TRIẾT LÝ
TRI-HÀNH-SỐNG HỢP NHẤT
của
Triết Gia Vương Dương Minh
Chu Tấn
CHƯƠNG DẪN NHẬP
Trong lịch sử triết học Trung Hoa, Việt Nam nói riêng
và Đông Phương nói chung, vấn đề Tri và Hành đã được nói đến nhiều
và cũng tốn nhiều giấy mực tranh cãi. Có 5 thuyết nổi bật nói về
mối tương quan giữa tri và hành như sau đây:
1-
Thuyết Chủ Hành lấy Hành làm cơ sở cho Tri, của Mặc gia và
của Vương Thuyền Sơn.
2-
Thuyết Chủ Tri lấy Tri làm cơ sở cho Hành , của Trình Tử và
Chu Tử.
3- Thuyết
“Tri Hành Hợp Nhất” quan niệm không có sự phân biệt giữa Tri và Hành
hay Tri và Hành chỉ là một của Vương Dương Minh.
4-
Thuyết “Tri nan Hành dị” (biết khó làm dễ) của Tôn Trung Sơn.
5- Thuyết
“Biết làm, có chí làm còn làm thỉ dễ”của Nhất Linh, Nguyễn Tường
Tam (VN)
Đặc biệt đến cuối thế kỷ 20 và nhất là sang thế kỷ
21,có 2 vấn đề khá cấp thiết được đặt ra:
Một là:
do sự tiến bộ của Khoa học, vấn đề NHỊP SỐNG, NHU CẦU SỐNG đòi hỏi
mọi người chúng ta phải xem xét lại các quan niệm về Tri và Hành
của người xưa đặt như thế đã đúng chưa ? Nếu sai phải đặt lại? Nếu
đúng mà còn thiếu sót hay chưa thật hoàn hảo thì phải bổ sung hoàn
thiện như thế nào?
Hai là;
Do cự tiến hóa của nhân loại, không những về mặt Khoa học, mà ngay
như về mặt Tôn Giáo, Đạo Học hay Tâm linh, Cứu Cánh của Sự Sống con
người là gì ? Vũ trụ quan, Nhận thức quan, Nhân sinh quan, ,Văn Hóa
quan, Chính Trị quan đều phải đặt lại theo cách nhìn mới, nền tảng
mới như thế nào? Triết học đi về đâu? Tôn giáo đi về đâu? Có hay
không có một Tôn giáo toàn cầu? Do đâu có sự cần thiết của một nhân
loại mới? Thế nào là đưa Đạo vào Đời? Đạo, Đời và Sư Sống có khác
nhau không? Từ nhu cầu Sống đến Bản Chất Sự Sống là gì? Dân tộc học,
Việt học cần phải xây đựng như thế nào? trên căn bản nền tảng nào?
Do cơ duyên nào mà Dân tộc Việt Nam có hân hạnh hay có diễm phúc
đứng ra làm cuộc Tập Đại Thành hay Đại Hòa Điệu giữa văn hóa Đông
Phương và Tây Phương? mà muốn Tập Đại Thành hay Đại Hòa Điệu Văn
Hóa Đông Phương và Tây Phương lại đòi hỏi triết lý Việt, vượt thoát
hay vượt lên như thế nào? Văn Hóa Việt hay triết lý Việt muốn vượt
thoát thì điều kiện đầu tiên là phải xét lại lịch sử 2000 Văn hóa
Tây Phương và Đông Phương đã băng hoại như thế nào? Từ ngày tạo
thiên lập địa nhân loại đã sống trải qua bao nhiêu niên kỷ , bao
nhiêu thế hệ, song có ai đặt vấn đề bản chất SỰ SỐNG LÀ GÌ? Có hay
không có một SUỐI NGUỒN CHÂN LÝ SỰ SỐNG? Có hay không một SỐNG HỌC
HAY SỐNG TRIẾT cho thế ký 21 và hằng hằng các thế kỷ về sau?
Trong niềm thao thức trên, kẻ hậu học Chu Tấn từ
bao năm nay, rất tâm đắc Thhuyết TRI HÀNH HỢP NHẤT của thày Vương
Dương Minh và tự hỏi tại sao các triết gia, sĩ phu. kẻ sĩ Trung Hoa
và Việt Nam lại không biết kế thừa Triết Lý Tri Hành Hợp Nhất của
Thày Vương Dương Minh và không biết áp dụng thuyết này vào việc xây
dựng đất nước hùng mạnh và vinh quang như Dân Tộc Nhật Bản đã làm
ngay từ thời Minh Trị Thiên Hoàng? Phải chăng giới sĩ phu, kẻ sĩ
Trung Quốc thời mạt diệp nhà Thanh chỉ vì thành kiến “Bụt chùa nhà
không thiêng” ? hay các sĩ phu , kẻ sĩ Trung Quốc thời Thanh mạt
nghĩ rằng, thuyết Tri Hành Hợp Nhất của Vương Dương Minh tuy có hay
nhưng lại nằm trong Học Thuyết TÂM HOC –có tính XA RỜI THỰC TẾ nên
không cứu nổi xã hội Trung Quốc khi Trung Quốc tiếp xúc với nền Văn
Minh Tây Phương đã đành, mà ngay Thịnh Thời của nhà Thanh LÝ HỌC
của Tống nho cũng như TÂM HỌC thời Minh nho của Vương Dương Minh
cũng đã suy vi rồi? Tại sao lại suy vi, nếu không phải Thuyết Trri
Hành Hợp Nhất, sau khi Vương Dương Minh qua dời đã không được chân
truyền hay không có những người tài nối nghiệp phát huy rục rỡ hơn
nũa? Và Phải chăng giới sĩ phu, kẻ sĩ Việt Nam tuy có nghiên cứu
thuyết Tri Hành Hợp Nhất của Vương Dương Minh và tuy công nhận là
hay , nhưng lại không có mội trường hay hoàn cảnh áp dụng thuyết này
vào việc cứu nước và dựng nước?? hay vì dân tộc ta vào cuối thời mạt
diệp nhà Nguyễn không có được một vị vua nào sáng suốt và thức thời
như Minh Trị Thiên Hoàng ??
“Nhất thất túc
thời thiên cổ lụy”
như lời than của Nguyễn Trường Tộ ?! và niềm đau cho
tới bây giờ !
Với những triết gia, kẻ sĩ hay Sĩ phu Nhật Bản,
chúng tôi muốn đặt câu hỏi: Qúy ngài qúy vị đã có may mắn tiếp thu,
kế thừa và áp dụng thuyết Tri Hành Hợp Nhất của thày Vương Dương
Minh vào việc xây dựng Nhật Bản thành một cường quốc như hiện nay,
nhất là qúy vị đã thành lập trường phái DƯƠNG MINH HỌC tại Nhật từ
gần 400 năm qua,- Qua quá trình học hỏi và thể nghiệm sâu dày này,
qúy vị xét thấy Thuyết Tri Hành Hợp Nhất phải chăng có một giá trị
toàn hảo? hay có những khuyết điểm nào cần phải bổ sung và hoàn
thiện cho thích hợp với thời đại? Sự học hỏi, áp dụng và góp phần
sáng tạo thuyết Tri Hành Hợp Nhất tại Nhật Bản từ 400 năm, đúc kết
các bài học, rút ra từ Thuyết Tri Hành Hợp Nhất, qua kinh nghiệm quá
khứ, áp dụng vào hiện tại hay hướng đến tương lai như thế nào?
Sau cùng, trong thiên biên khảo này, chúng tôi vì
rất tâm đắc Thuyết Tri Hành Hợp Nhất của Thày Vương Dương Minh,
nhưng đồng thời chúng tôi cũng nhận ra một số khuyết điểm hay bất
toàn ngay trong bản thân lý thuyết Tri Hành Hợp Nhất cần được bổ
sung cho hoàn thiện hơn.Chúng tôi xin mạnh dạn đưa ra, không phải
chủ quan cho rằng những suy nghĩ của mình hoàn toàn đúng, mà xuất
phát điểm từ bản Tâm, bản ý là RẤT THÀNH. . Chúng tôi xin đặt ra
trong ý thức giới hạn, những tư tưởng và nhận định của mình CÓ THỂ
ĐÚNG, CÓ THỂ SAI, cùng mức độ XÁC XUẤT ĐÚNG VÀ XÁC XUẤT SAI, đối
chiếu với thực tế, thực tại và thực tiễn của đời Sống, và luôn luôn
trong tinh thần VỪA HƯỚNG VỀ NGUỒN, VỪA ĐỐI THOẠI , ĐỐI CHIẾU
QUAN ĐIỂM DÂN TỘC & THỜI ĐẠI ĐỂ CẦU HỌC VÀ CẦU TIẾN.
I-
TIỂU SỬ VƯƠNG DƯƠNG MINH
Văn thành Vương Dương Minh tiên sinh Thủ Nhân.
