Kiều của NGUYỄN DU
một
gia sản văn hóa nhân loại
Nguyễn Đăng Trúc
Vĩ nhân không chỉ là người nắm bắt
thời đại bằng tư duy của mình, mà còn giúp con ngời nơi cõi nầy đụng
chạm đến vô tận.
Vì thế tự căn nét siêu việt
trong tác phẩm và nơi cuộc sống người ấy cống hiến một tấm gương soi
dẫn mọi thời đại, mỗi một người trong toàn thể nhân loại.
Karl Jaspers[1]
Vì là lời được cảm hứng, thi
phẩm đó ở bên kia bờ của việc mô tả hay biện minh cho một thời
đại hay một xã hội nào bất kỳ. Lời ấy không bị ràng buộc bởi những định
chế và các giá trị đang chi phối nếp suy tư của xã hội, nhưng đặt vấn
đề về ngay chính nền tảng của chúng nhân danh một quyền uy khác hơn
quyền uy đương đại, đó là quyền uy của sự thật, của ý
nghĩa về nhân tính con người. Vì vậy lời được cảm hứng
không quan tâm đến việc mô tả những thực tại xã hội, những tập tục của
một cộng đòan, những sáng kiến, giấc mơ hay tình cảm của một nhân vật.
Nhưng đưa tòan bộ thực tại con người, kể cả những nền tảng và định
chế xã hội, trực diện với một câu chất vấn duy nhất và căn đế : chất
vấn về ý nghĩa của nhân tính.
Con người là vấn nạn cho chính
mình, đó là một câu chất
vấn duy nhất gợi hứng cho đạo lý các thánh hiền, cho minh triết của
những nhà tư tưởng đi tiên phong trong các nền văn hoá khác nhau của
nhân lọai
Khi tiếp cận được lời thi
ca, cảm hứng được câu chất vấn đến từ bờ bên kia, - lời
vượt lên trên những kiến thức giới hạn của con người-,
các thánh hiền và các nhà tư tưởng
chạm đến con tim con người bất cứ
nơi đâu và bất cứ thời đại nào. Sứ điệp của họ được tiếp nhận như là
gia sản văn hóa đối với toàn thể nhân loại và đi vào Đại Ký
Ức của các dân tộc.
Nếu gia sản văn hoá của nhân loại
không chuyển đạt điều gì khác hơn là ý nghĩa về nhân tính, thì sứ điệp
văn hóa ấy cũng hé lộ cho thấy thân phận con người tự căn vốn kỳ lạ
và mâu thuẫn. Nét kỳ lạ ấy là dấu chỉ linh ư vạn vật của nhân
tính buộc con người phải dấn thân vào Cuộc Chiến bi thảm, nhưng
hào hùng để có thể chu tòan Mệnh làm người của mình.
Dưới ánh sáng của lời được cảm hứng
từ bên kia bờ, Cuộc Chiến ngoại thường nầy [thánh hiền trong
văn hóa Hy Lạp gọi là Khôn Ngoan về nhân tính (άνθρωπίνη σοφία)[3]
hay Đức Lý (Ήθος)] vượt lên trên các hình thái đối
nghịch của vũ trụ, trên các biện chứng tư duy và tranh chấp xã hội,
trên mọi hình thức tự phủ định ý chí muốn sống hay con đường khổ hạnh
để tu thân… Cuộc Chiến ngoại thường nầy là :
·
Cuộc Chiến giữa Đạo
sâu kín, chân thực, đối nghịch với những đạo giả tạo do trí
năng vạch ra (xem Đạo Đức Kinh của Lão-tử, quyển 1, chương
1).
· Cuộc
Chiến giữa một nhân tính đặt nền tảng trên Ngã đơn độc, tự
mãn bên nầy bờ của bến mê và một nhân tính đích thực (Phi
Ngã) bên kia bờ của Ngã mê lầm đó, trong đạo lý
Phật giáo.
· Cuộc
Chiến giữa Vương Đạo của chính nhân quân tử và Bá Đạo của tiểu nhân,
theo Khổng giáo.
· Cuộc
Chiến giữa Tài (Τέχνη)
và Mệnh (Μοίρα) trong Bi Triết của Hy Lạp (đặc biệt
trong Prométhée bị trói của Eschyle và trong Œdipe-Vua
của Sophocle:
“Cuộc chiến vinh quang mang nguồn
sinh lưc cho quê hương, xin Trời đừng dẹp tắt.”[5]
· Cuộc
Chiến (Πόλεμος) giữa
Λόγος
(Lời)
siêu việt và lý lẽ con người trong tư tưởng của Héraclite.
· Cuộc
Chiến giữa một bên là Đạo Công Chính và Chân Lý[6],
– Đạo được linh hứng bởi Thần Khí và được hướng dẫn bởi những ái
nữ của Thần Mặt Trời –, và bên kia là con đường bế tắc của mê
lầm mà mọi người đang đi, không trừ một ai[7]
trong Thi Ca của Parménide.
· Cuộc
Chiến mà Socrate là một chứng tá sống động trong cuộc sống, trong
cái chết bi thương nhưng vinh quang, trong lời giáo huấn ngược đời
của ông.
· Cuộc
Chiến giữa nhân tính đặt nền tảng trên (Tài), trí năng đo lường
các sự vật trong vũ trụ, và một nhân tính khác được cảm hứng
bởi « Lý của Con Tim » (Đạo Tâm) trong tư tưởng Pascal...
Chính cuộc chiến đấu bi hùng đó đã
khơi nguồn cảm hứng cho tư tưởng gia-thi sĩ Nguyễn Du và được diễn đạt
qua hai câu thơ đầu tiên của truyện Kiều:
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét
nhau (Kiều, c.
1-2)
Toàn bộ thi phẩm Kiều là một sự triển
khai trực giác độc đáo nầy.
Nhân vật Kiều thể hiện cuộc chiến giữa
hai căn tính con người, một căn tính đặt nền tảng trên chữ Tài
và căn tính kia trên chữ Mệnh, ở ngay giữa cuộc sống.
Lời thi ca
nơi Âm vọng Khổ Đau từ bờ bên kia (qua bóng
dáng Đạm Tiên)
thức tỉnh Kiều nhận ra một Kiều hồng nhan gắn liền với
Nghiệp (Tài), và một Kiều chân thực
bên trong (thanh cao) của
Mệnh mà Giác Duyên sẽ cống hiến, sau cái chết rốt ráo của
Nghiệp nơi sông Tiền-Đường, giao thoa giữa Tài và Mệnh.
Con đường của Tài xuyên qua
những hình ảnh tượng trưng như :
- Sự
tự vẫn : con đường vô sinh, vô cảm.
- Thúc
Sinh – biểu tượng cho
khóai lạc cá nhân và lòng trắc ẩn thường tình.
- Con
đường
khắc kỷ ở trong một am
thất,
- Từ
Hải
– biểu tượng sự giải phóng xã hội...
Nhưng những con đường giải
thoát của Tài đều bế tắc.
Tuy nhiên Lời
từ bên kia bờ
không ngừng âm thầm
nhắc
rằng thế giới Ảo-tưởng của
Tài sẽ tàn, và Con Đường khác của Mệnh sẽ hé lộ nhờ Giác
Duyên :
- Đạo
của Mệnh, Đạo-Tâm tuyệt đối ở bên kia bờ của Tài và
đòi hỏi cái chết tận căn của Tài (Kiều hồng nhan phải chết
trên sông Tiền Đường để sống lại Kiều Giác Duyên).
- Đạo
của Chữ Tâm là Đạo duy nhất của sự cứu rỗi, Đạo tuyệt hảo (Chữ
Tâm kia mới bằng ba chữ Tài). (Kiều c.3252).
Từ hai thế kỷ nay, thi phẩm
Kiều
của Nguyễn Du đã cảm hứng tâm hồn và qui hợp con dân Việt-nam.
Trong tương lai, hội ngộ nguồn cảm hứng tư tưởng thi ca của
nhân lọai, thi phẩm Kiều hẳn
sẽ cống hiến cho mọi dân tộc trên thế
giới một lời mời gọi
cấp bách để có thể
nhận ra bí nhiệm vô tận, đó
chính là CON NGƯỜI.
*****
[1] Les
grands philosophes, tome 1, trad. C. Floquet et autres,
Plon, Paris, 1989, tr.36.
[2] Socrate
đã mô tả thi ca (lời được cảm hứng) như sau: « Không phải
do tài năng nào của mình mà các thi sĩ làm thơ, nhưng là do
cảm hứng từ một quyền năng của Thần. Vì nếu dựa vào một tài
năng trình bày lưu loát như người ta thường làm được trong
các bộ môn nào đó, thì phải chăng thi ca cũng chỉ là một bộ
môn nào bất kