Teilhard de Chardin
SJ (1881-1955)
Một Thoáng Nhìn Cuộc Đời
Linh Mục Bác Học Cổ Sinh Vật Học
Đỗ Hữu Nghiêm
Linh Cảm: Hiệp
Thông Trời-Đất-Người
« Có hiệp
thông với Chúa, và hiệp thông với Trái Đất và hiệp thông với Chúa
thông qua Trái Đất » (Writings in
Time of War [Những Bài Viết Trong Thời Chiến],
New York, 1968, p. 14)
Linh mục Pierre Teilhard de Chardin đã kết
luận luận đề "The Cosmic Life," [Đời Sống Vũ Trụ]
bằng những dòng chữ như thế. Đấy là khởi điểm thích hợp để xem xét về
cuộc đời của linh mục Teilhard; linh mục viết những dòng đó năm
1916. Những dòng ấy đáng chú ý đặc biệt khi ông làm công việc ban đầu
là lính khiêng cáng trong Thế Chiến I (1914-1918). Những dòng chữ ấy
bằng nhiều cách khác nhau là dấu chỉ sớm cho thấy về công trình sau
này của linh mục.
Tuy nhiên ta nhấn mạnh đến những kinh
nghiệm hiệp thông vì chúng đưa ta trở lại thời thơ ấu ban đầu của cậu
Teilhard tại miền Nam nước Pháp rồi đến thời gian ông du hành nghiên
cứu khoa học nhiều năm. Suốt cuộc đời 74 năm, Linh mục Teilhard có
kinh nghiệm về cõi thần linh và nhìn thấu suốt vai trò con người
trong quá trình biến hóa. Đó là những quan tâm nổi bật quán xuyến cuộc
sống Linh mục. Giới thiệu vắn tắt tiểu sử của Linh mục Teilhard, ta
có thể phân biệt ba thời kỳ:
Bố Cục Nội Dung
I. Những Năm Đào Tạo
II. Những Năm Du Khảo
III. Những Năm Cuối Đời Tại
New York
I. Những Năm Đào Tạo
Ký Ức Tuổi Thơ và Gia Đình
Pierre Teilhard de Chardin chào đời ngày
1/5/1881. Cậu là con trai ông Emmanuel và bà Berthe-Adèle Teilhard
de Chardin. Cả hai bên dòng họ ông thân sinh của linh mục đều lỗi lạc.
Người ta chú ý thân mẫu linh mục là chị gái của François-Marie
Arouet, nhân vật nổi tiếng mà người ta thường biết đến dưới bút
hiệu Voltaire (1694-1778).
[François-Marie Arouet
(21 November 1694 – 30 May 1778), được người ta biết đến dưới bút
danh Voltaire. Ông là một văn sĩ, nhà viết luận đề, và triết
gia Pháp thời Ánh sáng. Ông nổi tiếng có một trí tuệ sắc sảo,
tài năng triết học và bênh vực các tự do dân sự, kể cả tự do tôn
giáo và tự do mậu dịch.
Voltaire là một nhà văn sáng tác dồi
dào và ông là tác giả của hầu như mọi thể loại văn chương như kịch
nghệ, thi ca, tiếu thuyết, luận đề, các công trình lịch sử và khoa học,
trên 20.000 lá thư và trên hai ngàn cuốn sách và tập in nhỏ.
Ông là một nhà ủng hộ cải cách xã
hội công khai, bất chấp luật kiểm tra khắt khe và hình phạt gắt
gao cho những ai bất tuân các luật lệ đó. Là người bút chiến châm
biếm, ông thường xử dụng các tác phẩm của ông phê phán giáo
điều Giáo Hội Công Giáo và các thiết chế Pháp thời ông
sống
Voltaire là một trong mấy khuôn mặt
thời Ánh Sáng (cùng với Montesquieu, John Locke, Thomas Hobbe và
Jean-Jacques Rousseau). Tác phẩm và tư tưởng của các nhân vật
này tác động đến các nhà tư tưởng quan trọng của Cách Mạng Pháp và Mỹ]
Cậu Pierre là con thứ tư trong 11 người
con của ông bà thân sinh. Cậu sinh tại Sarcenat, lãnh địa của gia
đình gần thành phố song sinh Clermont-Ferrand ở tỉnh Auvergne. Những
mỏm núi lửa tắt đã lâu trải dài khắp miền Auvergne và khu rừng phòng
hộ tại miền Nam nước Pháp. Quang cảnh đó để lại một dấu ấn sâu đặm
trong tiểu sử tự thuật thiêng liêng của Linh mục, cuốn The Heart
of Matter [Trung Tâm Của Vật Chất] như sau:
“Auvergne uốn nắn tôi, Auvergne phục
vụ tôi, vừa như một bảo tàng lịch sử tự nhiên, vừa như một khu bảo
tồn đòi sống hoang dã.
Sarcenat tại Auvergne lần đầu
cho tôi hưởng niềm vui thú khám phá ra Auvergne. Nơi đó tôi có được
những sở hữu quý báu nhất của tôi. Đó là sưu tập đá cuội và đá cổ
tìm thấy ở đây, nơi tôi đã sống”
(theo Claude Cuénot, Teilhard de Chardin, Baltimore, 1938,
tr. 3.)
Bị thế giới thiên nhiên cuốn hút,
Teilhard phát triển mạnh mẽ khả năng quan
sát lạ thường của cậu. Tài năng tuổi thanh niên này, đặc biệt được
thân phụ cậu chăm chút nuôi dưỡng. Thân phụ cậu là người rất đam mê,
thích thú khoa học tự nhiên. Tuy nhiên ký ức sớm nhất lúc tuổi thơ
không phải là giới thực vật và động vật vùng Auvergne hay những căn
nhà từng mùa của gia đình. Nhưng đó là nhận thức đáng chú ý về cuộc
đời dòn mỏng và khó tìm thấy bất cứ một thực tại vĩnh tồn nào. Cậu
nhớ lại:
« Một ký ức ư?
Ký ức sớm nhất trong đời tôi. Lúc đó
tôi lên năm hay sáu. Mẹ tôi đã lấy kéo cắt một ít mớ tóc quăn của
tôi. Tôi nhặt lấy một mớ lên và hơ ra gần lửa.
Tóc cháy xém trong tích tắc.
Tôi kêu ré lên như bị tấn công. Tôi biết rằng tôi có thể chết luôn…
Cái giá phải chịu lúc nhỏ là tôi thường đau? Vạn vạt đều bất an, Và
cái gì thường làm tôi ưa thích? Thần sắt của tôi! Kéo cầy mạnh tôi,
lấy lại lòng tin vào chính tôi, lúc 7 tuổi, tôi có một kho tàng
không hề hư nát, đời đời . Và rồi hóa ra tôi chỉ có một miếng sắt
rỉ. Khi khám phá ra điều này, tôi nằm vật trên bãi có và khóc lóc
cay cú về đời tôi”
(từ The Heart of Matter, trong Cuénot, tr. 3)
Teilhard chỉ đi một bước
ngắn để di chuyển từ “thần sắt” đến thần đá. Auvergne cho thấy nhiều
thứ đá lạ lùng: chỉ kể ra mấy thứ như amethyst, citrine, và
chalcedony. Những thứ đó lúc tuổi thơ càng làm cậu muốn tìm tòi một
thực tại thường xuyên. Chắc chắn bản tính nhạy cảm của cậu được lòng
đạo vững chắc của mẹ cậu nuôi dưỡng. Những suy nghĩ về ảnh hưởng của
mẹ cậu thật đáng chú ý, như cậu viết:
“Một tia sáng lóe lên ụp
xuống tôi, như lửa cháy bùng lên. Và chắc chắn, cái đó nhờ mẹ tôi mà
tôi thấy như thế. Thần bí Kitô giáo cháy sáng và ấp ủ tâm hồn tuổi
thơ của tôi. Chính nhờ tia sáng lóe lửa đó mà cả “Vũ Trụ” của tôi,
mới chỉ hóa thân một nửa, đã làm tôi si mê. Thế là tôi hoàn toàn tập
trung vào đấy.” (The Heart of Matter, trong Cuénot, tr.