Vương Thủ Nhân tự là Bá An (1472-1528) người đất Dụ
Diêu tỉnh Triết Giang . Vì ông làm nhà ở động Dương Minh gần Hàng
Châu cho nên học giả gọi ông là Dương Minh tiên sinh. ông là dòng
dõi Nho gia danh tiếng đời nhà Minh . Thân phụ là Long Sơn Công,
đỗ trạng nguyên làm quan trong triều.
Từ thuở nhỏ ông đã tỏ ra rất thông minh,có hoài bão.
Năm 11 tuổi, đọc sách với thầy học, đã dám hỏi thày: “Ở đời việc gì
là hơn cả”- Hà vi đệ nhất đẳng sự?
Sinh trưởng trong một gia đình phú qúy,thừa quyền thế
lẫn tài sản để cung cấp cho ông điều kiện ôm ấp những cao vọng siêu
phàm xuất chúng, cho nên ông sớm nuôi nhiều cuồng vọng , phóng túng,
tự do của một đức con cưng trong một gia đình thi lễ quyền qúi
Năm 15 tuổi, ông bỗng ôm cái chí kinh lược bốn phương
. Một hôm đi chơi ra ngoài Vạn Lý trường thành , thấy người Hồ cỡi
ngựa, rong ruổi tự nhiên có chí bốn phương ấy.
Năm 17 tuổi kết hôn ở Giang Tây . Chính vào ngày cưới,
ông đi chơi vào trong động của một đạo sĩ, thấy đạo sĩ ngồi tham
thiền,không cầm đặng lòng hiếu kỳ và thú lãng mạn, ông bèn ngồi đối
diện đạo sĩ mà tham vấn thuật dưỡng sinh .Rồi ông ham mê cũng ngồi
tĩnh tọa đến quên cả về cưới vợ, cho đến sáng hôm sau người nhà đi
tìm mới bắt được ông về.
Năm 18 tuổi, cùng với vợ trở về đất Việt, trên đường
có đến yết kiến học giả Lâu Nhất Trai mà ông từng hâm mộ là nhà đạo
học. Rồi cũng lại cao hứng như đối với đạo sĩ ở Thiết Trụ động trên
kia, mà ông nghe Nhất Trai giảng cho cái học “cách vật” của Tống
nho. Ông bèn nhận ra rằng làm Thánh nhân có thể học mà tới được.
Năm 21 tuổi ở kinh đô ông hăng hái muốn thực hiện
công phu “cách vật” , cùng với một người bạn, tuân theo phương pháp
giáo lý của Chu Hy trong sách Đại Học , cùng nhau đến trước khóm
trúc . Cả hai miệt mài cách vật suốt 3 hôm đến thành bệnh, còn ông
cách suốt bảy bữa cũng thành bệnh nốt , rút cục cái lý của khóm trúc
trước sân, một tơ hào cũng không cách thông. Ông thất vọng mà nghĩ
để an uỉi rằng thánh hiền có phần không phải ai cũng làm được. Ông
bèn bỏ con đường học làm Thánh Hiền mà chuyển sang đường từ chương
văn nghệ.
Năm 26 tuổi, cảm xúc về niên cảnh, mới lưu tâm để ý
đến việc võ nghệ, đọc hết sách binh gia, binh thư.
Năm 27 tuổi, cảm thấy mệt mỏi, văn chương nghệ thuật
không đủ thỏa mãn khát vọng trong lòng, tâm hồn tha thiết, nồng
nhiệt cảm thấy cô liêu buồn phiền đến thành bệnh . Ông mới đổi chí
hướng sang đường tu tiên ,xuất thế .
Năm 28 tuổi (1499) ông đỗ tiến sĩ. Rồi suốt hai năm
trời , ông đi vào hoạn trường, rút cuộc không thấy quên được sự u
uất của tâm hồn.
Năm 31 tuồi, ông bèn cáo bệnh trở về quê hương, thực
hiện phép Đạo Dẫn, ngồi tĩnh toạ, lòng thanh tĩnh, ông nảy ý nghĩ
dốc lòng về đường xuất thế cầu Chân Bấy giờ trên ông còn có tổ mẫu
và thân phụ, luôn luôn hình ảnh vương tại tâm tư, không sao xóa
nhòa đi được. Do đó ông giác ngô mà tự nhủ rằng:
“Cái ý niệm này, sinh ra từ thuở ấu thơ, đem bỏ đi
thì mất chủng tính vậy”
Sang năm sau, ông lại đổi chí hướng sang con đường
hành động nhập thế, tinh thần ông từ cực đoan này sang cực đoan
khác, không chịu nửa vời.
Năm 33 tuổi lại trở về chính giới.
Năm 34 tuổi ông thành đạo, thu nhận đệ tử, giảng học.
Cùng với Trạm Cam Tuyền lập thành môn phái khác nhau.Tuy bấy giờ đối
với Thánh học, ông chưa có chi thâm thiết tự tin, bất quá chỉ là ý
chí cuồng phóng lãng mạn muốn làm bằng được “đệ nhất đảng nhân,
cùng đệ nhất đẳng sự”- như ông đã hoài bão từ thuở còn niên
thiếu.
Rồi xảy ra việc ông bị lưu đầy đi trạm Long Trường.
Nguyên do Dương Minh làm quan ở triều đã được bảy năm gặp khi nhà
Vua dùng bọn quan mà cầm đầu là Yêm Hoạn Lưu Cẩn, khiến cho triều
chính đổ nát. Các quan có người trung thực dâng sớ can Vua. Vua sai
đánh ông bốn mươi trượng, chết đi sống lại, rồi đầy ra dịch thừa
coi trạm Long Trường ở đất Qúi Châu, nơi rừng rú hẻo lánh, lam sơn
chướng khí của dân Mường Mán chưa thấm nhuần văn hóa Trung Hoa.
Trên đường đi đầy, Lưu Cẩn còn cho người theo dõi để
giết ông. Ông biết ý, cho nên đến sông Tiền Đường cho người nói phao
lên rằng ông đã nhảy xuống sông tự vẫn. Rồi ông đáp thuyền đi ra đảo
Chu Sơn thuộc tỉnh Triết Giang, trên đường gặp bão,thuyền dạt vào
đát Mân ở Phúc Kiến. Ông đi bộ, đi xuyên sơn , đêm tối gặp một ngôi
chùa, ông gõ cửa xin vào, nhà sư sợ cướp không cho vào . Ông phải
đi đến một cái miếu gần đấy tựa vào cái bệ mà ngủ. Nơi ấy rất nhiều
hổ báo quấy nhiễu, và đêm ấy nhà sư nghe tiếng hổ gầm, tưởng rằng hổ
ăn thit người gõ cửa đêm qua. Sáng dậy nhà sư ra xem thì thấy ông
đang ngủ say,lấy làm lạ, mời về chùa. Vào chùa ông gặp lại người đạo
sĩ đã gặp ở Thiết Trụ 20 năm về trước. Ông nhân nói ý muốn bỏ trốn
đi xa, cho đạo sĩ hay, đạo sĩ khuyên rằng: “Anh còn cha đang ở trong
triều, vạn nhất Lưu Cẩn giận, kiếm cách làm hại, vu cho anh đi theo
giặc ở phiá Bắc hay phía Nam để làm tội cha thì anh làm thế nào?”
Ông nghe động lòng bèn quyết đi đến trạm Long Trường.
Năm 37 tuổi ông đến Long Trường, ở với dân Mọi, dạy
dân đốn gỗ làm nhà. Bấy giờ kẻ thù còn theo đuổi, ông còn phải đề
phòng thích khách. Ông bèn nghĩ rằng ở trên đời tất cả vinh nhục
đến nơi này khó lòng nổi dậy, chỉ có một đường là giải thoát. Cái
đất hiểm độc ấy chính đã giúp cho ông giác ngộ về đạo lý rất nhiều.
Nhưng còn một ý niệm ông chưa sao giải giải thoát được là ý niệm
sống chết. Ông vẫn còn lo chết.. Vậy ông tự hỏi làm cách nào để
giải thoát được ý niệm ấy . Ông đeo cái quách bằng đá để chờ khi
chết nằm vào và đêm ngày ông ngồi tĩnh tọa trên cái quách ấy, khiến
cho cái tâm sợ chết hóa đi hết cả, để cho tâm hồn được yên tĩnh.
Nhưng người đi theo ông không thể làm theo đúng như ông được. Họ bị
bệnh vì lam chướng. Ông phải thân đi kiếm củi gánh nước, nấu cháo để
nuôi họ và làm bài ca, bài thơ để ngậm vịnh cho họ vui quên.
“Hiểm di khôn bận nơi lòng.
Bóng mây phất phới trên không nhẹ nhàng
Đêm thanh biển rộng mênh mang
Trăng thanh gío mát thiên đàng là đâu !”
