Anh Tú
Chữ quốc
ngữ buổi đầu: Người Nhật chê, người Việt nhận
Chữ quốc ngữ xứng đáng là một
phát minh vĩ đại trong lịch sử nước ta. Nhờ chữ quốc ngữ, người Việt có hệ
thống chữ viết riêng không phải phụ thuộc hệ thống chữ tượng hình phức tạp như
trước. Sau khi dùng chữ quốc ngữ, chúng ta xóa tỉ lệ mù chữ rất nhanh trong
thời gian ngắn. Cũng nhờ chữ quốc ngữ, Việt Nam hòa nhập với quốc tế nhanh hơn.
Sẽ là không thừa nếu ôn lại sự phát triển chữ quốc ngữ.Khi nhắc đến chữ quốc
ngữ, người ta nhắc ngay công lao của ông Alexandre de Rhodes hay còn được gọi
với tên Việt là cha Đắc Lộ.
Để chữ quốc ngữ có thanh điệu,
cần ghi công một cậu bé
Trong phần trước, chúng tôi đã đề
cập bước sơ khởi trong tiến trình phát triển chữ quốc ngữ. Ở giai đoạn
1620-1626, các giáo sĩ mà đi đầu là cha Francisco de Pina, người Bồ Đào Nha đã
bắt đầu thực hiện ghi âm tiếng Việt bằng kí tự La Tinh. Việc ghi của thời này
khá đơn giản khi các từ ghép vẫn được viết nối nhau và không hề có vần. Phải
đến sau năm 1626 thì mới bắt đầu có việc ghi cách ngữ và gắng chép có dấu để
phân biệt độ lên hạ giọng trong phát âm của người Việt. Việc học cách để ghi
cách ngữ chỉ cần có thời gian và chỉnh thói quen là làm được, nhưng riêng việc phân
biệt dấu qua cách lên xuống giọng của người Việt là cực hình đối với người
phương Tây, đó còn chưa kể đến việc một tiếng còn có nhiều nghĩa khác nhau.Để
người ngoại quốc thấy rõ hơn sự nguy hiểm trong khi phát thanh sai tiếng Việt,
cha Đắc Lộ thuật lại hai câu chuyện sau đây: Một hôm linh mục bạn với Đắc Lộ
muốn bảo người giúp việc đi chợ mua cá. Khi người giúp việc ở chợ về, bảo cho
ông hay là đã mua như ý linh mục muốn. Ông liền xuống nhà bếp coi xem loại cá
nào thì ông ngỡ ngàng vì người đi chợ lại mua một thúng đầy cà. Linh mục biết
ngay là vì đã đọc trại tiếng cá thành cà nên ông xin lỗi người giúp việc. Một
linh mục khác bảo người nhà đi chém tre. Đoàn trẻ em trong nhà linh mục nghe
thế sợ quá, bỏ chạy tán loạn. Thì ra ông phát thanh lầm là chém trẻ nên làm cho
đàn trẻ em khiếp sợ. Phải giải thích mãi trẻ em mới yên tâm và trở về nhà với
linh mục.Do vậy, để có thể truyền tải hết tiếng Việt vào chữ viết thì phải có
cách chép dấu. Cuốn công trình Tự điển Việt-Bồ-La của cha Đắc Lộ ra đời năm
1651 đã giải quyết được vấn đề đó. Cha Đắc Lộ nói rằng nhờ một cậu bé 13 tuổi
(sau này được đặt tên Thánh là Rafael Rhodes) mà ông mới hiểu được hệ thống
thanh điệu, lên xuống giọng của người Việt (cơ sở quan trọng để đặt ra các
thanh huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng). Cha Đắc Lộ viết: "Chỉ trong vòng 3 tuần
lễ, chú bé đã dạy tôi học biết tất cả các cung giọng khác nhau của tiếng Việt
và cách thức phát âm của từng chữ. Cậu không hề có một kiến thức gì về ngôn ngữ
châu Âu, thế mà cũng trong vòng 3 tuần lễ này, cậu đã có thể hiểu được tất cả
những gì tôi muốn diễn tả và muốn nói với cậu. Đồng thời cậu học đọc, học viết
tiếng La Tinh và đã có thể giúp lễ. Tôi hết sức ngạc nhiên trước trí khôn minh
mẫn và trí nhớ dẻo dai của cậu bé. Sau đó, cậu trở thành thầy giảng giúp việc các
cha truyền giáo và là một dụng cụ tông đồ hữu hiệu trong việc loan báo Tin Mừng
nơi quê hương Việt Nam thân yêu của thầy và nơi Vương quốc Lào láng
giềng".Thực ra, cha Đắc Lộ không thể một mình tự nghiên cứu ra cuốn Tự
điển Việt-Bồ-La mà cần dựa vào nghiên cứu, đúc kết của nhiều giáo sĩ khác. Thời
gian cha Đắc Lộ ở Việt Nam
không liên tục mà bị ngắt quãng do chính sách của triều đình 2 đàng khi đó.
