Thái Công Tụng
Các đại tuyệt chủng sinh vật trong lịch sử
điạ chất
1.Dẫn nhập .
Thuở
trời đất nổi cơn gió bụi .Ta thường nghe
câu nói ‘xưa như Trái Đất’ . Thực vậy, hành tinh ta đang trú ngụ có lịch
sử không phảì hàng triệu năm mà phải tính hàng tỷ năm. Lịch sử Trái đất trải
dài khoảng 4,55 tỷ năm, từ khi Trái Đất hình thành từ Tinh vân mặt trời cho tới
hiện tại. Từ ‘thuở trời đất nổi cơn gió bụí’ đến ngày nay, trái
đất ta ở biết bao là chuyện đã xảy ra trên hành tinh này: nào chiến tranh, nào
nạn đói, cháy rừng, bão tố nhưng bài này chỉ giới hạn nói về các đại tuyệt
chủng sinh vật do nhiều nguyên nhân như băng giá, như phun trào basalt hay
thiên thể rơi từ không gian xuống trái đất ..
Vật
đổi sao dời : Hôm nay đất liền, ngày mai
hải đảo (nói hôm nay, ngày mai là nói theo thời gian địa chất). Hôm nay còn
biển, ngày mai một hòn đảo do các phun trào từ lòng đất dâng trào lên tạo
nên hay cũng có thể là bãi trồng dâu như câu thơ:
Trãi
qua một cuộc biển dâu
Những
điều trông thấy mà đau đớn lòng
Và cứ
thế, những chuyện vật đổi sao dời từ hàng trăm triệu năm nay cứ diễn tiến, ảnh
hưởng đến sự tiến hoá của sinh vật, từ động vật không xương sống tiến lên động
vật có xương sống, từ động vật dưới nước tiến hoá lên động vật lưỡng cư, rồi
trên cạn, từ thực vật sơ đẳng tiến hoá lên thực vật cấp cao, mọc thành rừng
dày, ảnh hưởng đến những vùng có tài nguyên như than đá, dầu hoả, quặng mỏ mà
nền văn minh nhân loại mỗi ngày mỗi cần dến. Nói về sự tiến hoá sinh vật, phải
nhắc đến ông Charles Darwin (1809-1882), người Anh là một nhà
nghiên cứu nổi tiếng đã phát hiện và chứng minh rằng mọi loài đều tiến hóa theo
thời gian từ những tổ tiên chung qua sự chọn lọc tự nhiên và ngày nay đã
trở thành nền tảng cho lý thuyết tiến hóa hiện đại. Khám phá của Darwin là lý thuyết thống
nhất cho các ngành khoa học sinh vật vì có thể đưa ra lời giải thích duy lý cho
sự đa dạng loài.. Nhưng trước đó cũng có nhà khoa học tự nhiên tên là Laplace (1744-1829) một người cổ động cho giả
thuyết rằng tiến hoá sinh học xẩy ra và diễn biến theo các quy luật tự nhiên .
Bên
cạnh những sự tiến hoá của sinh vật như trên, cũng có những tuyệt chủng lớn
trong suốt thời gian từ lúc Trái Đất hình thành cho đến nay: đó là sự suy
giảm rõ rệt mức độ phong phú và đa dạng các loài sinh vật lớn (không phải vi
sinh vật). Hiện tượng này diễn ra khi tốc độ tuyệt chủng tăng nhanh so với tốc
độ hình thành loài. Do phần lớn sinh vật trên Trái Đất là vi sinh vật vốn không
để lại nhiều dấu tích trong lịch sử sinh học để nghiên cứu nên tuyệt chủng hàng
loạt có thể không thực sự ảnh hưởng lớn đến toàn bộ đa dạng sinh học trên Trái
Đất mà chỉ tác động vào nhóm các sinh vật có kích thước quan sát được. Các hóa
thạch từ sinh vật biển thường được sử dụng để tính toán tốc độ tuyệt chủng
bởi số lượng hóa thạch phong phú và đa dạng xuất hiện trong nhiều lớp thạch
quyển so với sinh vật trên cạn.
Đại
diệt chủng sinh vật xảy ra khi có nhiều loài sinh vật bị biến mất trong một
giai đoạn nào đó trong lịch sử địa chất. Trong số những loài sinh vật đã từng
sống trên Trái Đất, có 97% đã hoàn toàn biến mất. Tuy vậy, tốc độ tuyệt chủng
diễn ra không đồng nhất trong mọi thời kì. Do đó, cần tim hiểu qua về lịch sử
địa chất của Trái Đất ta ở trước khi bàn về các đại tuyệt chủng.
2.Nói qua về lịch sử địa chất của Trái Đất
ta ở
Lịch sử
địa chất của Trái Đất ta ở có thể phân chia tổng quát thành hai giai đoạn: Tiền
Cambri (PréCambrien) và liên đại Hiển Sinh. Vì lịch sử địa chất xưa như vậy,
nên trong ngành địa chất học, người ta phải chia ra nhiều thời kỳ khác nhau để
dễ thảo luận (nguyên đại Cổ sinh Paleozoi, nguyên đại Trung sinh Mesozoi,
nguyên đại Tân sinh Cenozoi ) , nhưng các nhà địa chất cũng chỉ biết
lịch sử trái đất từ vài trăm triệu năm trở lại đây mà thôi, do nghiên cứu các
hoá thạch và các phương pháp dùng đồng vị phóng xạ để đo tuổi đất. Hơn nữa,
trước nguyên đại Cổ Sinh Paleozoi, có một thời kỳ kéo dài từ sự tạo hình Trái
Đất 4.5 tỷ năm trước đây và chấm dứt cách nay 570 triệu năm thường được
gọi là Tiền Cambri (Precambrian)
2.1. Giai đoạn Tiền Cambri (PreCambrian) hay còn gọi là liên đại Nguyên Sinh
(Proterozoic)
Liên
đại Nguyên Sinh kéo dài từ khoảng 2 500 triệu năm trước tới khoảng đầu kỷ
Cambri (khoảng 542 triệu năm trước), có nhiều cung núi lửa với
nhiều dạng sống sơ khai ở đại dương; điạ khai cho thấy thời đó có nhiều
tảo gọi là sromatolit và nhiều sinh vật rất nhỏ. Ngày nay, người ta càng
ngày càng sử dụng danh xưng liên đại Nguyên Sinh (Proterozoic) để
chỉ giai đoạn Tiền Cambri . Trong liên đại này, cũng đã có một vài thời kỳ băng
hà hoá cũng như có các sinh vật đa bào . Ngoài ra, trong liên đại này có sự
tích lũy oxy trong khí quyển Trái Đất .
Các sự kiện băng hà hóa đã biết
đầu tiên diễn ra trong liên đại Nguyên Sinh; một trong số đó bắt đầu chỉ ngay
sau khi liên đại này bắt đầu. Tiếp theo liên đại Nguyên Sinh (Proterozoic) là
các nguyên đại Cổ Sinh (Paleozoic), nguyên đại Trung Sinh (Mesozoic),
nguyên đại Tân Sinh (Cenozoic):
2.2.-nguyên đại Đại Cổ Sinh
(Paleozoic). Trước kia, người ta dùng danh từ kỷ thứ nhất (ere primaire).
Nguyên đại này, từ 570 triệu năm đến 245 triệu năm trước, chia ra 6 kỷ
lớn bắt đầu từ xưa nhất là: Cambri, Ordovic, Silur, Devon, Carbon và Permi.
Thoạt tiên ở nguyên đại này, đời sống chỉ là những vi khuẩn, rong biển và đời
sống chỉ hiện trên biển vì trên đất còn thiếu không khí . Cũng trong thời kỳ
này có loài cá, chuyển từ sống dưới nước đến đời sống lưỡng cư . Trong nguyên
đại Paleozoic, phải kể đầu tiên là bùng nổ Cambri, sau đó là tuyệt chủng giai
đoạn Ordovic, tuyệt chủng giai đoạn Devon và tuyệt chủng giai đoạn Permi, đánh
dấu chuyển giai đoạn Đại Cổ Sinh (Paleozoic) sang giai đoạn Trung Sinh
(Mesozoic).
Lúc sơ
khởi nguyên đại Paleozoic, đời sống chỉ giới hạn với những vi khuẩn đơn giản,
rong biển, tiếp theo là những loài chân khớp (Arthropodes), các loài cá, và
giai đoạn chuyển từ đời sống dưới nước sang đời sống trên cạn. Nguyên đại
Cổ Sinh là thời kỳ có nhiều lớp chân đầu (Cephalopod, tổ tiên các loài
mực hiện nay); cuộc sống chỉ ở dưới biển và có nhiều loài như bộ ba thùy (
trilobite), con bút đá ( graptolit), động vật tay cuộn (brachiopod), phiêu sinh
vật, san hô và loài nhuyễn thể (mollusque).