( Hiểm di nguyên bất tại hung trung,
Hà di phù vân quá thái không
Dạ tĩnh hải đào tam vạn lý
Nguyệt minh phi tích hạ thiên phong )
Chính trong hoàn cảnh hoạn nạn, tật bệnh, di địch,
lam chướng man mọi ấy, tuy ông cố tìm quên hết sự đời, nhưng rồi ông
vẫn không quên nổi cái hoài bão cố hữu xưa nay là làm nên “đệ
nhất đẳng nhân, đệ nhất đẳng sự”. Rồi ông tự hỏi lại ông ,ví thử
có một vị thánh nhân lâm vào hoàn cảnh này thì xử trí như thế nào?
Một mình trầm ngâm ôm ấp câu hỏi khúc mắc ấy mãi, chợt một đêm ông
bừng dậy đại ngộ. trong trạng thái nửa thức nủa ngủ mơ mơ màng màng
như có người nói vào tai,gọi bật dây. Bọn theo ông hoảng sợ về cử
chỉ như điên cuồng của ông bấy giờ, giũa đêm khuya khoắt . Ấy là ông
đã phát minh ra một học thuyết mới về “cách vật trí tri” vậy.
Trên đây là cả một lịch trình kinh nghiệm bản thân
của một tâm hồn tầm đạo, một tâm hồn sinh ra với “thìa vàng trong
miệng” như phương ngôn Âu tây thường nói, nghĩa là sinh ra trong
hoàn cảnh đầy đủ hạnh phúc trần gian, thế lực có thừa, nhưng bản
tính đam mê một chân lý trường cửu, một sự thỏa mãn chân chính toàn
diện , cho nên hết cực đoan này đến cực đoan kia, nào nhập thế nào
xuất thế, bất cứ đường nào hễ đã hướng vào là đem cả nhiệt thành của
thân tâm để hướng , không tính toán, không dè sẻn,. Và đến lúc giác
ngộ là lúc trải qua giai đoạn thừa sống thiếu chết, quên hết địa vị
xã hội, hạnh phúc cá nhân,cho đến cả cha mẹ và chính tính mệnh của
mình. Đến đây mới giác ngô, hiểu biết thể nghiệm bản thân, không
phải trên suy luận lý thuyết . Hiểu qua sự sống, và sống cái điều
mình khám phá phát minh, đấy là tinh thần triết học hay đạo học của
họ Vương vậy..
Bởi thế mà muốn hiểu thấu triết học của Vương
Dương Minh, chúng ta phải xét nó mật thiết với đời sống của tác
giả,vì chính nó là cái ý nghĩa, của sự sống ở đời mà tác giả nỗ lực
đi tìm kể từ lúc 11 tuổi, bước vào trường học bắt đầu hỏi thày học:
“Ở đời việc gì là hơn cả” – (hà vi đệ nhất đảng sự” ?)…cho đến khi
thấy được nguồn lạc đạo vói vũ trụ thiên nhiên của tuổi già:
Văn ngưỡng thiên địa gian
Xúc mục câu hạo hạo
Đàn hồ hữu dư lạc
Thử ý lương phỉ kiêu
U tai Dương Minh lộc
Khả dĩ vong ngô lão.
(Đạo
dịch toàn tập)
Tạm dịch:
Ngẩng cúi trong trời đất
Trần lan khí hạo nhiên
Gỉo cơm bầu nước mà tiên
Chẳng kiêu ý ấy tính thiên vui lòng
Dương Minh rừng núi linh lung
Tuổi già quen với núi sông đạo già.
Song trước khi đến đước cái thú lạc đạo ấy, thì cuộc
đời chìm nổi của Dương Minh còn gặp nhiều thử thách. Ông bị đầy tại
Long Trường, cho đến năm 1510, ông38 tuổi mới lại đuợc phục chức
tri huyện ở Lư Lăng tỉnh Giang Tây và sau mấy tháng được tirệu về
kinh làm chủ sự Bộ Lại. Đến năm 1512 ông được thăng lên chức Thái
Bộc tự thiếu khanh ở Nam Kinh. Năm 1514 thăng chức Hồng Lô Tự Khanh..
Bấy giờ nước Trung Hoa đang trải qua một thời buổi
đen tối, trong triều thì gian thần siểm nịnh, ngoài thì giặc cướp
tứ tung , quan quân đi đánh mãi không hết. Năm 1516 người ta tiến cử
Dương Minh làm chức Đô sát viện, tả đô ngự sử, coi việc đánh dẹp nội
loạn. Trong khoảng hơn một năm rưỡi từ khi ông chịu mệnh Đô sát, xếp
đặt lại việc quân ngũ, chỉnh đốn lại binh giáp, các đám giặc vùng
Giang Tây , Phúc Kiến, Quảng Đông , Hồ Nam đều dẹp được yên cả. Mỗi
khi dẹp xong giặc nào, ông đều tổ chức lại việc cai trị, sửa chữa
thuế khóa, tổ chức công việc giáo dục, nhân dân.. ngopài ra, ông vẫn
tiếp tục trau dồi Đạo học, của mình, và giảng học cho môn đệ. trong
đám giặc hùng mạnh bấy giờ có giặc Thân Hào là nguy hiểm hơn cả, vì
Thần Hào là giòng dõi vua Thái Tổ nhà Minh, được tập tước là Minh
Vương ở hạt Nam Xương, thấy nhà vua, không có con, lại hay chơi
bời, nghe siểm nịnh, nên Thần Hào bèn mưu toan cướp ngôi Thiên Tử.
Nhưng việc nổi loạn của Thần Hào chỉ trong vòng hơn một tháng là
dẹp yên. Đây là nhờ cái tài của Vương Dương Minh vận dụng, khiến
kẻ thư sinh thành danh sĩ, kẻ ti thuộc thành lương tướng. Ông có thủ
đoạn hoá kẻ tầm thường ra làm người lỗi lạc tài ba, đấy là thiên
tài của ông vậy.
Năm 1521, ông được thăng làm Nam Kinh Binh Bộ
Thượng Thư được thăng chức Tân Kiến Bá . Ông bèn xin về nghỉ ở nhà
để phụng dưỡng phụ mẫu. Nhưng rồi ở tỉnh Qaủng Tây lại có giặc nổi
lên, quan quân đánh mãi không xong, phải nhờ đến tay ông mới dẹp
nổi. Đánh xong giặc Mọi này, thì DươngMinh bị bệnh nặng, phải bỏ
về, đến Nam An thì bệnh tình hết sức trầm trọng. Một môn nhân là Chu
Tích đến hỏi thăm bệnh, ông nói: “Bệnh thế nguy cấp, chỉ còn cái
nguyên khí chưa chết mà thôi”. Cách mấy hôm sau, thì ông mất, thọ 57
tuổi (ngày 28 thàng 11 năm Gia Tĩnh thứ 7 tức dương lịch 1528)
Các môn đệ dem công nghiệp, ngôn hành và giáo lý
của ông chép thành những sách Ngữ Lục ba quyển, Văn Lục năm quyển,
Biệt Lục mười quyển, Ngoại Tập bảy quyển, Tục Biên sáu quyển, Phụ
Lục bẩy quyển. Tất cả 38 quyển, thu vào một bộ là :Vương Văn Thành
Công Toàn Thư Tam Thập Bát Quyển.
(Trích Lịch Sử Triết Học Đông Phương tập 5 của
Nguyễn Đăng Thục- trang 280- 287) )
I I - BA GIAI ĐOẠN BIẾN CHUYỄN VÀ THÀNH TỰU CỦA
VƯƠNG HỌC:
Triết học của Dương Minh đã mật thiết quan hệ với
cuộc đời của ông, cho nên người ta theo dõi sự biến chuyển của tư
tưởng triết học ấy với sự biến chuyển quan trọng của đời sống hiện
thực đầy bài học kinh nghiệm bản thân. Hoàng Lê Châu , một di Nho
đời nhà Minh trứ danh về tác phẩm Minh Nho học án, có viết về lịch
trình “Tam Biến” ba lần biến chuyển trên đường tìm chân lý của họ
Vương như sau:
“Cái học của tiên sinh bắt đầu phiếm lạm về từ
chương , rồi sau đọc hết sách của Chu Tử, tuần tự cách vật. Nhưng
thấy rằng vật lý với tâm ta rút cục vẫn chia làm hai, không có lối
nhập đạo. Tiên sinh bèn ra vào đạo Phật, đạo Lão khá lâu, kịp đến
khi đi đầy ở nơi mường mán khốn cùng, tiên sinh mới động tâm nhân
tính, nhân đấy nghĩ bụng thánh nhân ở vào cảnh ngộ ấy sẽ lấy đạo gì
để ứng phó, bỗng nhiên giác ngộ được đường lối “cách vật trí
tri”.Đạo của Thánh nhân ở bản tính của ta tự đủ, không phải cầu ở
ngoài. Cái học của tiên sinh gồm ba lần biến mới thấy được cửa vào
đạo. Từ đấy về sau, ,bỏ hết cành lá rườm rà, tập trung chuyên nhất
vào nguồn gốc, lấy phép ngồi yên lặng, để tâm lắng chìm làm mục đích
của sự học.Trong tâm phải có trạng thái chưa phát xuất gọi là
trung, thì mới có thể có sự phát xuất trúng điều tiết gọi là hòa .