4)
Nhờ lòng đạo lúc đầu được xây
dựng tốt, cậu có thể gia nhập Notre Dame de Mongre gần
Villefranche-sur-Saône, gần ba mươi dậm phía Bắc Lyon. Khi cậu mới
được 12 tuổi nhờ có rèn luyện tốt, mà tính tình cậu lặng lẽ và cần
cù như một ông cụ non. Trong năm năm theo học trường nội trú này,
thay vì yên ổn với đất đá, Teilhard hướng đến đời sống đạo đức Kitô
giáo. Nếp sống đạo đức đó chắc chắn chịu nhiều ảnh hưởng sách Gương
Chúa Kitô của Thomas a Kempis [Ở Việt Nam ta quen gọi là Sách
Gương Phúc]. Lúc sắp tốt nghiệp, cậu viết cho cha mẹ và ngỏ ý
cậu muốn làm một tu sĩ Dòng Tên.
Teilhard Gia Nhập Bậc Trợ Sĩ
Dòng Tên (1899-1911)
Nhờ huấn luyện trong Dòng Tên,
Teilhard thấy phấn chấn đi theo đường lối suy tư, tiếp tục dấn thân
nghiên cứu khoa học về trái đất và nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện.
Cậu vào tập viện Dòng Tên tại
Aix-en-Provence năm 1899. Lúc
ấy cậu lên 18, cái tuối đôi mươi đấy mộng mơ lý tưởng cao đẹp. Ở đấy
cậu phát triển thêm lối sống đạo đức khổ hạnh, mà cậu đã học biết
trong khi đọc sách tại Mongre. Cũng chính tại Aix-en-Provence mà cậu
làm bạn với Auguste Valensin. Anh này có học triết với
Maurice Blondel.
Đến Jersey, Một Hải Dảo Nước Anh: Pierre
Khấn Tạm (1902)
Năm 1901, phong trào bài giáo sĩ hung
hăng tại Cộng Hòa Pháp đòi trục xuất các tu sĩ dòng Tên và các dòng
tu khác khỏi Pháp. Nhà tập Aix-en-Provence năm 1900 rời lên Paris,
nay phải chuyến đến hải đảo Jersey của Anh năm 1902. Tuy nhiên trước
khi chuyển đến Jersey, ngày 26/3/1902, Pierre khấn lần đầu trong
Dòng Tên. Vào thời gian này, cuộc sống tôn giáo của Teilhard được
yên ổn trong lúc tình hình chính trị lại rất xáo trộn tại Pháp. Cậu
chỉ bị chao đảo, khi cô em Marguerite-Marie bị bệnh dần dần
khiến cô bất lực. Và như « giậu đổ bìm leo », người anh cả
Alberic trong gia đình Pierre lại bất ngờ lâm bệnh.
Alberic
chết vào tháng 9/1902, đúng lúc Pierre và các tu sĩ bạn lặng lẽ rời
Paris đi Jersey. Cái chết của người anh trước kia từng một thời
thành công, trôi nổi. Năm 1904 tiếp theo lại đến lượt cô em gái út
Louise chết, khiến Teilhard có lúc phải bận tâm chuyện thế
gian này. Quả thực, Thầy nghĩ Thầy muốn chấm dứt việc học tập này để
theo thần học. Nhưng giám tập Dòng Tên Paul Trossard lại khuyến
khích Thầy chọn theo con đường khoa học làm lối đi chính thức đến với
Chúa,
Làm Việc Tại Cairo
Từ Jersey, Thầy Pierre được gửi sang
Cairo, Ai Cập để dậy nội trú tại trường Dòng Tên Thánh Phanxicô.
Trong ba năm kế tiếp, Thầy Teilhard phát triển và chứng tỏ các xu hướng
chuyên cứu khoa học tự nhiên. Ông nhiều lần mải mê đào bới thăm dò
kéo dài ở các vùng quê gần Cairo, học hỏi về thảm thực vật và động vật
và cả các vật hóa thạch thuộc quá khứ của Ai Cập
Trong lúc chăm chỉ làm nhiệm vụ giảng dậy,
Thầy Teilhard cũng dành thời giớ thu lượm các vật hóa thạch và
trao đổi qua lại với các nhà tự nhiên học ở Ai Cập và Pháp. Những
thư tín trao đổi viết từ Ai Cập cho thấy Thầy có khả năng quan sát sắc
bén. Năm 1907 Thầy
Teilhard xuất bản công trình đầu tiên, "A Week in Fayoum."
[Một Tuần Lễ tại Fayoum] Ông cũng cho biết, năm 1907, ông tìm
kiếm được các răng cá mập tại Fayoum và các vật dụng linh
tinh tại hố di chỉ thám quật khảo cổ chung quanh Cairo. Vì thế thông
tín viên người Pháp là Monsieur Prieur giới thiệu chủng mới
mang tên Teilhardia và ba loại cá mập mới cho Hội Địa
Chất Pháp.
Tại Hastings: Tiếp Xúc Tư
Tưởng Évolution Créatrice [Cuộc Biến Hóa Sáng Tạo] của Henri Bergson
(1908-1912)
Từ Cairo, Thầy Pierre trở vế
Anh để học xong chương trình thần học tại Ore Place ở Hastings.
Trong các năm 1908-1912, Thầy P. Teilhard sống đời kỹ luật nhiệm
nhặt của một tu sĩ kinh viện Dòng Tên. Tuy nhiên Thầy vẫn duy trì
quan hệ gần gũi với gia đình. Cảm quan gia đình sâu sắc bộc lộ hiển
nhiên, khi chị cả Françoise chết năm 1911 tại Trung
Hoa. Chị là thành viên gia đình duy
nhất khác chọn đời sống tu hành. Chị là Nữ Tu Tiểu Muội Người
Nghèo, làm việc giữa những người nghèo khó tại Thượng Hải.
Teilhard đặc biệt xót xa khi biết tin chị cả chết, vì chị đã tận
hiến vô vị lợi cuộc đời chị, phụng sự Chúa và phục vụ người nghèo
khổ.
Qua những thư tín trao đổi
trong giai đoạn ở Hastings này, người ta thấy Thầy Pierre học
chương trình thần học dầy đặc.
Chuơng trình ấy đòi hỏi nhiều, nên Thầy không có bao nhiêu thời giờ
thám sát địa chất các dốc núi đá vôi miền Hastings và miền đất
sét bên cạnh tại Weald. Nhưng
các lá thư ấy vẫn cho thấy Thầy thích thú cả hai chương trình này.
Tóm lại ba xu hướng phát triển khác nhau nhưng có liên hệ với nhau
cùng xảy ra trong giai đoạn này. Chúng có tác động quan trọng đến
cuộc đời tương lai của Teilhard. Đó là Thấy mải miết đọc cuốn
Creative Evolution [Cuộc Biến (hay Tiến) Hoá Sáng Tạo] của
Henri Bergson. Lập trường tư tưởng này tấn công chống lại
thuyết hiện đại của Giáo Hoàng Piô XII, và đúng lúc ấy Thầy khám
phá ra răng hóa thạch ở vùng Hastings.
Khi đọc tác phẩm Creative
Evolution mới xuất bản của Henri Bergson, Thầy Teilhard gặp một
nhà tư tưởng đánh đổ chủ nghĩa nhị nguyên Aristotle về vật chất
và tinh thần, ủng hộ lập trường cho rằng vũ trụ tiến hóa
chuyển động theo thời gian. Teilhard cũng thấy chữ tiến hóa và
hiểu rõ tư tưởng ấy nơi Bergson. Âm hưởng của từ này khiến Thầy liên
kết, như Thầy nói, “với mật độ và cường độ của quang cảnh tại Anh
mà Thầy thấy xuất hiện - nhất là lúc mặt trời lặn. Cánh rừng
Sussex dường như ẩn chứa cuộc sống hóa thạch mà tôi đang thăm dò,
từ hố thám quật này đến hố khác, tại miền đất Weald”. (Từ The
Heart of Matter, trong Robert Speaight, The Life of Teilhard
de Chardin [Cuộc Đời Của Teilhard de Chardin], New York,
1967, tr. 45).