Trước khi bị chúa Trịnh Tráng trục xuất năm 1630, cha Đắc Lộ chỉ có 57 tháng ở
với người Việt (ở Đàng Trong từ tháng 12-1624 đến tháng 7-1626 và ở Đàng Ngoài
từ tháng 3-1627 đến tháng 5-1630). Sau đó, ông phải ở Áo Môn (tức Macau) 10 năm
rồi mới trở lại Đàng Trong năm 1640 nhưng cũng không ở liên tục mà chia làm 3
lần (lần 1: tháng 2-1640 đến tháng 9-1640, rồi về Áo Môn, lần 2: tháng 12-1640
đến tháng 7-1641, sau đó về Áo Môn, lần 3: tháng 1-1642 đến tháng 7-1643, lại
về Áo Môn). Chính vì sự ngắt quãng đó cộng với công việc khá nhiều nên ông khó
có thời gian chuyên tâm nghiên cứu việc phiên âm tiếng Việt. Dựa vào các văn
bản có lưu dấu chữ quốc ngữ của cha Đắc Lộ viết trong thời gian đi lại giữa
Việt Nam
và Áo Môn, các nhà nghiên cứu nhận thấy trình viết của ông khi ấy khó sánh bằng
cha Gaspar do Amaral. Cha Amaral đến Thăng Long cuối năm 1629 và trong bản
tường trình gửi về Bồ Đào Nha ngày 31-12-1632, cha Amaral đã viết rất nhiều chữ
quốc ngữ cách ngữ và có dấu như Kẻ Chợ (chỉ Thăng Long), yêu nhău (yêu nhau),
hụyen (huyện), bà đạu (bà đạo), đàng ngoằy (đàng ngoài), nhũộn (nhuận)... Có
thể thấy nhiều từ quốc ngữ được cha Amaral viết khá xa với từ hiện giờ nhưng so
với cách viết của cha Đắc Lộ khi ấy thì tốt hơn rất nhiều. Cùng thời điểm và có
thể muộn hơn, bản viết tay của cha Đắc Lộ vẫn ghi Ce Che (Kẻ Chợ), dau nhu (đạo
Nho), huyen gna (huyện nha)...Đến năm 1637, thư của cha Amaral đã có nhiều chữ
quốc ngữ sát với bây giờ hơn khi ông dùng chính xác nhiều từ như đức, thầy,
Nghệ An, đàng ngoài... Trong khi đó, cách viết từ quốc ngữ của cha Đắc Lộ cũng
không tiến triển nhiều hơn, rất ít dùng chữ có dấu. Phải đến năm 1644, cách
viết chữ quốc ngữ của cha Đắc Lộ mới có bước tiến rõ rệt khi trở lại Việt Nam. Thời kì
đó, ông đã viết được cả câu quốc ngữ dài: "giũ nghĩ cũ đ Chúa Jesu cho đen
het hoy, cho đen blon đoy" (giữ nghĩa cùng đức Chúa Jêsu cho đến hết hơi,
cho đến trọn đời).Có thể thấy trong thời gian trước năm 1645 thì cha Amaral là
người xuất sắc trong việc dùng chữ quốc ngữ và ông cũng là người soạn cuốn tự
điển Việt-Bồ-La (Diccionário anamita-português-latim). Nói đến lịch sử chữ quốc
ngữ trong giai đoạn này, không thể bỏ qua linh mục Antonio Barbosa (1594-1647)
người Bồ Đào Nha. Cuối tháng 4-1636, Barbosa đến Đàng Ngoài nhưng rồi ông trở
về Áo Môn vào tháng 5-1642 vì lí do sức khỏe. Cha Barbosa đã soạn thảo cuốn tự
điển Bồ-Việt (Diccionario português-anamìta). Chính 2 cuốn tự điển Việt-Bồ-La
của cha Amaral và cuốn tự điển Bồ-Việt của cha Barbosa đã đặt nền móng để cha
Đắc Lộ soạn cuốn tự điển Việt-Bồ-La ra đời năm 1651. Đó là bước ngoặt rất quan
trọng để một thời gian ngắn sau đó, người Việt Nam bắt đầu dùng chữ La Tinh để ghi
chép.