Sự nghe, nhìn, ăn, nói, cử động, hết thảy đều lấy cách thu liễm làm
chủ đích, coi sự phát tán ra ngoài là bất đắc dĩ vậy. Sau khi ở
Giang Hữu về, tiên sinh chì chuyên đề xướng thuyết “Trí Lương Tri”.
Yên lặng không phải ngồi, tâm không cần phải đợi lắng chìm, không
tập luyện, không nghĩ ngợi, cứ tự nhiên đề xuất ra theo phép trời.
Bởi vì lương tri là cái trung chưa phát xuất, ấy là trước cái tri
chứ không phải là cái chưa phát xuất Lương tri là cái hòa của sự
trúng tiết , ấy là sau cái tri chứ không phải cái đã phát xuất.Cái
tri ấy tự có thể thu liễm, không cần chủ vào sự thu liễm. Cái tri ấy,
tự có thể phát tán.Thu liễm là thể của sự cảm, tĩnh mà động vậy.
Phát tán là cái dụng của sự yên lặng, động mà tĩnh vậy. Chỗ thân
thiết đốc thực của tri tức hành, chỗ minh giác tỉnh sát của hành tức
tri, không làm gì có hai vật tri và hành khác nhau.
“ Sau khi tiên sinh ở đất Việt (bên Trung Hoa) sự
giữ gìn đức hạnh của tiên sinh lại càng tinh thục chín chắn, cái chỗ
sở đắc càng tiến hoá, luôn luôn biết điều phải điều trái, điều không
phải không trái, mở miệng là đạt tới bản tâm chứ không phải mượn sự
góp nhặt chắp nối khác nào mặt trời ở không trung mà muôn hình
được soi sáng hết. Ấy là sau khi sự học đã thành tựu mà có ba biến
chuyển như thế” (Minh nho học án)
Ba giai đoạn, biến chuyển trên đường học hỏi ấy
đại khái là:
1)
Từ thời còn phiếm lạm từ chương ra vào Phật Lão đến năm 38
tuổi ở đất Quí Dương bắt đầu luận về “Tri Hành Hợp Nhất” đây là giai
đoạn thứ nhất.
2)
Từ năm 38 tuổi đến năm 50 tuổi ở Gaing Tây bắt đầu đề xướng
thuyết “ Trí Lương Tri” đây là giai đoạn thứ hai.
3) Từ
năm 50 tuổi trở đi trở về đất Việt cho chí lúc mất là giai đoạn thứ
ba giai đọạn thành Đạo vậy.
Trải qua ba giai đoạn trên đây, hệ thống tư tưởng
triết học của họ Vương không phải kết quả của một sự ngồi trong tháp
ngà, mà suy luận về thế giới .Triết học ấy thực là sản phẩm của một
cuộc đời thực nghiệm đầy gian truân “Tòng bách tử thiên nan
trung đắc tại” như ông nói: “ do trăm lần chết, ngàn khó khăn
mà có được” ….thưc đáng cho chúng ta học hỏi và suy gẫm sâu xa .
(Trích Lịch Sử Triết Học Đông Phương Quyển 5, của Nguyễn
Đăng Thục trang 287- 289)
I I I - NỘI DUNG THUYỆT TRI HÀNH HỢP NHẤT:
A/ Mục Đích hay Tông Chỉ Lập Thuyết
của Vương Dương Minh:
Nhận thấy người đời thường phân chia Tri Hành
làm hai, Vương Dương Minh cho đó là nghĩ sai nên làm sai. Không
những thế còn làm những việc xấu ác, phản đạo đức . Để chữa căn bênh
đó của thời đại, nên ông xướng ra thuyết “Tri Hành Hợp Nhất” để
cứu vãn thời thế, đồng thời đưa con người trở về với với bản thể
của Đạo. Ông nói rằng: “Muốn hiểu cái thuyết tri hành hợp nhất,
trước hết phải biết cái tông chỉ sự lập ngôn của ta . Người đời nay
học vấn, nhân vì đã phân tri hành làm hai việc, cho nên khi có một
cái niệm phát động, tuy là bất thiện, nhưng bởi chưa thi hành, thì
không tìm cách ngăn cấm. Ta nói cái thuyết tri hành hợp nhất, chính
là để người ta hiểu được chỗ nhất niệm phát động tức là hành rồi. Hễ
chỗ phát động có điều bất thiện thì đem điều bất thiện ấy trừ bỏ
ngay đi, cốt bỏ đến chỗ căn để khiến cái bất thiện không tiềm phục ở
trong bụng. Ấy là cái tông chỉ sự lập ngôn của ta” ( Ngữ Lục III)
B/ Quan Niệm Tri Hành của Vương Dương
Minh KhácVới Quan Niệm Thông Thường Của Nhiều Người:
Theo quan niệm thông thường nhiều người vẫn hiểu:
Tri là tri thức =Hiểu Biết., còn Hành là Hành Động (thực hiện ) Do
đó, chúng ta cần “hiểu biết trước” rồi “làm sau”
Triết gia Vương Dương Minh quan niệm “Tri và Hành
theo nghĩa đặc biệt của ông: ông nêu rõ sự tương quan mật thiết giữa
tri và hành theo 3 cách hiểu, hay 3 nội dung như sau:
C/ Nội Dung Thuyết Tri Hành Hợp Nhất
Của Vương Dương Minh:
Thuyết “Tri Hành Hợp Nhất” gồm có 3 phần, lấy 3 ý
chính sau đây làm chủ chốt:
1-
“Chưa bao giờ có tri mà lại không có hành”: Tri (Biết) mà
không Hành (Làm) thì chỉ là chưa tri. ( Vi hữu tri nhi bất hành
giả;Tri nhi bất hành, chỉ thị vị tri- Tuyển Tập Lục, Từ Ái ký)
2- "
Tri là bước đầu của Hành, Hành là kết quả của tri” (Tri
thị hành chi thủy, hành thị tri chi thành- Như trên)
3- “
Tri đến đứng đắn, cặn kẽ, thiết thực là cái tri đạt được ở trong
hành mà sáng suốt rạch ròi là hành nhờ cái tri” ( Tri chi chân
thiết đốc thực xứ, tức thị hành, hành chi minh giác, tinh xác tức
thị tri- Đáp Cổ Đông Kiều thư )
Dưới đây chúng tôi xin trình bầy từng điểm một:
Trong phần thứ Nhất,
Chữ tri chuyên chỉ cái “minh giác” (biết sáng suốt) của Tâm về lẽ
phải trái, còn hành là nói sự phát động của tâm . Xin hãy nghe ông
giảng:
“Sách Đại Học chỉ cho thấy rõ đúng thế nào là tri
và hành; sách ấy nói:” Như ưa sắc đẹp, như ghét mùi thối” Thấy sắc
đẹp mà biết là đẹp, đó là thuộc về phần tri; ưa sắc đẹp là thuộc về
phần hành. Ngay khi thấy sắc đẹp, mới chỉ thấy thôi là đã ưa rồi,
chứ không phải là thấy đẹp rồi mới lập tâm ưa. Ngửi
mùi thối mà biết là thối, đó là thuộc về phần tri;
ghét mùi thối là thụộc về phần hành; ngay khi ngửi, thấy thối là
ghét rồi, chứ không phải thấy thối rồi mới lập tâm ghét !..“ (Đại
học chỉ xuất cá chân tri hành dữ nhân khán thuyết “như hiếu sắc, như
ố ác xú”. Kiến hảo sắc thuộc tri,, hiếu bảo sắc thuộc hành ; chỉ
kiến ná hảo sắc dĩ tự hiếu liễu, bất tri kiến liễu hậu hựu lập cá
tâm khứ hiếu. Văn ác xú thuộc tri, ố ác xú thuộc hành, chỉ văn ná ác
xú thời dĩ tụ ố liễu, bất thị văn liễu hậu, hữu lập cá tâm khứ
ố…456- Truyền tập lục,Từ Ái ký )
“ Lại như biết đau, ắt là mình có đau, rồi
mới biết đau; biết lạnh , ắt là mình có lạnh rồi mới biết lạnh; biết
đói, ắt là mình có đói rồi mới biết đói; tri với hành làm sao mà
chia tách được! Bản thể của tri và hành là như thế” ( Hựu như tri
thống, tất dĩ tự thống liễu phương tri thống ; tri hàn, tất dĩ tự
hàn liễu, phương tri hàn; tri cơ, tất dĩ tự cơ liễu phương tri cơ;
tri hành như hà phân đắc khai? Thử tiện thị tri hành đích bản thể”
438- Như trên)
Rõ ràng là tri hành hợp nhất: chưa bao giờ có
tri mà không có hành.
