun đẩy từ sau với những nguyên nhân, mà hút về phía trước thành một
tiến hóa. Mà tiến thì phải nhắm một cái đích, dù nhắm đích thì người hữu
thần cho là Thiên Chúa, còn người vô thần lại bảo là thiên nhiên: Thiên
nhiên có mắt, tự nó huớng về và tìm đường để tiến về. Chủ thuyết Tiến
hoá đã khởi đầu trên bình diện sinh học với những tên tuổi lớn như
Lamarck và Darwin. Và nó tiếp tục trên bình diện khoáng chất với thuyết
vật lý Bigbang mà nay tới trên 90% khoa học gia công nhận.
Năm
1929, E. Hubble phát hiện các thiên hà ngày càng xa giải Ngân hà của
chúng ta, từ đó ông nhận định: vũ trụ đang dãn nở! Căn cứ vào đà dãn nở
hiện nay mà ngược dòng về điểm khởi đầu, hẳn ta phải nhìn nhận rằng : ở
thời điểm 0 ấy, vũ trụ co hẹp đến số 0. Một vũ trụ lớn như hiện nay với
toàn bộ vật chất, do đó toàn bộ khối lượng (mass), chứa trong đó ( với
khối lượng cũng là năng lượng qua công thức E=mc2 ), mà nén
tới 0, thì tưởng tượng xem sức nén sẽ kinh khủng mức nào! Hậu quả do đó
phải là một vụ nổ (văng ra) cực lớn, tức Big-bang, từ đó một dãn nở đến
vô tận. Theo đà dãn nở mà nhiệt độ nguội dần, nhờ thế năng lượng tụ kết
thành những loại hạt tối cơ bản trong đó có electron, có các quarks
chúng sẽ họp thành những proton và neutron để làm nên các hạt nhân với
các electron đến xoay quanh mà hình thành nguyên tử, kế đó nguyên tử tụ
thành phân tử, những viên gạch xây nên thế giới khoáng chất. Sự sống
cũng bắt đầu từ đấy với mấy loại phân tử tối đặc biệt trong một môi
trường cũng đặc biệt nốt.
Vũ
trụ đã dãn nở rất nhanh từ 15 tỷ năm nay, và nếu nó cứ thế tiếp tục thì
cái gì sẽ xảy ra mai ngày? Phần đông theo lý thuyết Einstein, cho rằng,
do nguyên lý vạn vật hấp dẫn, vũ trụ luôn bị hút vào trung tâm để làm
nên một vũ trụ cong, hình cầu, cuối cùng sẽ đổ sập vào giữa thành một
Sập lớn, tức Big-crunch. Có điều, với những phát hiện mới đây về tình
trạng bức xạ nền (rayonnement de fond) do hai khinh khí cầu Boomerang và
Maxima (của cơ quan không gian châu Âu), cũng là bức xạ hóa thạch
(rayonnement fossile, hình thành từ năm 300.000 sau Bigbang), thì có lẽ
vũ trụ không cong, mà phẳng (bôi bác, chiffonné), do đó không có Sập-
lớn. Cũng có giả thuyết cho rằng các Bigbang và Bigcrunch nối tiếp nhau
không ngưng để làm nên nhiều tạo thế và nhiều tận thế. Người khác lại
tưởng tượng ra nhiều thế giới song song (với những Bigbang và Bigcrunch
song hành), và nhiều thế giới khác hẳn thế giới của chúng ta, thậm chí
thế giới trên mười chiều.[3]
Dù
với sơ đồ tạo thế như thế nào, tạo thế chắc chắn là bằng một tiến hóa.
Chẳng những tiến hóa trong nội bộ sự sống và nội bộ khoáng chất, mà còn
tiến hóa từ bên này sang bên kia nữa. Để có tiến hóa này, thì ngay
trong giai đoạn khoáng, đã phải có một phối hợp tuyệt vời giữa bốn lực
cơ bản và mấy hằng số với nhau. Giả như hằng số hấp dẫn lớn hay nhỏ quá,
thì hoặc các vì sao co hẹp nhanh đến nỗi vật chất không kịp phức tạp
hóa đủ, hoặc các thiên thể không chịu suy sụp để các vì sao hình thành,
và nơi vì sao các nguyên tố nặng. Và cũng thế nếu lực hạt nhân không đủ
mạnh để cố kết proton và các neutron lại mà làm nên hạt nhân, thì sẽ
không có nguyên tử, phân tử và sự sống . . . Tất cả phải đúng mức và sự
phối trí phải vô cùng tinh tế, đến nỗi một nhà vật lý thiên văn không
Kytô-giáo như Trịnh xuân Thuận cũng phải ngỡ ngàng trước tài thiện xạ
của Hóa công. Vâng, từ điểm 0 Ngài đã nhắm bắn cái hồng tâm 1cm (là Con
người) ở khoảng cách vô tận là 15 tỷ năm ánh sáng, mà chỉ một phát trúng
phóc ngay.