Ngạc nhiên về trình độ viết
quốc ngữ của người Việt những ngày đầu
Như đã trình bày trong các phần
trước, việc cha Đắc Lộ in được cuốn tự điển Việt-Bồ-La vào năm 1651 là bước
ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển chữ viết quốc ngữ. Công trình này
được nhiều nhà truyền giáo xây dựng đặt nền móng như cha Francisco Pina, cha
Gaspar do Amaral, cha Antonio Barbosa mà cha Đắc Lộ là người kế thừa, phát
triển.Tuy các giáo sĩ người châu Âu tạo ra cuốn tự điển cực kì thuận lợi cho
việc ghi chép ngôn ngữ của người Việt nhưng trong các bản chép tay thời đó, ta
có thể thấy các cha lại dùng không được trơn tru cho lắm. Thậm chí, nếu giờ
được đọc cuốn "Phép giảng 8 ngày" in cùng năm 1651 của cha Đắc Lộ
(được coi là sách văn xuôi tiếng Việt đầu tiên được in bằng chữ quốc ngữ) thì
chúng ta chưa chắc đã hiểu được một cách trọn vẹn. Dẫu sao các cha cũng là
người phương Tây, họ chỉ tạo ra công cụ để chuyển hóa cách ghi tiếng Việt bằng
bộ chữ La Tinh còn vận dụng công cụ đó một cách hiệu quả và cải tiến để nó dần
hoàn thiện là việc của chúng ta. Người Việt đã làm tốt chuyện này.Chỉ 8 năm sau
khi cuốn tự điển của cha Đắc Lộ được in, đã có những văn bản do người Việt viết
chữ quốc ngữ khiến chúng ta ngày nay phải kinh ngạc. Chúng ta có thể đọc chúng
một cách dễ dàng, không hề cảm thấy vấp váp chút nào. Chúng ta có thể thử đọc
một bức thư của thầy giảng Igesico Văn Tín viết ngày 12-9-1659 gửi linh mục
Marani, hiện lưu trữ tại Văn khố Dòng Tên La Mã được coi là văn bản quốc ngữ
đầu tiên do người Việt viết. Bức thư gồm 2 trang giấy: trang nhất viết trong
khổ 17*25 cm có 34 dòng chữ cỡ trung bình, trang hai trong khổ 16*9 cm có 11
dòng chữ, kể cả dòng chữ kí tên. Mời bạn đọc theo dõi bức thư của Igesico Văn
Tín để biết nội dung, hiểu được trình độ chữ quốc ngữ và cách hành văn của
ông."Lậy ơn Đức Chúa Trời phù hộ Thầy bằng an lành linh hồn và xác. Từ
năm Thầy trẩy về khỏi, thì hai Thầy ở lại chịu nhiều sự khó lắm, thì rằng chẳng
có trẩy về song le cũng như về vậy, mà các Thầy trẩy về đến Macao thì đã xong.