Khi đó từ Bergson, Teilhard
nhận thức ra một viễn tượng tiến hóa luôn tiếp diễn. Đối với
Bergson, tiến hóa luôn luôn là một tiến trình mở rộng, một “Tide
of Life” [Luồng Triều Cuộc Sống] không có mục đích tối
cao nào điều hướng. Teilhard chắc bất đồng với Bergson về
hướng đi của vũ trụ. Về sau, Thầy đưa ra cách giải thích của
Thầy về quá trình tiến hóa dựa vào những năm Thầy có thời gian xen
kẽ làm thực địa.
Năm 1903 khi Pierre ở Ai Cập,
Đức Piô X lên kế vị Đức Lêô XIII làm Giáo Hoàng. Giáo
triều Bảo Thủ Ý đã bỏ khoảnh khắc nhìn về phía trước của Đức Lêô,
ủng hộ việc ngăn chặn và công kích một loạt tư tưởng mang nhãn hiệu
“chủ nghĩa duy tân” trong Thông Điệp Pascendi (1907) và sắc
lệnh Lamentabili (1907). Trong số nhiều công trình mới nhất
được xếp vào danh sách Các Tác Phẩm Cấm Đọc có cuốn Creative
Evolution của Henri Bergson, mặc dù nó vẫn chưa bị hoài nghi khi
Teilhard đóc cuốn ấy tại Hastings. Chính trong môi trường Giáo Hội
như vậy, Thầy Teilhard vẫn cố phát biểu rõ ràng viễn tượng đang
nổi lên về tính cách thiêng liêng của vũ trụ.
Cũng chính những năm ở
Hastings, Thầy Teilhard và nhiều tu sĩ Dòng Tên khác gặp nhà cổ sinh
vật học tài tử Charles Dawson. Vì những năm Pierre thu thập
tại Cairo, Thầy ngày càng quan tâm nhiều đến các vật hóa thạch và
đời sống tiền sử, nhưng Thầy chưa phải là một nhà cổ sinh vật học
chín chắn. Thời gian học hỏi của ông chưa cho ông phát triển tài
năng cần thiết để định niên đại chính xác vá xác định các vật hóa
thạch tiền sử.
Phần nào có liên kết giới hạn
với Dawson, Teilhard phát hiện ra răng hóa thạch trong một
chuyến đào bới thám quật khiến cộng đồng khoa học biết đến tên tuổi
Thầy. Hơn nữa Teilhard có thích thú nghiên cứu khoa học về đời sống
con người thời tiền sử, nay đã được kết tinh theo chiều hướng có thể
có sau khi Thầy thụ phong linh mục tháng 08/1911
Những Công Trình Khoa Học
Sau Khi Thụ Phong Linh Mục
Giữa năm 1912 và 1915,
Teilhard tiếp tục khảo học về cổ sinh vật học. Nhưng linh mục có
nhiều sáng kiến khi gặp gỡ Marcellin Boule tại Museum of Natural
History [Viện Bảo Tàng Lịch Sử Tự Nhiên] và khi theo những lớp
học tại Viện Bảo Tàng Paris và tại Institut Catholique
với Georges Boussac. Nhờ đó linh mục Teilhard bây giờ bắt đầu phát
triển khả năng chuyên khảo địa chất học về thời kỳ Eocene giúp ông
lấy văn bằng tiến sĩ năm 1922
Ngoài ra, Pierre còn gia nhập
nhóm các nhà cổ sinh vật học thành danh, như Abbé Henri Breuil,
Linh mục Hugo Obermaier, Jean Boussac và nhiều người
khác khi phát quật các hang động giai đoạn Aurignacian ở miền Nam
Pháp. Đấy là những cuộc thám quật tại các cánh đồng hóa thach dạng
phosphorite ở Bỉ và tại các miền đất cát hóa thạch vùng núi Alps
thuộc Pháp. Trong khi đang phát triển chuyên nghiệp khoa học đầy hứa
hẹn, thì tại Paris Teilhard cũng quan hệ lại với người chị em họ
Marguerite Teilhard Chombon. Qua Marguerite, Teilhard đi vào môi
trường xã hội giúp ông có thể trao đổi tư tưởng và tiếp nhận thêm
các chú giải phê bình theo nhiều viễn tượng khác nhau. Teilhard phát
triển tư tưởng của ông trong môi trường này, cho đến khi Thế Chiến I
bùng nổ năm 1914
Khi chiến tranh nổ ra vào
tháng 08/1914, thì Teilhard trở về Paris để giúp Boule
sắp xếp vào các gian phòng viện bảo tàng, đồng thời giúp Marguerite
chuyển trường nữ mà cô đứng đầu thành bệnh viện, và chuẩn bị cho
việc tiến hành tiêp nhận làm thành viên cuối cùng của riêng ông.
Tháng Tám năm ấy là một tháng thảm hại cho quân đội Pháp, vì lực
lượng Đức đã thi hành Kế Hoạch Schieffen thành công. Kết quả là
khoảng cuối tháng Tám, quân Đức đã tiến đến gần Paris khoảng ba mươi
dậm. Tháng Chín, Quân Pháp tập kết tại Marne và người dân Paris có
phần dễ thở hơn. Vì việc tiếp nhận của Teilhard được hoãn lại. Các
Bề Trên Dòng Tên của Teilhard quyết định phái ông trở lại Hastings
học chương trình cấp ba [tertianship], năm
trước khi khấn trọn đời. Hai tháng sau có tin em trai ông
Gonzague bi tủ trận gần Soissons. Nhắc lại việc này về sau,
Teilhard nhận được lệnh làm nhiểm vụ báo cáo trong một đại đội mới
thành lập tại Auvergne.
Sau khi thăm viếng cha mẹ và
Guiguite, người em bị tàn phế tại Sarcenat, linh mục bắt đầu làm
nhiệm vụ khiêng cáng với mấy người Zouaves Bắc Phi vào tháng 01/1915
Chiến tranh tác động mạnh mẽ
đến Teilhard. Điều ấy được ghi lại trong các thư tín gửi cho người
chị em họ Marguerite. Bây giờ chị được nói đến trong công trình
The Making of a Mind [Cuộc Hình Thành Một Tinh Thần].
Cuốn đó cho ta hình ảnh gần gũi về Teilhard. Ban đầu ông phấn chấn
làm một quân nhân linh mục. Ông phải hạ mình khiêng cáng trong khi
những người khác phải đeo vũ khí. Ông kiệt sức sau những bận rộn
đánh nhau tàn bạo tại Ypres và Verdun. Nhưng ông vẫn can đảm lo cứu
các đồng đội của Quân Đoàn Hỗn Hợp Thứ Tư. Ông vẫn có cái nhìn thần
bí kín đáo, tập trung trông thấy thế giới tiến hóa ngay giữa lúc
chiến tranh. Trong các thư tín này, người ta thấy nhiều mầm mống tư
tưởng giúp Teilhard phát triển trong những năm sau này. Chẳng hạn
trong lúc ngưng chiến trong trận đánh dữ dội tại mặt trận Verdun năm
1916, Teilhard viết cho người chị em họ Marguerite những lời lẽ sau
đây:
“Tôi không biết sau này loại đài kỷ niệm quốc
gia nào người ta sẽ đế trên đồi
Froideterre để nhớ đến trận đánh lớn này. Chỉ có một tượng đài xứng
đáng là tượng Chúa Kitô thật lớn. Chí có hình ảnh Người bị treo trên
thập giá mới có thể tổng kết, biểu lộ và nêu lại tất cả cái ghê tởm,
và vẻ cao đẹp, niềm hy vọng và mầu nhiệm sâu xa trong cơn lũ lở bùn
trôi đầy tranh chấp và đau đớn. Đứng trước cảnh quan nhọc nhằn cay
đắng này, tôi cảm thấy một tư tưởng đã hoan toàn chiếm đoạt tôi. Tôi
đã được vinh dự đứng tại một trong vài ba địa điềm cho thấy tại
chính đó, vào đúng lúc này, toàn thế đời sống vũ trụ vượt lên và
trào dâng các nơi đau đớn, trừ nơi đây một tương lai lớn (điều đó
tôi ngày càng tin) thành hình”
(The Making of a Mind, New York, 1965, tt. 119-20.)