Trong kỷ
Ordovic thì mực nước biển khá cao với các di tích còn lưu lại trong các lớp
đá . Các loại đá thuộc kỷ Ordovic chủ yếu là đá trầm tích. Vào thời đó, có một
đại lục phía Nam
bao gồm những xứ mà ngày nay ta gọi là Nam Mỹ, Phi châu, Ấn Độ, Úc châu
có tên Gondwana . .Vào đầu kỷ Ordovic thì lục địa này nằm ở các vĩ độ
gần xích đạo và dần dần trôi dạt xuống Nam Cực. Thời kỳ Tiền Ordovic được cho
là rất ấm, ít nhất là tại các vĩ độ thuộc miền nhiệt đới. Các vùng nước nông và
trong suốt trên các thềm lục địa đã tạo điều kiện cho sự phát triển của các
nhóm sinh vật có khả năng tích tụ cacbonat
canxi trong lớp mai (vỏ) hay các phần cứng
của chúng. Phía Bắc bán cầu, lúc đó cũng có một khối bao trùm các xứ mà
ngày nay gọi là Bắc Mỹ, Siberia, Bắc Âu, Tây Á và Trung Hoa .Bắc Mỹ chỉ là một
vùng thấp có lúc bị đại dương tràn vào, tạo nên nhiều đá vôi, giải san hô va sa
thạch (sandstone) .
Kỷ Devon con gọi là kỷ các loài Cá nhưng cuối giai đoạn Devon đã có
nhiều sinh vật biển bị mất đi vì sự dao động của mực nước biển vì có thời kỳ
băng hà xen lẫn với thời kỳ gian băng: nhiều loài loài động vật hình rêu
(Bryozoaire), động vật tay cuộn (brachiopode) động vật chân đầu (cephalopode),
động vật thân giáp (ostracode)
Cuối
giai đoạn Đại Cổ Sinh, mọi lục địa họp dính lại nhau tạo thành Pangaea
nó bao gồm phần lớn diện tích đất đai của Trái Đất, với sự diệt chủng đến 75%
các loài lưỡng cư và 80% sinh vật biển .Đồng thời giai đoạn này có sự phát
triển nhiều loại cây, nhiều loài cá, cá mập . Nhiều loài lưỡng cư rời đại
dương để lên bờ. Cảnh quan thời đó phần lớn là đầm lầy.
2.3.-nguyên
đại Đại Trung Sinh (Mesozoic), từ quãng
245 triệu năm đến 66 triệu năm trước đây, gồm nhiều kỷ khác nhau, theo thứ tự: kỷ
Trias, kỷ Jura, kỷ Creta, với rất nhiều loài khủng long (dinosaur).Nhiều đá
sa thạch . Vùng đất thấp thường bị ngập vì biển tiến. Nhiều vùng đầm lầy tại
các điều kiện nhiệt đới sau này trở thành các mỏ than . Giữa nguyên đại Đại
Trung Sinh, Pangea trôi dạt vào phía bắc Laurasia và phía nam Gondwana . Đá
phún xuất và hoạt động núi lửa tạo ra những dãy núi phía Tây Bắc Mỹ. Trong giai
đoạn Đại Trung Sinh, nhiêu loài thực vật hình nón (Coniferes) và bạch quả xuất
hiện . Loài bò sát đẻ trứng trên bờ . Các loài động vật có vú mới xuất hiện
giai đoạn này . Cuối giai đoạn Đại Trung Sinh cũng là đánh dấu diệt chủng
các loài khủng long . Vài loài tồn tại như rùa, rắn, cá sấu và vài loại thằn
lằn. Đại Trung Sinh là một trong những thời kỳ tăng cường các hoạt động kiến
tạo. Nó bắt đầu khi tất cả các lục địa trên thế giới tập hợp lại với nhau thành
một siêu lục địa có tên là Pangea . Pangea dần dần tách ra thành lục địa phía
bắc là Laurasia và lục địa phía nam là Gondwana. Vào cuối đại này, các lục địa
này đã tách tiếp thành hình dạng gần giống như ngày nay. Laurasia trở thành
Bắc Mỹ và đại lục Á-Âu, trong khi Gondwana tách ra thành Nam Mỹ, châu
Phi, Australia và tiểu lục địa Ấn Độ, tiểu lục địa này sau đó va chạm với châu
Á để hình thành nên dãy núi Himalaya.