Song le hai Thầy hai Thầy ở bên này thì những chịu khó liên. Năm sau Thầy cả
Miguel lại đến, thì nói những sự các Thầy phải tòng chịu khó là thế nào; tôi
nghe rằng, Thầy chịu khó từ Hải Nam cho đến Macao thì tôi đau đớn; mà ngờ là
Thầy ở nghỉ Macao, chẳng hay ý Đức Chúa Trời cho Thầy chịu khó hơn nữa là trẩy
đi đàng xa khách (1) trở, lòng tôi càng trông nhớ Thầy liên. Đoạn tầu trẩy về
thì tôi ước rằng còn Thầy ở Macao, lòng tôi muốn trẩy sang mà theo Thầy. Song
le Thầy đã trẩy khỏi, thì tôi bây giờ như con mất cha, mà trăm đàng thì cậy một
Thầy cả ở bên này. Người bảo tôi rằng, ngày sau tầu Olan trẩy về bên ấy thì sẽ
viết một lời sang hầu Thầy, ơn Thầy xưa dạy dỗ tôi nhiều đàng, cho nên thành mà
ráp cậy Thầy; cho nên chẳng hay bây giờ vắng Thầy, tôi càng buồn hơn nữa, mà ao
ước cho được thấy mặt Thầy như con trông mẹ về cho được bú vậy. Muốn cho người
ta được ơn Thầy nữa, chẳng hay Đức Chúa Trời chẳng cho, mà mở lòng cho Thầy đi
phương khác thì hầu biết làm sao được. Ơn Thầy thương lấy tôi cùng, vì là kẻ có
tội nhiều, chẳng đáng ở gần Thầy, thì phải làm một lời bằng thay mặt. Tôi kính
lậy Thầy vậy.Sau nữa, sự bổn đạo bên này thì Thầy biết hết, cùng mọi sự khác đã
có thư Thầy cả gưởi cho Thầy được biết, tôi hầu nói làm chi, cùng đả có thư nói
trước. Sau nữa Kẻ Vó, ông Chưởng Minh nên (2) hai cái độc lắm, mà người đã biết
mình chẳng đả, thì mời Thầy rửa tội cho tên là Josaphat, đoạn liền sinh thì. Mà
con ông ấy tên là Vito, Đức Chúa lại cho chức cha ấy là ông Chưởng Minh. Còn sự
ông Chưởng Trà thì đã có đạo cùng tên thánh ngày trước, song le chẳng giữ, nên
liền phải liệt, chẳng cho bổn đạo đến cầu cho, liền mời bên đời đến chữa chẳng
khỏi, mấy ngày liền chết; mà những họ hàng nhà ông ấy cùng anh em chung nhau
làm quan hãy còn cầu nguyện, đến rầy chửa xong, cùng nhà thờ trong ấy thì nó
làm hư hết. Ấy là sự bên này thì làm vậy.Còn sự Thầy cả Miguel ở Roma về mà đi
tìm vua Vĩnh lịch, chẳng hay có giặc hu nu (Hung Nô – ám chỉ Mãn Thanh) đến phá
dấy, mà vua chạy lên len rừng mà người đi tìm chẳng được, lại trở lại đấy, giờ
là Văn Hương Chu. Người có thư cho Thầy cả mà
xin xuống Kẻ chợ. Thầy cả liền dõi lệnh Chúa, Đức Chúa có cho xuống chăng, song
le Đức Chúa chẳng cho. Người ở đấy độc nước, phải liệt, mà lại có thư cho Thầy
cả. Bây giờ Thầy đi thăm ông Già Hán, ông ấy cũng chẳng cho. Đoạn cắt hai người
lên thăm trên ấy, chẳng hay người đã sinh thì khỏi. Lòng Thầy cả tiếc cùng
thương lắm. Ấy là bấy nhiêu. Đức Chúa Trời trả công cho Thầy đời này và đời
sau. Mười hai tháng chín Đức Chúa Jêsu ra đời một nghìn sáu trăm năm mươi chín
.
Tôi là Igesico Văn Tín".Lá thư của thầy giảng Igesico Văn Tín -
Ảnh: chụp màn hình
Ở đây chúng ta không bàn đến nội
dung bức thư hay chữ viết đẹp hay xấu mà cần thấy rằng một văn bản bằng chữ
quốc ngữ đã được thể hiện một cách trơn tru, liền mạch. Cả một văn bản tương
đối dài như vậy mà chỉ có 2 lỗi sai chính tả. Chỗ (1) cần viết là
"cách" hay "kách", chỗ (2) cần viết là "lên" chứ
không phải "nên". Nếu so với thư dùng chữ quốc ngữ mà các giáo sĩ ban
đầu dùng thì có thể thấy thư của ông Igesico Văn Tín đã có một bước tiến nhảy
vọt. Chữ quốc ngữ phát huy hiệu quả tuyệt vời trong tay người Việt trong thời
gian cực ngắn, đó là những điều mà có lẽ những người phát minh ban đầu cũng khó
hình dung.Bài viết có tham khảo thông tin từ cuốn "Lịch sử chữ quốc ngữ
1620-1659" của ông Đỗ Quang Chính viết năm 1972.