Đến phần thứ hai.
trong phần này, “tri trỏ cái ý định làm một công việc gì, còn
hành là trỏ cái công việc thực hiện ý định đó” ( Tri thị hành đích
chủ ý, hành thị tri đích công phu__ Truyền tập lục .Từ Ái ký ).
Đây ông nói:
“ Thực vậy, người ta tất có lòng muốn ăn rồi mới
ăn, cái lòng muốn ăn tức là ý (chủ ý ) tức là bước đầu của hành vậy.
Ăn miếng ngon, miếng dở, tất nhiên bỏ vào mồm rồi mới biết, chứ có
khi nào chưa bỏ vào mồm mà đã biết miếng dở miếng ngon? Tất là phải
có lòng muốn đi, rồi sau mới biết đường; cái lòng muốn đi tức là ý
(chủ ý) tức là bước đầu của hành vậy. Đường đi hiểm trở, tất phải
đích thân trải qua mới biết, chứ có khi nào, chưa đích thân trải qua
mà đã biết đường đi hiểm trở” ( Phù nhân tất hữu dục thực chi tâm,
nhiên hậu tri thực. Dục thực chi tâm tức thị ý, tức thị hành chi
thủy hĩ. Thực vi mĩ ác, tất đãi nhập khẩu nhi tri, khởi hữu bất đãi
nhập khẩu nhi dĩ tri thực vị chi mĩ ác giả da? Tất hữu dục hành chi
tâm, nhiên hậu tri lộ; dục hành chi tâm tức thị ý, tức thị hành chi
thủy hĩ. Lộ đồ chi hiểm di tất đãi thân thân lý lịch nhi hậu tri
khởi hữu bất đãi thân thân lý lịch nhi dĩ tri lộ đồ chi hiểm di giả
da? 459__ Đáp Cố Đồng Kiều thư )
Thật vậy, vấn (hỏi) tư (suy ngẫm) biện (phân tách)
hành, ngần ấy điều đều là học cả. Chưa có chuyện học mà lại không
hành bao giờ. Như học đạo Hiếu, thì trước tất phải hầu hạ nuôi nấng,
đích thân thực hành đạo hiếu rồi mới gọi gọi là học được, chứ đâu
có phải chỉ nghe nói suông nói hão, mà bảo ngay như thế là học đạo
hiếu ? Học bắn tất phải giương cung lắp tên, bắn ra trúng đích; học
viết tất phải trải giấy, cầm bút, cầm thẻ tre, chấm mực; hết thảy
mọi sự học trong thiên hạ, chưa bao giờ không hành mà lại nói là có
học được, thế thì bắt đầu học vấn đã là hành rồi… Học không thể
không có chỗ ngờ, vậy thì phải hỏi, tức là học vậy, tức là hành rồi;
lại vẫn không thể không có chỗ ngờ , vậy thì phải suy ngẫm , phân
tách; suy ngẫm, phân tách , tức là học vậy, tức là hành rồi.__ Không
phải là học hỏi, suy ngẫm, phân tách, rồi sau mới bắt đầu đem ra
hành, Thế cho nên, xét theo khía cạnh cầu làm cho giỏi, cho nên, cầu
được việc mà nói thì gọi là học; xét theo khí cạnh cầu được vỡ
nghĩa mà nói thì gọi là vấn (Hỏi) ; xét theo khía cạnh cầu cho suốt
lẽ mà nói thì gọi là tư (suy ngẫm) ; xét theo khíc cạnh cầu cho xem
xét được tinh tường mà nói thì gọi là biện (phân tách) xét theo
khía cạnh cầu cho đích thân thực thi mà nói thì gọi là hành. Nghĩa
là phân công ra tất có năm, nhưng hợp lại mà nói thì việc chỉ là một
mà thôi” ( Phù vấn, tư biện hành giai sở dĩ vi học, vị hữu học nhi
bất hành giả dã. Như học hiếu giả, tắc phục lao dưỡng, cung hành
hiếu đạo, nhi hậu vi chi học, khởi đồ huyền không khẩu nhĩ giảng
thuyết, nhi loại khả dĩ vi chi học hiếu hồ ? Học sạ tắc tất trương
cung, hiến thỉ, dẫn mãn trúng đích; học thư, tắc tất thân chỉ, chấp
bút, thao cô, nhiễm hàn. Tận thiên hạ chi học vi hữu bất hành nhi
khả dĩ ngôn học giả; tắc học chi thủy cố dĩ tức hành hĩ… Học chi bất
năng vô nghi tắc vấn, vấn tức học dã, tức hành dã, hựu bất năng vô
nghi, tắc hữu tư hữu biện, tức học giã, tức hành dã… phi vi học tư
biện chi hậu nhi thuỷ thố chi ư hành dã. Thị cố dĩ cầu năng kì sự
chi ngôn, vị chi học, dĩ cầu biện kì nhi ngôn vị chi vấn; dĩ cầu
thông kì lý chi ngôn,vị chi hành. Cái tích kì công nhi ngôn tắc hữu
ngũ, hợp kì sự nhi ngôn tác nhất nhi dĩ 169__ Đáp Cố Đồng Kiều Thư )
Sau hết, xin nói đến phần thứ ba:
“ tri (biết) đến đúng đắn, cặn kẽ, thiết thực là cái tri đạt được ở
trong hành (việc làm) ; hành (làm) mà sáng suốt rạch ròi là hành
(làm) nhờ có tri.
Trong phần này , họ Vương cho rằng “tri và hành tuy
là hai chữ nhưng là nói chung một công việc”( tri hành nguyện thị
lưỡng cá tự, thuyết nhất cá công phu__Như trên) Ông nói: “ Tri và
hành vốn không thể lìa nhau được. Chỉ tại học giả đời sau đem chia
ra mới thành hai việc riêng biệt, mất cả bản thể của tri và hành.
Bởi vậy mới phải đề xướng hợp tri và hành lại làm một” ( tri hành
bản bất khả li, chỉ vị hậu thế học giả phân tác lưỡng biệt công phu,
thất khước tri bản thể, cố hữu hợp nhất tinh tiến chi thuyết
461__Như trên)
“Nếu hành (làm) mà không tri (biết) rõ ràng tỉ mỉ
thì là hành (làm) mò, tức là (như sách luận ngữ nói) “học mà không
nghĩ thì lờ mờ” vì thế mà tất phải nói đến tri (sự biết) .Tri (biết)
mà không tri (biết) đến đúng đắn, cặn kẽ, thiết thực thì tri (biết
) lơ mơ hão huyền tức là (như sách luận ngữ nói) nghĩ mà không học
thì bập bỗng. Vì thế mà tất phải nói đến hành. nguyên lai, tri với
hành chỉ là một công việc. Người xưa nói tri, hành là cốt để bổ cứu
cái tệ tập thiên về một đằng (hoặc tri hoặc hành) trong khi thực thi
một công việc, chứ có lẽ không phải để ngưới ta chia lìa một việc ra
làm hai phần (tri và hành)” (Nhược hành nhi năng tỉnh sát minh giác,
tiện thị minh hành, tiện thị “học nhi bất tư tắc võng”, sở dĩ tất tu
thuyết cá tri; tri nhi bất năng chân thiết đốc thực tiện thị vọng
tưởng, tiện thị “tư nhi bất học tất đãi”, sở dĩ tất tu thuyết cá
hành. nguyên lai chỉ thị nhất cá công phu, cổ nhân thuyết tri hành,
giai thị tựu nhất cá công phu thượng, bổ thiên cứu tệ thuyết, bất
tự, linh nhân phân tác lưỡng kiện sự cố 462__Đáp hữu nhân vấn).
Như vậy, theo ông tri và hành, nguyên lai chỉ là một
việc,sở dĩ người xưa nói riêng tri, nói riêng hành, là cốt để sửa
đổi cái thói làm việc không được hoàn hảo của người đời: Chỉ vì thế
gian có hai thứ người cần phải phân rõ tri và hành thì họ mới hiểu:
“ Một thứ thì mù mờ ù cạc, cứ làm bừa theo ý kiến
riêng, tuyệt nhiên không chịu nghĩ ngợi, xem xét; như vậy chỉ là làm
bậy, làm mò, cho nên đối với họ, tất phải nói đến tri (cho họ biết)
có tri thì hành mới đúng được. Còn một thứ thì mơ mơ màng màng, chỉ
suy nghĩ những chuyện vu vơ không đâu, tuyệt nhiên không chịu đích
thân nhúng tay vào việc, như vậy thì chỉ là bắt bóng nghe hơi, cho
nên đối với họ, tất phải nói đến hành (cho họ biết) phải hành thì
tri mới thật là tri…” ( Nhất chủng nhân, mông mông, bỗng bỗng đích
nhậm ý khứ tố toàn bất giải tư duy, tỉnh sát dã chỉ thị cá minh hành
vọng tác; hựu hữu nhất chủng nhân mang mang đãng đãng, huyền không
khứ tư sách, toàn bất khẳng trước thực cung hành, dã chỉ thị sủy mô
ảnh hưởng, sở dĩ tất thuyết cá hành, phương tài tri tri đắc chân …)
463.