Suốt gần bốn năm này chiến
đấu dưới hầm hố đẫm máu, quân đoàn của Teilhard chiến đấu trong một
số trận đánh tàn bạo nhất tại Marne và Ypres (1915), Nieuport
(1913), Verdun (1917) và Chateau Thierry (1918).
Chính Teilhard tích cực trong
mọi cuộc dấn thân tham gia chiến đấu của quân đoàn.
Nhờ đó ông được ân thưởng Chevalier de
la Légion d'Honneur [Hiệp Sĩ Đội Quân Danh Dự] năm 1921.
Suốt thư tín trao đổi, ông
viết rằng mặc dầu có xáo trộn, ông cảm thấy có một mục đích hướng
dẫn đến chỗ sống. Đời sống đó còn tiềm ẩn và mầu nhiệm hơn lịch sử
thường cho thấy. Teilhard phát hiện thấy ý nghĩa lớn lao này thường
bộc lộ trong lúc chiến đấu sôi động. Ở một trong nhiều đề mục viết
lúc chiến tranh, Pierre diễn tả các quân nhân nghỉ phép có kinh
nghiệm mâu thuẫn về căng thẳng ở tiền tuyến. Ông nói đến chuyện này
trong một lá thư ông viết:
“Tôi vẫn ở trong billets yên tĩnh như thế. Chúng
tôi thấy tương lai của chúng tôi vẫn khá mù mờ, cái gì sẽ tới khi
nào. Điều gì tương lai áp đặt lên cuộc
sống hiện tại của chúng tôi không hẳn là cảm thức suy trầm; đúng hơn
đó là một cái gì nghiêm trọng, từ bỏ, phải mở rộng tầm nhìn xa hơn
nữa. Dĩ nhiên cảm thức này không hẳn là buồn chán, nỗi buồn sau mỗi
lần có thay đổi cơ bản; nhưng nó lại dẫn đến một thứ vui mừng lớn
lao hơn… Tôi gọi nó là `Nostalgia for the Front' [Nhớ Tiền Phương].
Tôi tin có nhiều lý do dẫn tới việc này. Tiền tuyến không thể chỉ
lôi cuốn chúng ta, vì một cách nào nó là đường biên giữa cái ta đã
chú ý tới và cái vẫn đang hình thành. Không phải ta thấy ở đó những
điều mà bạn nghiệm thấy không có ở bất kỳ đâu khác, nhưng ta cảm
thấy từ bên trong ta một luồng sáng, một năng lực, và một tự do
nằm ẩn bên dưới.
Khó tìm thấy luồng đó ở bất
kỳ đâu khác trong đời sống bình thường. Đó là hình thức mới mà khi
đó linh hồn mặc, là hình thức mà mọi cá nhân sống đời gần như tập
thể. Con người đó thực hiện một chức năng cao cả hơn chức năng của
cá nhân, và dần dần hoàn toàn nhân thức về tình thế mới này. Nó vẫn
đi mà không nói cho biết ở phía trước bạn không nghĩ đến các sự vật
giống như bạn ở phía sau; nếu bạn làm thì cái thâm sâu hơn bạn đang
sống và cuộc sống đang hướng tới có thể còn hơn cái bạn có. Việc
thăng hoa có kèm theo chút đau đớn. Tuy nhiên đó thực sự là một cuộc
nâng lên cao. Và vì thế tại sao ta thích cái trước mặt bất chấp mọi
sự, dù mất nó.” (The
Making of a Mind, tr. 205.)
Teilhard có khả năng phát
biểu rõ ràng. Đó là hiển nhiên qua những dòng chữ này. Hơn nữa, ông
cố gắng diễn tả viễn tượng cuộc sống đang phát triển trong những cơ
hội tạm nghỉ (furlough) Thời gian ấy cũng giúp ông cảm thấy trước là
sau này giáo hội sẽ tiếp nhận công trình của ông. Vì mặc dù Teilhard
được phép khấn trọn trong Dòng Tên vào tháng 05/1918, thì
những bút cảo của ông từ chiến trường đã khiến Bề Trên Dòng Tên của
ông phải suy tính nhiều, nhất là việc ông tư duy lại các đề tài như
tiến hóa và tội
nguyên tổ. Dần dần Teilhard nghĩ rằng giáo hội rất cần phải, như ông
nói, “… giới thiệu giáo điều một cách thích hợp, có tính vũ
trụ hơn - một cách vũ trụ học hơn” (The Making of a Mind,
tt. 267-8).
Những ý nghĩ này thường làm
cho Teilhard có cảm thức “được suy tính với cái chính thống và
cái khác chính thống” (The Making of a Mind, tr. 277).
Ông thâm tín rằng nếu ông đã thực sự thấy một điều chi, như ông cảm
thấy như thế, thì điều trông thấy sẽ sáng tỏ bất chấp mọi trở ngại.
Như ông nói trong một lá thư viết năm 1919:
“Cái làm cho tâm trí tôi
thấy dễ dàng hơn ở chỗ liên kết này là các lược điểm giảng dậy khá
mạo hiểm của tôi thực sự chỉ quan trọng thứ yếu đối với tôi. Gần như
đó không phải là chính ý tưởng về tinh thần mà tôi muốn truyền bá:
một tinh thần có thể làm sinh động mọi diễn dịch bên ngoài" (The
Making of a Mind, tr. 281).
Những Ngày Tháng Năm Sau
Thời Gian Giải Ngũ (1919-1923)
Sau khi giải ngũ ngày
10/03/1919, trong giai đoạn hồi sức Teilhard trở về Jersey, học
tập chuẩn bị để làm xong văn bằng Tiến sĩ địa chất học tại Sorbonne,
vì linh mục giám tỉnh Dòng Tên Lyon cho phép Teilhard tiếp tục theo
chuyên ngành khoa học tự nhiên. Trong giai đoạn ở Jersey, Teilhard
đã biên soạn tác phẩm đầy tinh thần cầu nguyện sâu xa về "The
Spiritual Power of Matter. [Quyền Lực Tâm Linh của Vật
Chất]"
Sau khi trở lại Paris,
Teilhard tiếp tục học hỏi với Marcellin Boule về các hóa thạch lân
quặng (phorphorite) thời kỳ Hạ Tân Thạch (Lower Eocene)
tại Pháp. Các nghiên cứu thực địa trên địa bàn rộng lớn đưa linh mục
sang Bỉ. Tại đó linh mục cũng diễn thuyết thẳng với các câu lạc bộ
sinh viên về ý nghĩa tiến hóa có tương quan thế nào với thần học
Pháp đương thời. Vào khoảng mùa thu năm 1920, Teilhard đã giữ một
ghế giảng dậy địa chất tại Institut Catholique, diễn
giảng cho cử tọa sinh viên. Họ đều biết linh mục là một người tích
cực cổ vũ tư tưởng tiến hóa.
Phản ứng bảo thủ trong Giáo
Hội Công giáo bắt đầu trong thời giáo triều Đức Piô X nhưng ngài
chết năm 1914. Giáo Hoàng Biển Đức XV mới lên kế vị, tái tục cuộc
tấn công vào chủ thuyết tiến hóa, vào “nền thần học mới” và vào một
chuỗi luận đề rộng lớn bị Giáo triều Vatican đe dọa vì nhận thức là
sai lầm. Bầu khí trong các câu lạc bộ của giáo hội có vẻ rộn ràng về
loại công việc Teihard đang làm.
Dần dần điều đó lại thuyết
phục người ta hiểu rằng công việc thực địa sẽ không phải chỉ giúp
nghề nghiệp của ông, mà còn làm cho những cãi vã liên quan đến linh
mục và các nhà tư tưởng Pháp phải yên lặng. Cơ hội khảo sát thực địa
tại Trung Hoa đã mở đường cho Teilhard từ rất sớm năm 1919, khi nhà
khoa học Dòng Tên là Emile Licent ngỏ lời mời. Linh mục đãm nhiệm
công trình cổ sinh vật học vùng chung quanh Bắc Kinh. Ngày 1/4/1923,
Teilhard đáp tàu ở Marseilles, trực chỉ đi
Trung Hoa. Dần dà linh mục hiểu rằng “chuyến đi
ngắn ngủi” này sẽ dẫn ông tiếp tục chuyên du hành nhiều năm về sau.
II. Nhưng Năm Du Khảo (1914-1946)
Trong giai đoạn đầu, Teilhard
ở Thiên Tân, một thành phố duyên hải cách Bắc Kinh khoảng 80 dặm.
Tại đó, Emile Licent xây dựng một viện bảo tàng chứa những vật hóa
thạch mà ông thu thập từ khi ông đến đây năm 1914. Hai tu sĩ dòng
Tên Pháp làm việc theo cung cách trái ngược nhau. Licent, một người
miền Bắc, ăn mặc xuề xoà, yên lặng và rất độc lập trong việc mình
làm. Ban đầu ông chú ý thu thập các vật hóa thạch hơn là giải
thích ý nghĩa của chúng. Teilhard thì trái lại, có tính thành
thị hơn, ông thích thú các cuộc hội hè trò truyện. Ở đấy ông có thể
thuật lại các kiến thức địa chất của ông trên lãnh vực khoa học và
giải thích rộng rãi hơn.
Hầu như ngay lập tức sau khi
đến Trung Hoa, Teilhard làm quen ngay với sưu tập của Licent và theo
ông này thúc đẩy, Teilhard viết một báo cáo cho Hội Địa Chất Học
Trung Hoa [Geological Society of China]. Tháng 08/1923,
Teilhard và Licent nhận thự hành một chuyến viễn du vào tận sa mạc
Ordos, Tây Bắc Kinh, gần biên giới với Nội Mông.
Chuyên viễn thám này và những
chuyến đi kế tiếp trong thập niên 1920 với Emile Licent đã giúp
Teilhard có những thông tin vô giá về các di vật Cổ thạch tại Trung
Hoa. Thư tín trao đổi của Teilhard trong thời kỳ này cho thấy ông có
thể quan sát sâu vào dân tộc, cảnh quan, thực vật và động vật trong
vùng này. Trong những năm du hành này, Teilhard quan tâm trước hết
vào địa mạo thiên nhiên. Mặc dù ông có hoạt động qua lại với nhiều
nhóm chủng tộc khác nhau, ông ít khi đi vào văn hóa của họ mà chỉ
chú trọng đến điều đó khi cần làm
nhanh công việc ông bận rộn tức là thanh thỏa mối quan tâm tổng
quát.
Một trong những điều khôi hài
của nghề ông là truyền thống Khổng Tử và truyền thống ấy quan tâm về
ý nghĩ căn tính vũ trụ Nhưng tương quan trời, đất và người kiểu đó
vẫn không là mối quan tâm của Teilhard. Tương tự, Teilhard coi các
dân tộc bộ lạc và linh đạo qui hướng về đất chỉ là một giai đoạn ban
đầu sớm trong quá trình tiến hóa của mặc khải Kitô giáo. Teilhard
trờ về Paris tháng 09/1924 và giảng dạy lại tại Institut Catholique.
Nhưng bầu khí trí thức của Công giáo Âu Châu không có những biến đổi
có ý nghĩa.
Giáo hoàng Pius XI, vị GH mới
từ năm 1922, đã để cho các nhóm bảo thủ tung hoành thống trị. Chính
trong bầu khí trái nghịch này, một bản sao tham luận mà Teilhard đã
phân phát tại Bỉ đến được Rôma. Một tháng sau khi từ Trung Hoa trờ
về, Teilhard được lệnh trình diện trước Bề Trên giám tỉnh để ký phát
biểu khước từ những ý tưởng của ông về nguyên tội. Auguste Valensin,
người bạn cũ của Teilhard đang dậy thần học ở Lyon, và Teilhard tìm
lời khuyên của ông liên quan đến phát biểu khước từ kia của ông.
Trong một phiên họp có ba tu sĩ Dòng Tên , Bề Trên đồng ý gửi
dến Roma một bản dịch đã xem lại tham luận trước
kia của Teilhard và trả lời của ông cho lời phát biểu khước bác.
Tinh Quyển [Noosphere] Với
Teilhard de Chardin
Trong khoảng thời gian trước
khi nhận câu trả lời của Roma đối với lập trường duyệt lại của mình,
Teilhard tiếp tục các lớp của linh mục tại Institut. Các sinh viên
trong các giáo trình nhớ lại vị giáo sư trẻ trung năng động khi phân
tích thấu đáo của ông về homo faber. Theo Teilhard, con người
là loài làm ra dụng cụ và con người dùng lửa biểu thị một khoảnh
khắc có ý nghĩa khi phát triển nhận thức nhân bản hay việc nhân hoá
chủng loại. Chính trong giai đoạn này Teilhard bắt đầu dùng thuật
ngữ của Edward Suess, (« sinh quyển », hay tầng sát
mặt đất của các loài sống, trong lược đồ địa chất của linh mục. Rồi
Teilhard mở rộng ý niệm bao gồm các hữu thể tư duy trong tầng sát
mặt đất này linh mục gọi là « noosphere »
[Đối với Teilhard,
noosphere [tinh quyển] là thuật ngữ diễn tả tốt nhất một thứ
“nhận thức tập thể” của các nhân thể. Noosphere nẩy sinh từ các tinh
thần con người tương tác giao thoa nhau. Noosphere đã phát triển lên
từng bước tương ứng với quá trình quần thể nhân loại quan hệ với
nhau, khi loài người sinh sôi nẩy nở đầy trái đất. Khi loài người tự
tổ chức thành các hệ thống xã hội phức tạp hơn, thì noosphere sẽ
phát triển cao hơn trong nhận thức. Đó là quá trình bảnh trướng Luật
Phức Tạp/Nhận Thức trong viễn tượng của Teilhard, luật này diễn tả
bản tính biến hóa trong vũ trụ. Pierre Teihard de Chardin còn nói
thêm rằng noosphere đang phát triển hướng tới hội nhập, đồng qui và
thống nhất lớn lao, lên đến đỉnh tột cùng là Điểm Omega
[Omega Point], mà theo nhãn quan của ông, đó là cứu cánh của
lịch sử].
Câu nói tổng hợp có ý nghĩa
nhất của ông về hiện tượng này là câu: ”Tout ce qui monte, se
converge”[Tất cả những gì thăng hoa, đều đồng qui hội
ngộ nhau]. Ngày nay con người có xu hướng đối thoại, toàn
cầu hóa, hòa giải, hơn là đối đầu và xé lẻ vị kỷ
Nhìn theo viễn tượng đó, ta
thấy con đường nhân loại đang tiến tới đối thoại, đồng qui, hợp nhất,
toàn cầu hóa, không kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, màu da, văn hóa, ….
Trong nhiều Giáo Hội, đặc biệt trong Giáo Hội Công Giáo, Hội Đồng
Liên Tôn thành hình, các khối liên minh lớn hơn cũng đang thành lình
một cách có hiệu lực hơn.
Hoa Kỳ Hiệp Chủng Quốc,
USA, thực tế qui tụ 50 quốc gia gồm nhiều chủng tội khác nhau.
Liên Minh Châu Âu tức là tổ chức Liên Âu, qui tụ 27 quốc gia
Châu Âu. Hiệp Hội Các Nước Đông Nam Á, qui tụ 12 nước
vùng Đông Nam Á. Các Tổ Chức Liên Đoàn Ả Rập, Khối Bắc Phị, Đông
Phi, Trung Phi, Tây Phi và Nam Phi, Khối Anzus. Toàn cầu hóa
không còn chỉ là một viễn tượng không tưởng mà là một thực thể với
quyền lợi chính trị, xã hội, văn hóa, kinh tế chồng chéo liên kết
ràng buộc các nước khác nhau trên toàn cầu.
Với hệ thống internet, các
máy tính điện tử, với hệ thống vệ tinh
không gian thường trực chung quanh địa cầu, con người thực sự liên
kết thành một khối thống nhất trong mạng lưới tri thức và thông tin
nhanh chóng toàn cầu vượt không thời gian, biên cương các quốc gia.