_
Theo
tôi, thì không phải Thiên Chúa đứng từ điểm đầu mà bắn, nhưng ở điểm
cuối mà hút. Vâng, Thiên chúa là Tinh thần, mà tinh thần thì làm gì cũng
vì một mục đích mà làm. Ngay thứ tinh thần pha tạp (pha với vật chất)
là con người đây cũng đã vậy rồi. Quả thế, không phải vì sẵn nhà mà tôi
ở, vì sẵn gạch và thợ nên có nhà; nhưng vì nhắm ở mà tôi xây nhà, vì
muốn có nhà mà tôi tìm kiến trúc sư thiết kế, tìm xi măng và gạch để
mua, tìm cai thầu và thợ để kiến thiết. Vâng, tôi luôn nhắm đích trước
rồi mới đặt nguyên nhân: nghĩa là mục đích quyết định nguyên nhân!
Nếu
con người không thể đạt mục đích nếu không có nguyên nhân, thì Thiên
chúa vốn là Tinh thần thuần túy và tuyệt đối hẳn không cần nguyên nhân,
do đó việc Ngài làm bao giờ cũng là phép lạ, nghĩa là thấy sự kiện mà
không thấy nguyên nhân của sự kiện, hay ít là thấy nguyên nhân không
tương xứng với sự kiện: và đây gọi là “bước nhảy vọt” ở mỗi giai đoạn
tiến hóa.
Thật
ra, nếu muốn có con người, Thiên Chúa chỉ cần “phán”, tức muốn hay
nhắm, là có ngay thôi. Nhưng Thiên Chúa đã chọn con đường dài, đã muốn
sử dụng đến nguyên nhân, nên mới có tiến hóa. Tiến hóa thì không phải là
biến hóa suông. Với biến hóa, không có Tiến, cũng chẳng có Hướng tiến.
Bằng như có Tiến và Hướng tiến, thì phải có nhắm trước và có nhảy vọt,
do đó một mình nguyên nhân không thể giải thích hết hiệu quả: “Không ai
cho cái mà mình không có”. Cái còn thiếu cho giải thích, đó là phép lạ
vậy.
Nói
cho rõ hơn, tạo thế bằng con đường dài là tiến hóa, Thiên chúa đã nhắm
cái đích CON NGƯỜI, và lập tức từ phía đối diện xuất hiện cái Lượng tử
ban sơ (Quantum initial) cùng với sức mạnh và những khả thể tiềm tàng
trong đó. Để rồi sau Bigbang, cái gốc Energy-mass (Năng luợng-khối
lượng) ấy, với tất cả sự năng động của nó do sự Nhắm đích (của Thiên
chúa) đã hằn ghi thành Hướng đích (ở vật chất), sẽ tự dò đường tìm lối
cho mình. Mỗi khi tìm ra lối đi hướng về phía đích, nó liền để Vết lại,
và đây là quy luật, một thứ “tập quán” mà mọi thành phần vật chất sau đó
cứ thế mà làm, mà “lặp lại” (répétition). Vâng, Thiên Chúa không “tuân
theo” quy luật, khi mà quy luật được tạo ra do thiên nhiên dưới áp lực
của hướng nhắm mà Thiên Chúa đặt vô nó.[4]
_
Quan
niệm Tạo thế do nhắm đích này, chẳng những giải thích được Tiến hóa, mà
còn bảo vệ được mặt thiêng liêng của con người dù vẫn nhìn nhận nó hóa
sinh từ khỉ. Quả thế, nếu nhìn nhận có Nhảy vọt và Phép lạ ở mỗi giai
đoạn tiến hóa, thì nguyên nhân không giải thích được hết hiệu quả, con
khỉ không giải thích được hết con người. Cho nên không phải là khỉ đẻ ra
người, mà khỉ chỉ là một công cụ và mắt xích qua đó và nhờ đó Thiên
Chúa tạo con người bắt đầu từ Quantum sơ thủy. Vâng, nếu bảo Thiên Chúa
nhắm con người qua Quantum sơ thủy, rồi qua con khỉ, thì phải nhìn nhận
rằng, chỉ vì con người nên mới có con khỉ kia. Thế nghĩa là không phải
Do khỉ mà có người, nhưng ngược lại Do người mà có khỉ. Và thế là, thay
vì giải thích bằng nguyên nhân tác thành, sâu xa hơn , chúng ta đã giải
thích tất cả bằng mục đích. Mà giải thích bằng mục đích mới là giải
thích phù hợp với tinh thần là chúng ta, phù hợp với tạo thế nó là tác
phẩm của Tinh thần thuần túy là Thiên Chúa.
Nếu
không phải con khỉ sinh ra con người, thì càng không phải nhà khoa học
Tạo ra con người bằng cloning. Việc làm của ông ta chỉ là tuân theo một
quy luật và đặt ra một nguyên nhân, để rồi hướng đi của thiên nhiên,
cũng là đích nhắm của Thiên Chúa, sẽ làm nốt phần còn lại, nghĩa là tạo
ra con người ấy. Việc cloning con người do đó hẳn không còn tính “động
trời” nữa, và chắc do đó cũng không mấy hấp dẫn đối với những kẻ muốn
“dỡn mặt Thiên Chúa” hay “cướp quyền Tạo hóa”.
Cái
nhìn Tạo thế bằng Nhắm đích qua Tiến hóa ấy cũng bảo vệ được nhất tính
của con người. Con người không phải là xác riêng hồn riêng, mà do đó
Thiên Chúa phải chờ một cái xác sinh ra để tạo một linh hồn đút vô, hay
tạo sẵn một linh hồn nơi mầm (trứng thụ tinh hay phôi non) một thể xác
chưa thành hình. Nhìn cái phôi non -thậm chí cái trứng mới thụ tinh-
như một con người (khi chưa có gì của một thể xác người), là cách nhìn
nhị nguyên như thế đấy. Bảo rằng cái phôi non hay trứng thụ tinh đã có
linh hồn (dù chưa có xác người để được sống động hóa bởi nó), thì cũng
bằng như coi con khỉ xưa, hay mớ vật chất nay sẽ làm nên xác một người,
coi chúng đã có linh hồn đợi sẵn đấy rồi, để khi xác người thành hình,
là hồn sẵn đó sẽ hoạt động.
Nhiều
thần học gia coi cái phôi đã là người như thế, trong khi phần lớn khoa
học gia lại coi cái thai trên ba tháng mới là người. Theo tôi, thì bởi
hồn từ não và hệ thần kinh mà hoạt hóa thân xác, nên khi não và hệ thần
kinh đã hoàn chỉnh, thì phôi có thể thành người nơi cái đầu tầu ấy rồi.
Cho nên không cần chờ đến ba tháng, mà chỉ chín tuần, thậm chí sáu tuần
rưỡi (lúc đầu và mình đã thấy rõ). Vâng, khi cơ thể phát triển vừa tới
đó, thì do hướng đích đã tiềm sẵn trong vật chất và sự sống, có Nhảy vọt
nó làm nên con người[5].
Có điều, vì phôi non hay trứng thụ tinh kia đang trên đà trực tiếp
thành ngưới, nên do hướng đích trực tiếp thành người này, mà nó phải
được kính trọng đặc biệt[6].
_
Chính
vì vai trò khoa học gia trong Enhancement hay Cloning không còn lớn lao
nữa, nên con người có thể thủ biến chính mình bằng Nâng cấp và Cloning
mà không lo “Cướp quyền Tạo hóa” hay “Dỡn mặt Thiên Chúa”. Thế nhưng
tính thánh thiêng của thiên nhiên, nhất là của bản tính tự nhiên con
người, lại được gia tăng khi mà hướng nhắm hay ý định của Thiên chúa đã
hằn ghi trên đó, khiến đụng tới đó cũng là chạm tới thánh ý Ngài rồi[7]. Có điều thánh ý Ngài là gì thì lại là vấn đề khác.
Xem
ra ý Thiên Chúa là để con người làm đồng sáng tạo để hoàn chỉnh thế
giới này, vì thế giới được làm nên vì con người, khi mà con người được
làm nên vì mình và vì Thiên Chúa. Chính hai cái Vì này vừa mở cửa cho
chúng ta thủ biến, vừa giới hạn sự thủ biến luôn. Giới hạn trong khuôn
khổ đích nhắm của Thiên Chúa. Nghĩa là chúng ta có thể thủ biến thiên
nhiên sao cho nó hoàn hảo hơn (trong hướng đi đã nhắm) để phụng sự tác
giả chính và mục đích chính của nó là Thiên Chúa, phục vụ đồng tác giả
và đồng mục đích của nó là con người. Nhưng mà không được đi trệch hướng
tiến hóa, cũng là hướng nhắm đầu của Thiên Chúa, nghĩa là đổi thay bản
tính thực tại nói chung. Đổi thay bản tính một hai sinh vật thì không
đáng chuyện chi, bởi chúng không có mục đích ở nơi chúng, vì mục đích
của chúng là thiên nhiên nói chung, rồi con người. Chứ đổi thay bản tính
con người, -mà thân thể cũng thuộc bản tính này- là điều không thể.
Vâng, con người không phải là sự vật hay công cụ. mà là mục đích: không
chỉ là mục đích của thiên nhiên, con người còn là mục đích của chính
mình nữa. Dù lấy mình ra mà thí nghiệm, thủ biến, thì cũng là lấy mình
làm phương tiện và trò chơi của mình rồi. Nên chỉ trong trường hợp tối
cần thiết, con người mới được động chạm tới mình ở mức “bản”(gốc) như
ADN,ở mức mầm trong cloning.
Ngoài tính thánh thiêng của thiên nhiên, nhất là của bản tính người, còn lý do nguy hiểm
nữa. Để tiến tới cấu trúc của sự sống, nhất là của gen người như hiện
nay, theo tiếng gọi và nhắm đích của Thiên Chúa, thiên nhiên đã phải
vạch lối tìm đường suốt nhiều tỷ năm nay mới lần ra, thì việc tái cấu
trúc hệ di truyền vội vã, khi ngàn vạn ngõ ngách bí hiểm của nó không dễ
gì thông suốt, liệu có quá liều lĩnh, dễ gây những quái biến không cách
cứu vãn hay không? Chúng ta từng đã làm hư nhiều cái, trong đó có môi
trường, mà không biết bao giờ mới chỉnh sửa được. Một mạo hiểm nữa mà
hỏng có thể là nấm mồ chôn cả giống người chúng ta đấy.
May
mà ngày nay, phong trào sinh thái đang đưa con người trở lại với lòng
kính cẩn đối với thiên nhiên. Mà trong thiên nhiên, không gì đáng quý
hơn sự sống. Nhìn từ bên ngoài, thì sự sống của cây cỏ và chim muông
chẳng có gì khác lạ đối với sự sống chúng ta cả. Nên tôn trọng sự sống
nói chung cũng khiến người ta quý trọng sự sống của con người. Vâng, một
kẻ quen đổ máu con chim con sóc hẳn cũng không mấy ghê tay khi đổ máu
đồng loại của mình, trừ khi lo tù tội. Vậy trong tinh thần, hãy trở về
với đức hiếu sinh của Phương đông được thể hiện ở luật Ahimsâ (giới sát)
của Ấn độ và nhận định của Khổng giáo :”Thiên địa đại đức viết Sinh”
(Đức (sức mạnh) lớn của trời đất là Sinh”.
Đối
với thiên nhiên, không nên quá theo Sáng thế thư mà coi mình chỉ là Chủ
(1.26,28) thôi, nhưng theo Phaolô mà coi nó là bạn đồng hành
(Rom.8.19-22) nữa. Vả lại chăm lo cho thiên nhiên cũng là bảo vệ chính
mình đó. Hơn thế, lòng tôn kính đối với con người chỉ dễ duy trì khi
được lồng vào trong niềm tôn trọng đối với thiên nhiên.
Trong
khi phần đông chưa đủ lòng tôn kính đối với sự sống và vẫn muốn làm loé
mắt thế giới khi chế biến “chơi” những con người, thì luật pháp các
nước cần vào cuộc. Trong những trường hợp đặc biệt và với những nhóm
người có tinh thần trách nhiệm cao, luật pháp có thể cho phép nâng cấp,
thậm chí cloning người đôi khi, cho phép cấy nuôi các cơ quan hay nuôi
súc vật mang gen người vì những mục đích thuần túy nhân đạo. Vâng, chỉ e
loài người còn đấy mà con người (tức con người như một phẩm giá) không
còn nữa!
[1] Xx. Science et vie, Nov. 2001, tr.82-99.
[2] Xx. Theological studies, th. ba/1999: bài của J-J. Walter ( tr.124-134) và của Th-A. Shannon (tr.111-123); tác phẩm tập biên Moral issues and christian responses, Harcourt Brace College Publishers, 6th
edition,1998, bài của J-J. Walter (tr. 345tt.) và của W-F. Anderson
(tr.353tt.), Ted Peters (tr.358tt.) và Allen Verbey (tr.364tt.).
[3] Xx. Science et vie th.4/1992, tr.30tt.; th.6/2000,tr.77-88; th.11/2000. . .
[4] Tạo thế quan bằng đích nhắm này, tôi đã trình bày trong bài “Với khoa học mới, cần đổi mới nhiều quan niệm triết-thần”, HTTH, Paris, số 23, tr.75-99.
[5] Cũng như xưa, từ phôi của một vài tinh tinh đột biến đã nở sinh mấy con người đầu tiên.
[6] Do đó không thể phá bỏ khi không có lý do tối quan trọng.
[7]
Nếu hướng nhắm của Thiên Chúa đã hằn ghi nơi thiên nhiên, thì hướng
tiến của thiên nhiên cũng là một với hướng đi của Tạo hoá. Và như thế,
chúng ta đã hòa giải được cái nhìn của nhà khoa học với cái nhìn của nhà
thần học.
Nguồn: Dòng Tên VN Net.