Rút lại, dù tri là “minh giác của tâm” hành là “phát
động của tâm” dù tri là ý định, hành là thực thi, dù tri và hành là
hai tiếng chỉ cùng một việc, trong cả ba trường hợp tri hành vẫn là
hợp nhất.
Cùng một tâm trạng muốn bổ cứu thời tệ như người xưa,
Vương Dương Minh sở dĩ đề xướng thuyết “tri hành hợp nhất”là cốt,
như trên kia chúng tôi đã nói, trước hết thức tỉnh lòng người mà coi
chừng những ý niệm xấu, hầu trừ tiệt nó ngay từ khi còn trong trứng.
“Ngoài ra cũng để chữa cái thông bệnh của người đương thời, chỉ vì
tin rằng phải “tri” đã rồi mới “hành” được, thành thử suốt đời không
dám làm việc gì, trọn đời không làm được việc gì . Cao đệ của ông là
Từ Ái có ghi mấy lời này của ông “Nay người ta lại đem tri hành
chia làm hai việc mà làm, cho rằng cứ phải tri đã rồi mới hành được…
cho nên suốt đời không hành mà cũng không tri. Đó hẳn không là một
chứng bệnh nhỏ” (Kim nhân khước tương tri hành phân tác lưỡng kiện
khứ tố, dĩ vi tất tiên tri liễu nhiên hậu năng hành… cố loại chung
thân bất hành, diệc toại chung thân bất tri. Thử bất thị tiểu bệnh
thống 461.
Thuyết tri hành hợp nhất thịnh hành một thời. Đến
đời Thanh thì bị Vương Thuyền Sơn công kích kịch liệt .Thuyền Sơn
cho rằng Dương Minh đã lạm dụng danh từ tri và hành. Xin hãy nghe
Thuyền Sơn nói “Cái mà ông ta (Chỉ Vương Dương Minh) gọi là tri
không phải là tri và cái mà ông gọi là hành không phải là hành. Cái
ông ta gọi là tri tuy không phải là tri, nhưng còn có phần nào của
tri, thảng hoặc cũng còn có sở kiến. Còn khi nói rằng cái ông ta
gọi là hành không phải là hành thì đích xác cái đó không phải là
hành mà chính là tri nhận làm hành” ( Kì sở vi tri giả phi tri nhi
hành giả phi hành dã. Tri giả phi tri, nhiên nhi do hữu kì tri dã,
diệc thảng nhiên nhược hữu sở kiến dã, hành giả phi hành, tắc xác
hồ kì phi hành, dĩ kì sở tri vi hành dã__ Thương Thư dẫn nghĩa).
Lời Thuyền Sơn phê bình trên đây về thuyết tri
hành hợp nhất của Vương Dương Minh xét ra không vững mà rõ ràng
khiên cưỡng. Thật vậy , khi lập thuyết, Vương Dương Minh đã định
nghĩa hẳn hoi cho hai chữ tri hành rồi, nghĩa đó không phải nghĩa
thông thường mà mọi người vẫn hiểu; hơn nữa nghĩa đó lại thay đổi
trong mỗi phần của thuyết như chúng tôi đã nói ở trên. Vậy mà khi
phê bình, Thuyền Sơn lại hiểu hai chữa tri, hành của Vương Dương
Minh theo nghĩa thông dụng , thì làm sao mà chẳng xảy ra cái trò “ông
nói gà bà nói vịt” cái lối lập luận vin vào phép “duy danh
định nghĩa” ?
( Trích Đại Cương Triết Học Trung Quốc của Giản Chi
& Nguyễn Hiến Lê trang 532- 540)
I V- GÍA TRỊ VÀ ÍCH LỢI CỦA THUYẾT TRI HÀNH HỢP
NHẤT :
1-
Gía Trị kế thừa Đạo Thống Chân Chính của Khổng Mạnh:
Thày Vương Dương Minh tuy sinh ra ở thời
nhà Minh, và là đồ đệ viễn phái của Đạo Khổng Mạnh. Thầy tinh thông
cả tam giáo Nho Phật Lão, nên đã thể nhận tinh hoa của 2 Đạo Phật
và Lão, để phát huy Nho giáo một cách chính thống đồng thời đưa Nho
giáo lên một bước tiến mới. .Học thuyết của Thày từ “Tri Hành Hợp
Nhất” đến “Trí Lương Tri” và “Bản Thể Công Phu Nhất Thể” …đều khởi
nguyên từ thuyết “Vạn Vật Đồng Nhất Thể, một thuyết đã được coi là
nền tảng của nền Văn Hóa, Minh Triết Đông Phương, cũng như chủ
trương “ Ngô Đạo Nhất Dĩ Quán Chỉ” ( Cái Đạo của ta, chỉ một điều
chính yếu quán thông xuyên suốt được tất cả ) của Đức Khổng Phu Tử
. Sau khi sáng minh ra thuyết “Tri Hành Hợp Nhất”, thày lại sáng
minh ra thuyết “Trí Lương Tri” và công bố 4 câu cách ngôn về Tâm:
Vô thiện, vô ác là cái thể
của tâm.
Có thiện, có ác là cái
động của ý
Biết thiện, biết ác là Lương Tri.
Làm thiện , bỏ ác là cách vật
Qua 4 câu cách ngôn trên, chúng ta thấy thầy Vương
Dương Minh đã tiếp theo Đổng Trọng Thư (Đại nho Đời Hán) tổng hợp
hai ý kiến trái ngươc nhau của Mạnh Tử (Tính Người Bản Thiện) và
Tuân Tử ( Tính Người Bản Ác) mặc dầu cách tổng hợp của Đổng Trọng
Thư và của Vương Dương Minh tuy có chỗ giống nhau, nhưng cách lý
giải về thiện ác của thày Vương Dương Minh có tính chất thống quan
từ Thiên Lý hay Đạo Thể. Mặt khác thày Vương Dương Minh khi “chưa
biết vào cửa Đạo” đã áp dụng thuyết “cách vật trí tri” theo cách lý
giải của Chu Hy (Nho gia cự phách đởi Tống) nhưng sau khi thể
nghiêm “cách vật” không thành công (Xin xem lại mục tiểu sử) thày
đã đưa ra cách lý giải mới về “Cách Vật Trí Tri” theo lối lý giải
mới của thày.. Đại cương “cách vật” theo Chu Hy là “cùng lý”
(như vậy Tâm với Lý vẫn là hai) còn “cách vật” theo thày Vương
Dương Minh là “chính tâm” (Lý và Tâm cũng chỉ là một . Lý ở
ngay tại Tâm) . Như vậy thày vừa theo đúng chân truyền của nền Đạo
Thống Khống Mạnh vừa phát huy Tâm Đạo trong Đạo Nho một cách rữ
rỡ hơn cả và đưa ra một xác thuyết ( Như thày Vương đã làm trong
cuộc đời tìm đạo và đắc đạo của mình ) là Tâm Đạo có khả năng giải
thích tất cả và tổng hợp tất cả các mâu thuẫn trên thế gian.
Trong cuốn Khổng Học Đăng, tác giả là cụ Phan Bội
Châu cũng đã viết về thày Vương Dương Minh như sau:
“ Khổng học phái đời Minh, từ lúc có pho “Ngũ kinh
tứ thư đại truyện” ra đời, dùng bản sách này thi tiến sĩ. Học giả
trong thiên hạ chuyên đem “Trình, Chu tập chú” làm mồi cân đai.
Ngoài “Trình, Chu tập chú” họ chẳng biết một cái tý gì . Nhưng mà họ
há phải say ở Trình Chu đâu! Chỉ 4 chữ “ thăng quan phát tài” là
mục đích của họ. Khổng học đến bây giờ thành ra đám đồng cỏ rậm. Ở
trong đám đồng cỏ rậm ấy mà mở ra một đường lối quang minh, gieo
vào một hạt mộng tốt đẹp, khiến cho Khổng học lại rực rỡ tinh thần
thiết phải qui công cho người khẩn hoang và gieo mộng .
Người ấy là ai?
Tức là thầy Vương Dương Minh . Thầy chẳng những học
lý đã tinh, mà võ công cũng giỏi. Kể học thuyết thì “tri hành nhất
trí” Kể sự nghiệp thời văn võ song tuyền. Thiệt là một người con
đích phái thừa tự ở trong Khổng Học” (Xem Khổng Học Đăng trang 727
)
2-
Giá trị khế hợp với Thời Đại: (Tống, Nguyên & Minh)
:
Khổng học phái thời Tống có 3 học phái lớn :
(1) Tượng
Số học mà đại biểu là Trần Đoàn và Thiệu Ung (tức Thiệu Khang Tiết )
(2)
Lý Học mà đại biểu là Chu Hy
(3)
Tâm Học mà đại biểu là Lục Cửu Uyên (hay Lục Tượng Sơn)
Thày Vương Dương Minh là đệ tử của Thày Lục Cửu Uyên
và đã phát huy Tâm Học lên một bước tiến mới , đồng thời thày cũng
chủ trương “Tâm” tức “Lý” , Tâm tức “Mệnh”, Tâm tức “Tính” v.v… khế
hợp với các triết gia Đời Tống , Đời Nguyên & Minh..