Hành trình chữ quốc ngữ khai
tử chữ Hán trên đất Việt
Sau khi được các nhà truyền giáo
phát minh vào đầu thế kỉ 17 mà điểm nhấn là bộ tự điển Việt-Bồ-La của cha Đắc
Lộ, chữ quốc ngữ có nhiều cải biến để ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, suốt gần
3 thế kỉ, chữ quốc ngữ không được trọng dụng mà chỉ "lưu hành nội bộ"
cộng đồng người theo Công giáo. Các triều đình phong kiến Việt Nam vốn ác cảm
với các nhà truyền giáo phương Tây đã không tôn trọng chữ quốc ngữ. Với các nhà
nho thì chữ Hán được coi là chữ thánh hiền và họ không chấp nhận chữ quốc ngữ
của Tây phương. Đó là lí do chữ quốc ngữ dù ra đời từ thế kỉ 17 nhưng không
được phổ biến trong thế kỉ 18, 19. Vào thời điểm đó, ngoài chữ Hán thì ở Việt Nam còn có chữ
Nôm và chữ quốc ngữ đều là văn tự ghi tiếng nói của người Việt. Nếu so sánh thì
chữ quốc ngữ rất gần chữ Pháp, lại rất tiện lợi, dễ học, dễ nhớ hơn nhiều so
với chữ Nôm. Chữ Nôm tuy là để ghi tiếng của người Việt nhưng lại mượn chữ Hán,
thành ra có thể coi là là cách thức dùng chữ Hán giải mã tiếng Việt. Nếu chữ
Hán khó một thì thì chữ Nôm khó 10 vì người giỏi chữ Nôm phải cực thạo chữ Hán
và nhanh ý để nhìn hình đoán chữ. Đáng lẽ với sự tiện lợi như vậy thì chữ quốc
ngữ phải được dân ta đón nhận nồng nhiệt nhưng như đã nói, giới sĩ phu Việt Nam đã cực lực
chống lại các chính sách ngôn ngữ của nhà cầm quyền Pháp. Họ quan niệm chữ quốc
ngữ là sản phẩm của ngoại bang, là công cụ truyền bá của các nhà truyền giáo.
Họ muốn duy trì học chữ Hán bởi vì học chữ Hán là được giáo dục về luân lí,
lịch sử còn học chữ quốc ngữ thì chỉ như một trò chơi, khi người ta biết đọc
biết viết chữ quốc ngữ, người ta không biết gì cả. Ngay cả khi không thể dùng
chữ Hán để ghi văn bản của người Việt, họ vẫn thà dùng chữ Nôm còn hơn dùng chữ
quốc ngữ. Năm 1867, Nguyễn Trường Tộ chính thức đề nghị triều đình Huế sử dụng
chữ Nôm.Phải đến khi người Pháp dùng các biện pháp chế tài mạnh mẽ thì chữ quốc
ngữ mới bắt đầu được dùng. Ngày 22-2-1869, Phó đề đốc Marie Gustave Hector
Ohier kí nghị định bắt buộc dùng chữ quốc ngữ thay thế chữ Nho trong các công
văn ở Nam
kì do người Pháp cai trị khi đó. Trước đó, năm 1861, một trường dạy tiếng Việt
được thiết lập ở Sài Gòn để đào tạo những viên thông ngôn người Pháp. Nghị định
82 ngày 6-4-1878 do Thống đốc Nam kì Lafont kí cũng đề ra cái mốc hẹn trong 4
năm (tức năm 1882) phải chuyển hẳn sang chữ quốc ngữ: "Kể từ mùng một
tháng giêng năm 1882 tất cả văn kiện chánh thức, nghị định, quyết định, lịnh,
án tòa, chỉ thị... sẽ viết, kí tên và công bố bằng chữ quốc ngữ; nhân viên nào
không thể viết thơ từ bằng chữ quốc ngữ sẽ không được bổ nhậm và thăng thưởng
trong ngạch phủ, huyện và tổng". Để khuyến khích việc truyền bá chữ quốc
ngữ, nhà chức trách thuộc địa Nam
kì còn ra Nghị định ngày 14-6-1880 giảm hoặc miễn thuế thân và miễn sưu dịch
cho thân hào hương lí nếu họ biết viết chữ quốc ngữ.Cũng may là người Pháp áp
việc dùng chữ quốc ngữ ở Nam
kì đầu tiên. Người miền Nam
nhìn chung có tâm lí phóng khoáng và thực dụng nên tiếp nhận việc dùng quốc ngữ
khá dễ dàng. Cuối thế kỉ 19, các trí thức Nam kì như cụ Trương Vĩnh Ký, Huỳnh
Tịnh Của, Trương Vĩnh Tống, Trương Minh Ký, Nguyễn Trọng Quản... là những người
đi đầu trong chủ trương truyền bá chữ quốc ngữ và phát triển tiếng Việt. Khi
người Việt ở Nam
kì nhận thấy sự tiện lợi của chữ quốc ngữ thì chính quyền Pháp bắt đầu tạo áp
lực để dùng chữ quốc ngữ thay thế chữ Hán ở Bắc và Trung kì vào đầu thế kỉ 20.