2.4.-nguyên đại Đại Tân Sinh (Cenozoic). Đại Tân
Sinh khởi nguyên cách nay 65 triệu năm, bao gồm kỷ thứ ba (ère tertiaire) va kỷ
thứ tư (ère quaternaire) trong phân loại xưa kia . Nguyên đại này có kỷ
Paleogen (thế Paleocen, thế Eocen, thế Oligocen) và kỷ Neogen (thế
Miocen, thế Pliocen, thế Pleistocen, thế Holocen). Là kỷ nguyên khi các lục địa
chuyển dịch tới vị trí hiện nay của chúng. Từ đại lục Gondwana, Australia-New
Guinea tách ra để trôi về phía bắc và cuối cùng tiếp giáp với Đông Nam Á; châu
Nam Cực cũng di chuyển tới vị trí hiện nay của nó tại khu vực Nam cực; Đại Tây
Dương mở rộng ra và vào giai đoạn cuối của đại này thì Nam Mỹ gắn liền với Bắc
Mỹ. Mảng Ấn Độ chạm phải mảng Âu Á tạo ra giãy núi Himalaya .Đây là thời
đại các động vật có vú ở trên đất, trên không, dưới biển. Thực vật hạt kín xuất
hiện . Vào giai đoạn này, các lục địa tách rời nhau ra; các mảng kiến tạo tạo
ra nhiều giãy núi .
Nhiều
loài voi (proboscidien) xuất hiện từ thế Eocen bắt đâu đa dạng hóa trong thế
Oligocen: với thời gian, loài voi cao hơn, vòi và ngà dài hơn. Cũng trong thế
Oligocen, có loài động vật có vú tên là Hyaenodon săn con Entelodon, một loại
heo rừng dài đến 2 mét từ châu Á lan tràn qua Âu châu (Découvertes Junior
No 5, năm 1991).
Địa
khai cho thấy nhiều loài cây có hoa, và bộ trùng lỗ (foraminifere) . Loài người
tiền sử xuất hiện. Nhiều đợt diệt chủng cuối đời Pleistocen: mammoth, mastodon
. Bắc Mỹ trải qua nhiều đợt băng hà (glaciation) trong những 20 000 năm cuối,
tạo ra các khung cảnh núi, hồ như ta thấy hiện nay.
Trong
suốt nguyên đại Tân Sinh, có nhóm linh trưởng bao gồm loài khỉ và loài vượn.
Cuối thời Oligocen có tách rời giữa nhóm ‘khỉ nhỏ ‘ (tổ tiên của các
loài khỉ đầu chó babouin và khỉ macaque ngày nay) và ‘khỉ lớn’(tổ
tiên các loài gorila và loài người). Cách nay từ 7 đến 9 triệu năm, những sinh
vật đầu tiên có bộ não lớn có mặt ở Đông Phi Châu. Cách nay từ 5 đến 6 triệu
năm, nhóm vượn phương nam (australopitheque) và những con người đầu tiên (họ Homo)
bắt đầu có mặt cũng tại Đông Phi cuối giai đoạn Miocen, cách nay 2.4 triệu năm
.Đó là con người khéo tay (Homo habilis) . Hậu duệ con người này
là con người đứng thẳng (Homo erectus) có mặt ở Âu châu và Á châu
và bắt đầu biết dùng lửa . Và sau đó là con người thông minh (Homo sapiens)
3. Các
đại diệt chủng sinh vật trong lịch sử điạ chất
Chúng
ta thường nghe nói và nhất là xem phim Jurassic Park thấy những loài khủng long
to lớn mà ngày nay không ai thấy nữa vì loài này biến mất : đó là lần diệt
chủng thời đại Crétacé-Tertiary, mà quen viết là diệt chủng K-T. Nhưng
còn có các lần khác .Trong khoảng thời gian 540 triệu năm trở lại đây, đã có 5
vụ tuyệt chủng rất lớn
3.1. đại tuyệt chủng đầu tiên là ở kỷ Ordovic-Silur, cách nay 440 triệu
năm, đánh dấu ranh giới giữa hai kỷ Ordovic và kỷ Silur. Nhiều loài bị tuyệt
chủng trong khoảng thời gian kéo dài khoảng 500 000 năm với nhiều sinh
vật biển , do mực nước biển hạ thấp khi có nhiều băng hà và sau đó với mực nước
biển tăng khi băng hà tan . Lúc đó đời sống còn ở đại dương: nhiều loài bộ ba
thùy (trilobite), động vật tay cuộn (brachiopod), con bút đá (graptolite),
phiêu sinh vật và san hô đã bị mất đi chỉ không đầy 500 000 năm. Trong khoảng
thời gian này, đại dương đã có lúc bị hạ xuống do băng hà đông, có lúc
nước biển dâng lên do băng hà tan . .
3.2. đại tuyệt chủng thứ hai,
cách nay 365 triệu năm vào cuối kỷ Devon và đầu kỷ Cacbon với
nhiều sinh vật biển. Ba phần tư (3/4) mọi loài sinh vật trên Trái Đất cũng bị
mất đi trải qua nhiều đợt liên tiếp trong một khoảng thời gian khá dài có thể
lên đến 20 triệu năm. Phần lớn phiêu sinh vật và các hệ sinh thái san hô bị hại
nhiều nhất, cũng như các loài bộ ba thùy, động vật tay cuộn và các loài cá cổ.
Tiếp theo lại có một thời kỳ dài với sự hồi phục các loài sinh vật biển
với nhiều loài lưỡng cư và những loài bò sát đầu tiên bắt đầu xuất
hiện.
3.3. đại tuyệt chủng thứ ba, thường có tên diệt chủng PT (Permien-Trias), cách nay 215 triệu năm. Kỷ Trias là kỷ đầu tiên của Đại Trung Sinh (Mesosoic); kỷ Trias kế tiếp kỷ Permi và kế tiếp nó là kỷ Jura . Cả sự mở đầu lẫn sự kết thúc của kỷ Trias đều đưọc đánh dấu bằng các đại tuyệt chủng sinh vật. Thực vậy, đại tuyệt chủng này, cách nay 252 triệu năm, do núi lửa Siberie phun ra, làm chết đến 95% mọi sinh vật từ sâu bọ, động vật có xương sống, loài bò sát . Đây là vụ tuyệt chủng khủng khiếp nhất trong lịch sử sinh học, giết chết 57% số họ và 83% số chi (trong đó có 53% số họ và 84% số chi sinh vật biển). Sự kiện này đã tiêu diệt hoàn toàn khỏi Trái Đất 96% số loài sinh vật biển và 70% số loài sống trên cạn, bao gồm cả động vật có xương sống, côn trùng và thực vật . Nó đã có tác động mạnh mẽ đến quá trình tiến hoá trên Trái Đất và phải cần đến 30 triệu năm để các nhóm sinh vật có xương sống phục hồi số lượng và sự đa dạng . Ở biển, nhóm động vật sống cố định đã giảm từ 67% xuống còn 50% trong tổng số động vật biển.
Giai đoạn Trias là một giai đoạn quan trọng trong sự tiến hoá của Trái Đất: lúc đó, mọi lục điạ còn dính chùm nhau trong một khối duy nhất thường có tên là Pangea .
Bản đồ địa chất giai đoạn Trias
Rồi từ lòng đất lại phun ra những dung nham núi lửa kéo dài nhiều năm làm đại lục Pangea bị tách ra nhiêu mảnh ; Đại Tây Dương bắt đầu thành hình. Với lửa phun ra từ lòng đất nên nhiều sinh vật bị chết đi trên cạn đã đành mà còn dưới biển vì mưa acid do không khí chứa nhiều CO2 nên đại dương bị acid hoá: phiêu sinh vật dưới biển bị mất đi, kéo theo nhiều loài cá cũng bị diệt chủng.
Nhiều loài bò sát khổng lồ như khủng long, xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng 230 triệu năm trước, trong kỷ Trias cũng bị tuyệt chủng. Khí hậu lúc đó khô nóng, thích hợp cho các loài bò sát phát triển.