Kiến thức nhanh chóng trở thành kho tri thức tức khắc chung của toàn
thể nhân loại, mà không chỉ là của riêng một nhóm người hay cá nhân
nào. Đúng là thế giới đang ở trong giai đoạn Noosphere, nứa thực nửa
áo, dường như đang trên quá trình vật chất biến hóa thể nhập hợp
nhất với tinh thần. Con người vẫn là thể hình vật chất, những ngưỡng
vọng cõi vô hình tiến tới Đích Điểm Omega, chấm dứt lịch sử nhân
loại và kết hợp trong một cuộc trường sinh mới. Ở đó vật chất
và tinh thần dường như kết hợp thành một như kiếu Tiểu Ngã kết hợp
trong Đại Nhã, Atman kết hợp thành Brahma, Cá thể nhân loại tan biến
trong Toàn Thể Tuyệt Đối
Noosphere bắt nguồn từ tiếng
Hy lạp “nous” có nghĩa là « tinh thần ». Trong khi các bài giảng của
linh mục đã đầy ắp hết sức có thể, ảnh hưởng của linh mục đã gây xáo
trộn khối Giám mục Pháp bảo thủ. Kết quả là họ báo cáo về linh mục
với viên chức Vatican, đồng thời gây áp lực lên các tu sĩ dòng Tên,
yêu cầu linh mục phải yên lặng. Bề Trên
Tổng Quyền Dòng Tên lúc đó là Vladimir Ledochowski, một cựu sĩ quan
quân đội Áo. Bề Trên này rõ ràng là người
đứng về phía nhóm bảo thủ tại Vatican. Vì thế năm 1925, Teilhard lại
được lệnh phải ký phát biểu bác bỏ các lý thuyết gây tranh cãi của
và tự đi khỏi Pháp từ sau khi các khóa bán niên chấm dứt.
Các đồng nghiệp của Teilhard
tại Viện Bảo Tàng, Marcellin Boule and Abbé Breuil, khuyến cáo linh
mục nên bỏ Dòng Tên và trở thành linh mục triều. Bạn ông, Auguste
Valensin, và nhiều người khác khuyến cáo nên ký phát biểu và giải
thích việc linh mục lam. Hành vi đó là một cử chỉ trung tín với Dòng
Tên hơn là một củ chỉ đồng ý trí thức theo yêu cầu của Giáo triều.
Valensin lập luận rằng Teilhard cuối cùng phải nghiêm chỉnh đúng đắn,
vì ông bận tâm đến Thiên Đàng. Sau một tuần tĩnh tâm và suy tư theo
phương pháp Linh Thao I Nhã, Teilhard ký văn kiện tháng 07/1925.
Cùng tuần đó Các Viễn Ảnh « Monkey Trial » [Vụ Án Khỉ] tại
Tennessee tranh cãi giá trị hữu hiệu của biến hóa.
Môi Trường Đưa Đến “Cảnh Vực
Thần Linh”
Vào mùa xuân năm sau,
Teilhard đáp tàu hơi nước trực chỉ Viễn Đông. Thời kỳ tại Thiên Tân
với Licent ghi dấu với một số những phát triển có ý nghĩa. Trước hết,
Thái Tử và Công Nương Thụy Điển đến viếng thăm Trung quốc và sau này
Alfred Lacroix từ Viện Bảo Tàng Lịch Sử Tự Nhiên Paris cũng đến
viếng thăm nơi đây. Nhờ đó, Teilhard ở vào một tình thế mới tại Bắc
Kinh và người ta chú ý việc linh mục di chuyển dần từ Thiên Tân đến
các câu lạc bộ khoa học phức tạp hơn của Bắc Kinh.
Ở đây nhiều toán người Mỹ,
Thuy Điển, Anh bắt đầu cùng nhau làm việc tại di chỉ gọi là Chu Khẩu
điếm [Chou-kou-tien]. Teilhard tham gia công việc với họ, góp phần
tri thức của mình về quá trình hình thành địa chất Trung Hoa và các
hoạt động chế tác dụng cụ nơi người tiền sử tại Trung Hoa. Cùng với
Licent, Teilhard đảm nhiệm cuộc viễn thám tới DalaiNor ở Bắc Bắc
Kinh. Cuối cùng, để cố gắng phát biểu các quan điểm của Linh mục
theo cho cách các bề trên của linh mục có thể chấp nhận được,
Teilhard biên soạn cuốn The Divine Milieu [Cảnh Vực Thần Linh].
Đây là một Luận Văn thần bí được cống hiến cho những ai yêu mến thế
giới. Tác phẩm này nói rõ cái nhìn của linh mục về con nguời như “vật
chất ở giai đoạn cháy bỏng”
Đồng thời Teilhard đã trao
đổi thư tín với các bề trên của linh mục. Cuối cùng các vị ấy cho
ông trở lại Pháp tháng 08/1927. Nhưng ngay trước khi tới Marseille,
tư tưởng của ông lại bị công kích do một chuỗi các bài ông diễn
thuyết được xuất bản trong một tờ báo Paris. Trong khi Teilhard biên
tập và viết lại The Divine Milieu tại Paris, thì linh mục mất
kiên nhẫn vì có người chống đối lại những phê phán của ông. Cuối
cùng, tháng 06/1928, Phụ tá Bề Trên Tổng Quyền Dòng Tên đến Paris
nói với ông rằng ông phải chấm dứt toàn bộ công trình thần học của
ông. Trong bầu khí cuỡng ép này, Teilhard buộc phải trở về Trung Hoa
tháng 11/1928
[The Divine
Milieu [Cảnh Vực Thần Linh] là viễn ảnh rõ
nét và hấp dẫn của Pierre Teilhard de Chardin. Đó
là một quan điểm Kitô giáo cấp tiến và lạc quan. Nhiều người chắc
không hoàn toàn hiểu được quan điểm chung đó. Viễn ảnh của Teilhard
không trùng khớp với các loại thần học hiện thời. Người đọc nhận
thức tập chú vào văn chương, bị các xu hướng đổi mới thần học và tâm
linh, do Công đồng Vatican II đưa ra, thúc đẩy.
Louis M. Savary đã giới thiệu lại bản văn
Cảnh Vực Thần Linh. Savary là nhà thần học rõ rệt và tâm
linh lưu loát, biên soạn nhiều sách. Ông là một bậc thầy giải thích
bản văn rất súc tích và mù mịt, thường khó lĩnh hội của Teilhard.
Ông giả định người đọc đã đọc bản dịch tiếng Anh năm 1960 của nhà
xuất bản Harper Torchbook và sắp xếp bản văn của ông theo cách phân
chia của lần xuất bản nguyên thủy đó.
Trước tiên Savary
đưa ra cách giải thích mở rộng về một phần đặc biệt của bản văn,
một giải thích có ý nghĩa, luôn luôn dài hơn bản nguyên thủy. Ông
dẫn độc giả đọc nguyên văn. Rồi để giúp người đọc đi vào phần tường
thuật, Savary trình bày bài tập để cá nhân đánh giá bản văn. Ví dụ,
trong đoạn “Tính tiết giảm thụ động” (Passivities of
Diminishment), ông hướng dẫn:
Nhiệm vụ ở đây là liệt kê các tiết giảm thụ động
bên trong và bên ngoài của con người. Thông thường, ta quen nội tâm
của ta hơn, và nó gây khó cho ta có thể hoạt động và hành động vì
lợi ích của ta. Vì thế phần lớn mọi người bắt đầu thế này: vật
chất, cảm xúc, trí tuệ, xã hội, và tâm linh là các lãnh vực mà
ta khởi đầu.
Sau đó, hãy bắt đầu
theo dõi các tiết giảm thụ động bên ngoài của con người. Một khi ta
đã nhận thức chúng và liệt kê chúng ra, Teilhard sẽ giải thích thách
thức mà con người đối mặt, khi giải quyết chúng theo vấn đề của
Cảnh Vực Thần Linh.
Các thao tác này rải rác tự do qua từng đoạn.
Nói tắt lại, phương pháp sư phạm của Savary không
phải chỉ soi sáng bản văn bằng các giải thích, mà còn giúp người đọc
đánh giá nhận thức của Teilhard, bằng các thao tác áp dụng vào đời
sống cá nhân. Savary có công trình bày tư tưởng của Teilhard không
chỉ là một tổng hợp thần học kỳ diệu để nhận thức, mà còn là tâm
tính tâm linh thực hành để sống. Người trung thành với viễn ảnh
thần học của Teilhard sẽ đánh giá cao chiều kích này của cuốn sách
của Savary.