Triều đình Huế lúc này đã quá suy yếu nên đành phải nhượng bộ trước áp lực của
người Pháp. Năm 1910, Chính phủ Đông Pháp mở rộng chính sách dùng chữ quốc ngữ,
giao cho Nha Học chính giảng dạy ở Bắc kì. Năm 1915, kì thi Hương cuối cùng
diễn ra ở Bắc kì mặc cho sự chống đối của giới sĩ phu. Ở Trung kì thì đạo dụ
của vua Khải Định ngày 26-11 năm Mậu Ngọ (tức 28-12-1918) chính thức bãi bỏ
khoa cử và năm 1919 là năm cuối mở khoa thi ở Huế. Thượng thư Bộ Học là Cao
Xuân Dục có công văn trả lời Toàn quyền Đông Dương với ý tán đồng "cả nước
cùng học chữ quốc ngữ La Tinh, tuyển chọn các vị cử nhân, tú tài, tôn sinh, ấm
sinh người bản quốc sung làm giáo sư và thành lập viện dịch chữ quốc ngữ... Nay
vâng mệnh Hoàng đế bản quốc lập ra trường chuyên dạy thứ chữ này chính là muốn
thống nhất một lối dùng làm thứ chữ dạy học phổ thông".
Trong việc phát triển chữ quốc
ngữ, người Pháp có chủ trương và toan tính riêng phục vụ lợi ích của họ. Tuy
nhiên, việc này lại mang rất nhiều tiện lợi cho người Việt Nam khi chúng
ta không còn phụ thuộc hệ thống chữ Hán khó đọc, khó nhớ nữa. Các nhân sĩ tiến
bộ ngoài Bắc cũng nhanh chóng nhận ra lợi ích của chữ quốc ngữ để kêu gọi mọi
người hưởng ứng rộng rãi. Đầu thế kỉ 20 ở ngoài Bắc, hoạt động của Đông Kinh
Nghĩa Thục (1907) cũng đã dấy lên phong trào học chữ quốc ngữ, coi chữ quốc ngữ
là phương tiện khai hoá quốc dân. Các cụ khẳng định: "Chữ Quốc ngữ là hồn
trong nước - Phải đem ra tính trước dân ta - Sách các nước, sách Chi Na - Chữ
nào chữ ấy dịch ra cho tường". Trong Văn minh tân học sách của Đông Kinh
Nghĩa Thục có đoạn viết: "Người trong nước đi học nên lấy chữ quốc ngữ làm
phương tiện đầu tiên để trong thời gian một vài tháng, đàn bà, trẻ con đều biết
chữ và người ta có thể dùng quốc ngữ để ghi việc đời xưa và chép việc đời
nay... Đó thực là bước đầu tiên để mở mang trí khôn vậy".Có lẽ điều người
Pháp không thể ngờ rằng chữ quốc ngữ chính là phương tiện để người Việt phổ
biến, hun đúc lòng yêu nước, tinh thần đòi độc lập.Việc chúng ta chuyển từ Hán
tự sang chữ quốc ngữ cũng phải trả một cái giá, đó là hầu hết người Việt Nam ta
không đọc được chữ các cụ ngày xưa (nhất là khi vào đền chùa). Tuy nhiên, cái
giá đó quá rẻ so với việc đại bộ phận người dân biết chữ thay vì chỉ một số nhỏ
biết chữ Hán thời phong kiến.Thế nhưng, nếu cải cách chữ theo như đề xuất của
PGS-TS Bùi Hiền - tác giả công trình nghiên cứu cải tiến bảng chữ cái tiếng
Việt - thì e rằng thế hệ sau này xa lạ với các dòng chữ mà chúng ta viết hiện
giờ. Cái giá khi đó lại trở thành quá đắt.
Bài viết có tham khảo thông
tin trong bài "Chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam qua các thời kì lịch sử"
của GS-TS Nguyễn Thiện Giáp