Và phải chờ nhiều triệu năm sau đó, nghia là vào kỷ Jura (Jurassic) thì Trái Đất mới phục hồi với loài khủng long (dinosaure); loài khủng long tồn tại khoảng 150 triệu năm. Trái Đất bắt đầu có hình dạng như ngày nay
Trái Đất đầu
kỷ Jura
3.4. đại tuyệt chủng thứ tư đánh dấu bước chuyển từ kỷ Trias sang kỷ Jura, cách nay
quãng 200 triệu năm, là do núi lửa phun, tạo ra nhiều dung nham, khởi
đầu từ giũa Đại Tây dương. Chính núi lửa giữa đại dương phun ra làm đại dương
này nở rộng ra . Ngày nay, người ta nhận thấy đá phún xuất ở hai bờ Đại Tây
dương, từ Đông Bresil, Đông Hoa Kỳ, Bắc Phi, Espagne. Bằng chứng cụ thể nhất là
miền Bắc Quebec có miệng núi lửa Manicouagan có đường kính dài đến 180km. Dung nham núi lửa bao phủ một vùng rộng lớn quãng 2 triệu
km2 trên một độ dày trên 3 km, bao phủ bầu trời và suốt một quãng thời gian đến
10 000 năm, khí Co2 do núi lửa phun ra làm nhiệt độ Trái Đất cao hơn, kéo theo
diệt chủng sinh vật . Đại dương cũng nóng lên nên nhiều sinh vật biển bị chết
đi. Trên mặt đất, nhiều sinh vật thuộc nhóm bò sát cổ ngoài trừ khủng long đều
tuyệt chủng.
2.5. đại diệt chủng thứ năm được
nhiều người nói đến, biết đến dưới danh xưng là tuyệt chủng K-T ( còn
gọi là tuyệt chủng K-Pg, Cretacé-Paleogen) tức cuối thời kỳ
Crétacé (Phấn kỷ) và đầu kỷ thứ ba (Tertiaire) , cách nay 65 triệu năm,
do thiên thạch va chạm, do phun trào basalt tại vùng cao nguyên Deccan ở Ấn Độ
ngày nay đã tiêu diệt hầu hết các loài khủng long vốn là kẻ thống trị trên Trái
Đất trong một thời gian rất dài và mở ra cơ hội bước lên vũ đài lịch sử cho các
loài động vật có vú, trong đó có con người. Phun trào basalt nên có nhiều khí
núi lửa, nhất là SO2, cũng làm biến đổi khí hậu.
Tuyệt
chủng K-T là một vụ tuyệt chủng không đồng đều. Có những sinh vật bị tuyệt
chủng hoàn toàn, một số khác chịu những ảnh hưởng nặng nề và một số lại hầu như
không bị ảnh hưởng đáng kể.
2.6. đại diệt
chủng lần thứ sáu
Trước
kia, chúng ta chỉ biết đến 5 giai đoạn tuyệt chủng nói trên. Nhưng ngày nay,
với loài người sinh sôi nẩy nở trên Trái Đất này, nhiều động vật cũng như thực
vật cũng có nguy cơ bị tuyệt chủng. Thường gọi tên là tuyệt chủng Holocen, từ khoảng 10 000 năm trước Công Nguyên, bao gồm động vật
có vú, chim, lưỡng cư, bò sát và động vật chân đốt. Sự bùng nổ dân số
loài người kéo theo sự biến đổi khí hậu làm nhiều loài thú hoang
không nơi trú ẩn. Săn bắn lậu loài voi và loài tê giác bên Phi Châu để lấy ngà
voi, sừng tê giác v.v làm quần thể các động vật này giảm sút. Phá rừng
cũng làm nhiều thực vật tuyệt chủng. Tàn phá đại dương với đánh bắt cá quá
mức sinh sản và ô nhiễm cũng làm tài nguyên sinh vật dưới nước giảm sút .
Tục ngữ ta có câu: Nhất phá sơn lâm, nhì đâm Hà Bá. Nền nông nghiệp sử
dụng quá nhiều hóa chất đã giết chết nhiều loài côn trùng..Rừng rú nhường chỗ
cho đô thị phố xá, cho nông nghiệp vì dân số tăng lên. Thú hoang không nơi ẩn
trú và từ từ bị tiêu diệt.
3. Kết luận
Giản đồ
sau đây cho thấy có 5 nguyên nhân chính của sự giảm đa dạng sinh học: cư trú
thay đổi, lạm thác tài nguyên, ô nhiễm, biến đổi khí hậu, loài lạ xâm lấn; các
nguyên nhân này có tác động hổ tương lên nhau
Động vật hoang dã giảm hơn phân
nửa do săn bắn, do phá rừng nên muông thú không có chỗ trú ẩn . Số lượng cá voi
và sinh vật biển giảm nghiêm trọng do đánh bắt quá mức sinh sản . Phá rừng, dân
số tăng nhanh, biến đổi khí hậu, ô nhiễm toàn là những vấn đề nhức nhối mà nhân
loại phải có can đảm đối phó .
Thái Công Tụng