Câu hỏi nấy sinh: “Tại sao làm sống lại hứng
thú về Cảnh Vực Thần Linh, một bản văn Teilhard viết năm
1929?” Lời nói đầu của tác giả giải thích. Cảnh Vực Thần Linh
là trọng tâm quá trình tự nhận thức của Teilhard như một người hết
lòng cam kết vừa với ơn gọi của ông như một linh mục dòng Tên,
vừa với ơn gọi là một nhà khoa học. Cảnh Vực Thần Linh
có thể là diễn dịch của Teilhard về suy niệm kết thúc khóa Linh Thao
theo Thánh Ignatius Loyola. Chiêm niệm để có được tình yêu thần linh
(the Contemplation for Obtaining Divine Love).
“Mục đích của ông khi viết Cảnh Vực Thần Linh
là muốn chia sẻ với chúng ta, với tính cách một tu sĩ dòng Tên và
một nhà khoa học tận tụy, làm sao ông học biết cách sử dụng đôi mắt
mới của Ignatius. Nhờ đó, ông nhìn thực tế tâm linh ngày nay—trong
thế giới nam nữ đương thời đang sống, được khoa học và kỹ thuật hoàn
toàn thông tin và chuyển hóa.”
Bản văn là trọng tâm tâm linh của Teilhard như
một Kitô hữu. “Với Teilhard, Đức Kitô ngày nay không thể chỉ giới
hạn vào Đức Giêsu Nazareth phục sinh, mà còn bao gồm Đức Kitô vũ trụ
(the Cosmic Christ). Đức Kitô hiện diện trong mọi tế bào của
vũ trụ thụ tạo đang tiến hóa không ngừng.” [ For Teilhard Christ
today cannot be limited to the risen Jesus of Nazareth but must
include the Cosmic Christ, the Christ present in every cell of the
ever evolving created universe]
“Với Teilhard, Thân thể vũ trụ (the Cosmic
Body) trở thành ý thức hoàn toàn về chính mình trong mọi tế bào của
hiện thân mình theo cách mọi tế bào đều ý thức về vận mệnh phi
thường của Toàn Thân. Khi Thân thể Kitô này nhận ra chính mình là
thực tại thần linh mà nó đã luôn muốn trở thành, khoảnh khắc đó sẽ
là cái Teilhard gọi là Đích Điểm Omega (Omega Point).”
Phụ đề cuốn sách này có ý nghĩa đặc biệt là “Nhận
Thức của Teilhard”, dù các giới chức Vatican hoài nghi khi nó
vừa xuất hiện. Ngày nay ngày càng có nhiều nhóm khoa học và thần học
xác định về nó. Teilhard hiển nhiên gợi lên “bản thể thứ ba”
của Đức Kitô, ngoài bản thể nhân loại và thần linh của Đức
Giêsu Nazareth. Đó là “bản thể vũ trụ của Đức Kitô.” Savary
tóm tắt:
‘Bản thể vũ trụ đó rõ ràng khác biệt với
bản thể con người của Đức Giêsu Nazareth, và rất khác biệt
với bản thể thần linh của Ngôi Hai trong Ba Ngôi. Bản thể vũ
trụ đó có khả năng tiêu biểu là đưa vào và hòa nhập vào “bản thể”
của mình mọi “bản thể” khác nhau của thụ tạo vật, từ “các bản thể”
các phiến đá ù lì và thấp kém nhất cho đến “các bản thể” mọi tạo vật
ở tầm mức ngày càng cao có ý hức phức tạp. Từ đó, với Teilhard, như
với Thánh Phaolô, có ba bản thể trong Đức Kitô. Đức Kitô hoàn
toàn là con người, hoàn toàn là thần linh, và hoàn
toàn là vũ trụ.”
Cuốn sách này là một cuốn sách hấp dẫn đầy hưng
phấn, và không phải chỉ những người bào chữa cho quan điểm chung của
Teilhard sẽ hoan nghênh, mà cả tất cả những ai hứng thú với tâm linh
đương thời. Người ta có thể gợi ý rằng vào năm 1929, Teilhard đúng
là đi “quá sớm” với thời đại của ông
Những Tháng Năm Sống Lưu Vong Tại Trung Hoa
Trong 11 năm kế tiếp,
Teilhard tiếp tục cuộc lưu đầy tự áp đặt cho mình tại Trung Hoa.
Ông chỉ trở về năm lần thăm viếng ngắn ngủi tại quê hương. Những
chuyến đi ấy có mục đích viếng thăm gia đình và bạn bè. Họ phân phát
các bản sao các đề mục của ông. Đôi khi ông cũng nhiều lần nói
chuyện cho các câu lạc bộ sinh viên tại Bỉ và Paris tạo nên một diễn
đàn cho các tư tưởng của ông. Những năm này Teilhard cũng thực hiện
nhiều cuộc viễn thám địa chất.
Năm 1929, Teilhard đi sang
Somaliland, và Ethiopia, trước khi trở về Trung Hoa. Linh mục
đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc phát hiện và giải thích
“Người Bắc Kinh” tại Chu Khẩu Điếm năm 1929-1930. Năm 1930,
ông tham gia chuyến viễn thám ở miền Trung Mông Cổ do Ray
Chapman Andrew hướng dẫn theo lời mời của Viện Bảo Tàng Lịch Sử Tự
Nhiên của Mỹ.
Hoàn Cảnh Biên Soạn “Tinh
Thần Của Trái Đất”
Năm sau, ông đi một chuyến
qua Mỹ khởi hứng cho ông viết cuốn The Spirit of Earth [Tinh
Thần Của Trái Đất]. Từ tháng 05/1931 đến tháng 02/1932 ông
du hành vào Trung Á với cuộc viễn chính vàng danh tiếng do
Công ty Xe Hơi Citroen bảo trợ. Năm 1934, với George Barbour ông du
hành ngược Sông Dương Tử và đi vào các vùng núi non ở Tứ Xuyên.
Một năm sau ông tham gia chuyễn viễn thám Yale-Cambridge dưới
quyền Helmut de Terra tại Ấn Độ và sau đó chuyến viễn thám
của von Koenigswald tại Java.
Năm 1937 linh mục được ân
thưởng huy chương Gregor Mendel tại Hội Nghị Philadelphia do
các thành tựu khoa học của cha. Cũng năm đó với cuộc viễn thám
Havard-Carnegie đến Ấn Độ và rồi đến Java với Helmut de Terra.
Do thành quả những chuyến khảo sát thực địa, người ta nhìn nhận
Teilhard như một trong những nhà địa chất hàng đầu về địa mạo trái
đất. Tiếng tăm này, cùng với những lý thuyết tiến hóa nguyên thủy
của loài người, khiến linh mục đối với chính quyền Pháp, trở
thành người có thế giá, hiện diện tại nhiều câu lạc bộ trí thức,
Đông cũng như Tây. Những thành tựu chuyên nghiệp của linh còn có uy
tín hơn, khi người ta nhớ lại các tấn thảm kịch sâu sa đã diễn ra
giữa những năm 1932 và 1936, khi song thân, em Victor và chị gái
Guiguite thân thương, tất cả đều chết trong khi linh mục vắng mặt.
Những năm cuối cùng linh mục
tự lưu vong tại Trung Hoa, từ 1939 đến 1946. Thời gian đó xấp xỉ
tương ứng với những năm thế chiến II và nước Cộng Hòa Trung Hoa mất
dần quyền kiểm soát trung ương trong sinh hoạt chính trị. Trong giai
đoạn này, Teilhard và Pierre Leroy, một đồng bạn tu sĩ Dòng Tên ,
thiết lập Viện Địa Chất tại Bắc Kinh để bảo vệ sưu tập Emile
Licent và cung cấp một phòng thí nghiệm nhằm tiến hành xếp loại và
giải thích các vật hóa thạch.