3- Giá Trị đề cao Đạo Lý, đồng thời đề
cao sự thực dụng thực tiễn vẫn là bó đước soi đường cho mọi
thời đại.
Thuyết “Tri hành hợp nhất” không chỉ đúng và có giá
trị với các thời đại đã qua mà ngay thời đại của chúng ta, khi nhân
loại bước sang đệ tam thiên niên kỷ, cũng như hằng hằng các thế kỷ
về sau tính chất đề cao Đạo Lý đồng thời đề cao tính thực tiễn thực
dụng vẫn có giá trị vượt không gian và và thời gian
4-Minh Trị Thiên Hoàng đã áp dụng
thuyết “Tri Hành hợp nhất” trong sư nghiệp Canh Tân Nhật Bản theo
sách lược “Phú Quốc Cường Binh”
Trong bài “Từ
Vương Dương Minh đến Minh Trị Duy Tân” nhà sư Triệt học Trần Đức
Giang ( hiện định cư tại Nhật Bản ) đã viết như sau :
“ Học thuyết của Thầy Vương Dương Minh chú trọng
thực tiễn, ban đầu chưa được phát huy nhiều ở Trung Quốc, nhưng đã
được giới trí thức Nhật tức nho sĩ thời đó tiếp nhận và truyền bá
trong khoảng 300 năm ở Nhật Bản. Đó là nền tảng văn hóa và động lực
chính cho Nhật phát triển duy tân thời Minh Trị Thiên Hoàng (
1852-1912) gọi là Minh Trị Duy Tân, bắt đầu từ 1867.
Chính sự thành công của Nhật đã làm thức tỉnh các
sĩ phu Trung Quốc, như các ông Đàm Từ Đồng, Khang Hữu Vi (1858-1927)
Lương Khải Siêu (1873-1929)… và hơn 20.000 sinh viên Trung Quốc qua
Nhật du học cuối thời Minh Trị (cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20) mạnh
dạn mở lối dân quyền, trở thành động lực chính cho Cách Mạng Tân
Hợi 1911 tại Trung Quốc thành công.
Gần đây học
thuyết của thầy lại được các nước Singapore (Tân Gia Ba ), Đài Loan,
Hồng Kông đem ra phổ biến….
Ở Nhật Bản, học thuyết của Thầy được các nhà sư
Phật Giáo Nhật Bản truyền bá. Nguyên có người làm đại sứ Nhật Bản
trong thời kỳ đi sứ sang nhà Minh, đã đích thân gặp thầy hỏi đạo,
đem văn chương và sách của Thầy về dạy cho các nhà sư ở chùa. Các vị
nho Nhật Bản đã có người học tập được cái thực tiễn trong sự giáo
huấn của Thầy và lập ra một dòng mạch Vương Dương Minh Học ở Nhật
Bản gọi là Yomeigaku (Dương Minh Học) thịnh truyền cho đến ngày nay.
Từ thế kỷ 17 đã có các thầy Nakae Toju, Kumazawa
Banzan, Miwa Jissai (1696-1744) , người cho in sách của Thầy Vương
Dương Minh dịch ra tiếng Nhật ) và Sato Issai (1771-1859) là một
bậc thầy, theo Dương Minh Học, được Mạc Phủ mời dậy trong phủ Chúa,
mặc dầu Mạc Phủ đã tuyên bố Nho học của Châu Hi làm chính để đào tạo
quan lại. Từ Thầy Sato Issai, Vương Dương Minh Học tràn lan khắp
nước Nhật, do gần 3.000 môn sinh của Thầy tin tưởng và tận tâm
truyền bá. Từ đó mới sinh ra các Thầy Oshio Heihashiro, Yoshida
Shoin, Saigo Takamori, Sakamoto Ryuma… là các thầy Nho kiêm võ tướng
và chính trị gia đã trữc tiếp vận động Duy Tân Nhật Bản, Và họ đã
thành công năm 1868, khi quy thuộc Minh Trị Thiên Hoàng. (Meji Tenno
) dẹp sứ quân, thống nhất đất nước, tiến hành cải cách Nhật Bản gọi
là Minh Trị Duy Tân . Vương Dương Minh Học ở Nhật Bản hoạt động
không dừng lại ở chỗ Duy Tân Nhật Bản mà còn lèo lái Nhật Bản phục
hưng sau Thế Chiến Thứ 2, từ 1945.
Dù ở trung Hoa hay ở Nhật Bản, những người theo học
Vương Dương Minh Học đều có những đặc tính sau:
1.
Tư Do không bị ràng buộc vào chủ thuyết này
2.
Tôn trọng chính nghĩa xã hội.
3.
Thân thiết kính mến, thương xót tới con người cô thế.
4.
Tính Tình tự chủ độc lập.
5.
Siêng năng cần cù .
6.
Có tinh thần sáng tạo.
7.
Tin tưởng tuyệt đối vào cái tâm của mình.
8.
Lạc quan.
9.
Khiêm Tốn.
10. Quý
Trọng thời giờ.
Họ có thể là nhà văn, là họa sĩ, là thi sĩ, là nhà
làm luật pháp, chính trị gia,là kỹ sư, là kinh tế gia, là nhà buôn…
thậm chí ở Nhật, họ có khi là nhà sư, là cha cố, là thầy dậy Tin
Lành chứ không bắt buộc họ là nhà Nho theo cái nghĩa thường như
chúng ta thường nghĩ là ông Đồ dậy học “ê a” ba chữ Nho.
Ở Nhật Bản, Vương Dương Minh Học đi vào dân chúng
trong sinh hoạt hàng ngày, có thể tìm thấy ở cách chào hỏi hàng ngày,
cách cư xử với người trong nhà, người ngoài luận bàn cho kỹ, có thể
nói Vương Dương Minh Học là một cái “Đạo” không chuông mõ, kèn
trống, không giáo hội lễ đường mà nó âm ỉ bao trùm cả xã hội Nhật
Bản. Muốn hiểu xã hội Nhật Bản, mà không hiểu Vương Dương Minh Học
thì chỉ xem được mặt ngoài mà không thấy được bên trong của Nhật Bản….
Tại sao người
Nhật lại có người hoan nghênh cái học thuyết của Thầy Vương Dương
Minh? Có một lý do có thể thấy là vì ở Nhật có nhiều người thích
Thích Thiền, tu Thiền đã quen nhiều rồi.
Đương nhiên, cái học của Tống nho tức Châu Tử Học
trong đó có thực học (trọng về toán học, y học, thiên văn học) và
cái học làm quan (Nhưng không có khoa cử) cũng có đóng góp cho xã
hội Nhật Bản để duy trì guống máy quan lại, giữ sự hòa bình, trật
tự cho xã hội cũ của Nhật Bản.
Cái đặc biệt của Vương Dương Minh Học ở Nhật bản đã
được một nhà Nho Trung Quốc là Trương Quân Lê đánh giá:
“ Người Nhật thờ phụng, theo Vương Dưong Minh Học
có mặt thực tiễn hơn người Hoa. Người Hoa theo Vương Dương Học mà
ưa lý luận để bào chữa cho cái chủ ý của mình”
Tỷ như Phong Trào Duy Tân của Nhật mà kể các nhà
đại Nho theo Phái Vương Dương Minh Học có được trước sau 20 lò Nho,
mỗi lò đào tạo ra cả trăm , cả ngàn môn sinh, xét cho kỹ, Thầy nào
cũng dậy môn sinh ở chỗ:
-
Trọng thực tiễn và hiện thực.
-
Tin ở Lương Tri của mình.
-
Trau giồi, dùi mài cho Lương tri của mình thành tốt đẹp,
trong sạch hơn.
-
Lương tri của mình cũng là lương tri của vạn vật.
- Lấy
Tu thân làm gốc.
-
Triệt để tin vào Đạo Nho ở chỗ “Sĩ khả bách Vi” (làm nghề gì cũng được)
Từ đó họ có được tinh thần tự tin, độc lập, dấn thân và hầu hết họ đều
thực tiễn trong việc tu hành theo Đạo Nho . Cụ thể như Thủ Tướng
Nakasone, ngồi tĩnh toạ, còn đem phưong pháp này dạy cho Thủ Tướng
Lý Quang Diệu (Xem hồi ký Lý Quang Diệu) -Thủ Tướng Singapore)
Và đặc biệt họ rất linh mẫn, biết tùy cơ ứng biến. Thầy Kumagai
Banzan (1619-1691) đã triển khai đạo Nho trong sách Tân Nghĩa Hoa
Thư “Shuai Washo” về phép đối xử với mọi sự phải theo:
1-
Thời tức là tình trạng
2-
Xử tức là thủ đoạn, phương pháp.
3- Vị tức
là mục đích.
Và luôn luôn nhắn nhủ:
“ Làm kẻ sĩ học học vấn chân thực là cố gắng vượt qua sự sốg, ,sự
chết, nỗ lực rèn luyện cho thân tâm lương tri của mình”
Lại nhắc nhở Thầy Vương Dương Minh đã dậy là:
“Tôn Đức Thánh làm Thầy , nhưng không phải cái gì cũng theo như cũ,
mà phải tùy hoàn cảnh mà công phu sáng tạo”
Sau Minh Trị Duy Tân, nhà Nho Hàn Quốc đã có những người bắt đầu
nghiên cứu về phái Vương Dương Minh Học . Nhà Nho Phác Ẩn Thực (
Park In Shik ,1829-1925) đã mở ra Hội Nghiên cứu Vương Dương Minh Học
ở Hàn Quốc, lập ra tờ “Đại Hàn Mỗi Nhật Thân Báo” (The han Mea il
Shin Po ) chủ trương:
1-
Ủng hộ quốc quyền
2-
Mở mang dân quyền.
3-
Tự Do ngôn luận.
Thầy Phác chủ trương nên để cho những người đã sinh
ra những bậc kiện tướng mà cụ Phan Bội Châu đã từng ca tụng trong
cuốn “Khổng Học Đăng” như:
·
Thầy Hoàng Tông Hi, hiệu Lê Châu
(1580-1665) một nhà thạc học, bác học, Hồng Nho biên soạn trên
1.000 bộ sách về Nho, toán, âm nhâc, cũng là người khởi xướng thuyết
đại nghị và quân vương do dân bầu (quân chủ lập hiến ) trước J. J
Rousseau 100 năm.
·
Thầy Lưu Niệm Đài, Thầy Đàm Tự
Đồng, Thầy Lương Khải Sdiêu (Bạn thiết của Cụ Phan Bội Châu) v.v…
Vào những năm Đảng Cộng Sản Trung Quốc thịnh quyền,
trong quốc hội vẫn có những vị Đại Nho bênh vực lập trường của
dân chúng , đứng dậy phê bình trực tiếp với cả Mao Trạch Đông. Cụ
thể là Đại Nho Lương Thấu Minh (1893- 1988), một người đã viết tác
phẩm “Văn Minh và Triết Học Đông Tây”
xuất bản năm 1922. Tác phẩm này được viết theo chủ
nghĩa, tình cảm ý thức Thể Nhận, trong đó Thầy Lương Thấu Minh có
luận bàn đến xã hội ,lấy Đức trị, Nhân Trị và Tình người làm chủ
nghĩa sau khi đã phân tích sự suy đồi mà xã hội chủ nghĩa tư bản và
xã hội chủ nghĩa Marx bắt buộc phải có , và sự trụy lạc của các tôn
giáo hiện nay..
Hiện nay dân chúng Trung Quốc đang coi Thầy Lương
Thấu Minh như một vị triết gia, tiên tri lỗi lạc của thế kỷ 20 qua
những hành động thực tiễn của Thầy trong chính trường, văn trường,
học giới.
Tại Tân Gia Ba (Singapore) có phong trào Tân Nho Học,
tại Đài Loan thì Phong trào Vương Dương Minh Học tuy không rầm rộ
phô trương nhưng sức mạnh củaHọc Phái vẫn âm ỉ lan rộng và đang thực
tiễn góp nhiều cống hiến cho xã hội lòai người trong lúc điên đảo
này.
-----------------------------------------------------------------------
Niên Biểu tóm tắt về sự hình thành và các sự kiện
liên quan đến Vương Dương Minh Học ở Nhật Bản.
-
1513, Hòa Thượng Ryoan Keigo (1425-1514) là Chính sứ Nhật Bản
sang Trung Quốc thời triều Minh đã gặp Thầy Vương Dương Minh và đem
tác phẩm của Thầy về Nhật.
-
1649, Thầy Nakae ToJu (1608-1648), một nhà Nho bỏ quan chức
võ sĩ về nuôi mẹ bằng nghề bán rượu , lấy sách của Thầy Vương Dương
Minh dậy cho các môn đệ … Thầy Nakae ToJu được coi là Thánh Tổ phái
Vương Dương Minh Học ở Nhật.
-
1680, Thầy Đại Nho Kumazawa Banzan (1619- 1691) một nhà kinh
tế , văn quan, dùng văn chương bình dân giảng dạy học thuyết “Tri
Hành Hợp Nhất”, môn đệ lên tới gần 3.000 người. Thầy nổi tiếng với
chủ trương:
“ Vì thiên địa lập thân,
Vì vạn thế thái bình”
Câu này đã được Thầy Yasuoka massatoshi viết vào
bài chiếu đầu hàng
Đồng Minh để Thiên Hoàng Chiêu Hòa Hito đọc vào
ngày 15/8/ 1945.
-
1770, các Thầy Nho trong Dương Minh Học bắt đầu thai nghén
việc Duy Tân Nhật Bản. Thầy Miwa Jikusai dịch “Truyền Tập Lục” ra
văn chương bình dân.
-
1837, Thầy Đại Nho Oshio Oshio Heihiro (1793- 1837) là người
đã khởi nghĩa ở Osaka để bênh vực nông dân nghèo.
-
1856, Thầy Đại Nho Yoshida Shoin (Cát Điền Tùng Âm,
1829-1859) viết “ Ikkun Banmin Ron” (Nhất Quân Vạn Dân Luận) nói
về chuyện mọi người bình đẳng trước Thiên Hoàng và tận lực với
Thiên Hoàng. Năm 1857, mở trường dạy học theo chủ trương của Vương
Dương Minh, là bậc thày của nhiều nhân viên cao cấp thời Minh Trị
Duy Tân.
-
1864, Các võ sĩ theo Vương Dương Minh Học khởi Nghĩa ở
KozanJi
-
1867, Đại Nho Saigo Takamori (1827-1877) Tổng Đại Tướng quân
đội chống lại mạc Phủ, đã dùng ba tấc lưỡi thuyết phục Tướng và quân
đội của Mạc Phủ đầu hàng phe Duy Tân mà không tốn một viên đạn.
(Trích đoạn trong bài “Từ Vương Dương Minh đến Minh Trị Duy Tân” của
Triệt Học Trần Đức Giang )
-----------------------
Để Qúy Độc Gỉa hiểu rõ hơn sự tương quan, giữa học
thuyết “Tri hành Hợp Nhất” của Thầy Vương Dương Minh với công cuộc
Duy Tân của Nhât Bản- so sánh với hoàn cảnh của Việt Nam thời mạt
diệp Nhà Nguyễn; người viết xin ghi kèm theo đây:
Ghi Chú Đặc biệt của Học Giả Đỗ Thông Minh:
“ Phần lớn người Nhật và Việt đều nghĩ : “ Minh
Trị Thiên Hoàng một đấng Minh quân ai bì !”. Ông lên ngôi lúc 15
tuổi, lúc 15 tuổi đã lấy vợ và sau có thêm 4 bà Hoàng Phi… thì ít
nhất trong giai đoạn đầu chưa thực sự hiểu việc triều chính, vận
hành quốc gia triều đại phong kiến lúc đó, sau khi thu hồi quyền
hành từ tay Sứ Quân cuối cùng của dòng họ Tokugawa .Đức Xuyên đã cố
gắng đề cao Thiên Hoàng để phục hồi uy tín và tập trung lòng dân.
Thực ra công lao trong cuộc Minh Trị Duy Tân chinh là các quần thần,
mà đa số là đệ tử của ông Yoshida Shoin. Thêm nữa, tư tưởng Vương
Dương Minh đã vào và được truyền bá khá rộng rãi ở Nhật khoãng
400 năm, là nền tảng không thể thiếu cho cuộc cải cách.
Thế nên, nếu người Việt trách triều đình nhà
Nguyễn và quần thần thời bấy giờ qúa u mê thì cũng không công
bình lắm, vì ở Việt Nam đã không có được yếu tố chuẩn bị tư duy
quan trọng và tối cần thiết cho một cuộc canh tân
Và phải chăng, ngay cả bây giờ, đã cả trăm năm
qua, đã bước vào đầu thế kỷ thứ 21 rồi mà tình hình cũng vẫn như vậy!
?
Câu hỏi và cũng là lời than của Học Giả Đỗ Thông
Minh ở cuối đoạn ghi chú kể trên, .mới nghe như cơn gío thoảng,
nhưng nghĩ lại là một mối ưu tư vô cùng sâu sắc, khiến mọi người
chúng ta phải quan tâm suy gẫm về trách nhiệm của kẻ sĩ thời đại,
cũng như sứ mệnh của văn hóa trước vận nước ngả nghiêng. Và chũng
chính vỉ mối ưu tư này của Học Giả Đỗ Thông Minh đã là giọt nước
tràn ly khiến chúng tôi mạnh dạn viết thiên khảo luận này. /.