Tổng Kết Của Tổng Kết: “Hiện
Tượng Con Người” Trong Quá Trình Bốn Phương Diện Tiến Hóa: Thiên Hà,
Địa Cầu, Đời Sống Và Nhận Thức
Tuy nhiên thành tựu có ý
nghĩa nhất trong giai đoạn này là quá trình hoàn thành cuốn The
Phenomenon of Man [Hiện Tượng Con Người] tháng 05/1940.
Một đóng góp quan trọng của công trình này là nó sắp đặt vị trí cách
sáng tạo khiến con người nổi lên như chủ đề thống nhất trong quá
trình tiến hóa. The Phenomenon of Man trình bày một chuỗi
liên tục bốn mặt của quá trình tiến hóa (tiến hóa thiên hà,
tiến hóa trái đất, tiến hóa đời sống và tiến hóa nhận thức)
và thiết lập cái hầu như người ta coi là thể văn mới
Khi chiến tranh chấm dứt,
Teilhard được phép trở lại Pháp. Ở đó ông dấn thân tham gia nhiều
công việc. Ông xuất bản nhiều đề tài trong tờ Études, một tạp
chí của Dòng Tên. Ông gia công lại cuốn The Phenomenon of Man
và gửi một bản sao đến Rôma, xin phép xuất bản. Thứ phép này không
bao giờ được cấp cho ông bao lâu ông còn sống. Linh mục cũng được
yêu cầu đứng làm ứng viên cha ghế giảng dậy tiền sử ở College de
France thuộc hệ thông Viện Đại Học Sorbonne, Paris, ngay lúc khống
khuyết chân dậy khi người bạn trọn đời của ông là Abbé Henri Breuil
bỏ lại. Khoảng tháng 05/1947, Teilhard kiệt sức khi cố làm sáng tỏ
lại lập trường của ông và ứng phó với những mong chờ của các độc giả
có thiện cảm. Kết quả tình trạng kiệt sức là linh mục bị kích
ngất trụy tim ngày 01/06/1947.
Đối với Teilhard, bị ngã bệnh
như thế, có nghĩa là ông phải hoãn tham gia chuyến viễn thám Đại Học
California sang Phi châu do Quĩ Viking của Wenner-Gren Foundation in
New York tài trợ.
Teilhard đã trông chờ chuyến
đi này như một thời gian tạm nghỉ trước cuộc đối đầu với Rôma về
The Phenomenon of Man và vị trí giảng dậy tại Đại Học
Sorbonne. Khi phục hồi khởi cơn bệnh, Teilhard được Bộ Ngoại
Giao Pháp tôn vinh, vì nhưng thành tựu trí thức và khoa học của ông
và được cất nhắc lên hàng Sĩ Quan Đội Sĩ Quan Danh Dự [officer
of the Legion of Honor].
Tháng 10/1948, Teilhard du hành sang
Hoa Kỳ. Lúc đó linh mục được mời diễn thuyết một loạt bài tại
Trường Đại Học Columbia. Bề Trên Dòng Tên chối không cho phép. Bỗng
nhiên vào tháng 07/1948 Teilhard được mời đến Rôma để thảo luận về
những tranh cãi chung quanh tư tưởng của ông. Dần dần Teilhard hiểu
rằng tương lai công trình của ông tùy thuộc vào cuộc gặp gỡ này và
ông đã chuẩn bị sẵn sàng khi nói « để vuốt râu cọp ».
Năm 1948 Rôma còn là một thành phố mới bắt
đầu phục hồi, từ chỗ bị chiến tranh tàn phá. Giáo Triều Vatican cũng
bắt đầu được tổ chức lại cho Đức Piô XII, khi đảm nhiệm chức vụ giáo
hoàng tháng 03/1939. Ngài đã tương đối bị cô lập trong những năm chiến
tranh. Vào cuối thập niên 1940 ngài khai triển các chương trình cho
năm thánh 1950. Là nhà ngoại giao Vatican trước kia, Đức Piô XII nối
tiếp lập trường bảo thủ của Giáo triều bằng một nỗ lực ngày càng phức
tạp và trí thức hơn.
Khi đến Rôma, Teilhard ở tại nhà Dòng
Tên trong Thành Phố Vatican. Sau nhiều cuộc họp với Bề Trên Tổng Quyền
Dòng Tê, Cha Jannsens, Teilhard hiểu ông sẽ không bao giờ được
phép xuất bản công trình của ông trong lúc ông còn sống. Hơn nữa
linh mục cũng sẽ không được phép nhận vị trí giáo sư tại College de
France. Nhưng ai đã nói với Teilhard khi ông trở lại Paris khiến
ông cảm thấy tâm trạng bẽ bàng bao trùm lấy ông khi ông mò tìm để hiểu
biết các lực lượcg ông không có quyền chống lại. Trong hai năm sau
đó, Teilhard đi nhiều nơi bên Anh, Phi Châu và Hoa Kỳ, cố ổn định một
nơi sống thích hợp khi Trung Hoa không mở cửa nữa.
Tháng 12/1951 linh mục nhận
một vị trí nghiên cúu với Wenner-Gren Foundation tại New York.
III. Những Năm Cuối Cùng Tại New York (1951-1955)
Teilhard quyết định sống tại
New York và ý định đó được Bề Trên Dòng Tên chấp thuận, Giải pháp ấy
giải quyết vấn đề chỗ lưu trú của linh mục vẫn còn không chắc chắn.
Linh mục sống trong những năm sau với các linh mục Dòng Tên tại
St. Ignatius Church trên Park Avenue và vừa tầm đi bộ đến
văn phòng ở Wenner-Gren Foundation và đến phòng viên thư ký và người
bạn linh mục tự chỉ định, Rhoda de Terra. Thư từ trao dổi của
Teilhard với cha Pierre Leroy trong những năm cuối cùng này vừa được
xuất bản bằng tiếng Anh là Letters From My Friend. Những lá
thư đó đáng chú ý vì không có vẻ cay đắng và chỉ thuần túy nhắm đến
khoa học đúng đắn của họ.
Năm 1954 Teilhard viếng thăm
Pháp lần cuối. Linh mục và Leroy, người bạn của ông cùng lái xe
xuống miền Nam đến các hang động vùng Lascaux. Trước khi thăm
Lascaux, cùng với Bà de Terra cùng đi, họ dừng lại Sarcenat. Không
nói một lời họ chỉ lặng lẽ đi bộ qua các phòng cho đến khi tới căn
phòng của thân mẫu linh mục và ghế bà ngồi. Chỉ khi đó, Teilhard mới
nói, thốt lên nửa lời ngậm ngùi với chính mình: “Đây là căn
phòng nơi tôi sinh ra”. Hy vọng trải qua những năm cuối cùng
tại quê hương bản quán nơi sinh nhau cắt rốn, Teilhard làm đơn một
lần nữa xin các bề trên của ông cho phép ông trở lại thường trú tại
Pháp. Nhưng ông vẫn bị từ chối một cách lịch sự và phải trở lại
Mỹ.
Pierre Teilhard
de Chardin chết ngày 10/04/1955 hồi 6 giờ PM. Lễ an táng của linh mục
được cử hành ngày thứ hai Phục Sinh với một ít bạn ông tham dự. Linh
mục Leroy và linh mục thừa tác từ nhà thờ
Thánh I Nhã đi theo tiễn đưa thi hài ông chừng sáu mươi dậm về phía
Bắc tiểu bang từ New York City. Tại nơi đây linh cữu linh mục được
chôn táng tại St Andrew-on-Hudson, lúc đó là tập viện Dòng Tên
Cuộc đời của linh mục với một kết thúc
đơn giản lặng lẽ tỏa ra như cây đời trong bài mô tả của ông, chậm
rãi, có vẻ hé mở ở nhiều chỗ cho thấy bên trong đó có chứa một phẩm
cách xứng dáng bền bỉ. Cha viết về cậy đời như sau :
« Trước khi thử thăm dò bí quyết cuộc
sống của nó, ta hãy nhìn vào nó. Bởi vì từ lần chiêm ngưỡng vẻ bên
ngoài về nó, người ta rút ra từ đó một bài học và một sức mạnh: cảm
thức chứng tá của nó. » (The Phenomenon of Man, New
York, 1965, p. 137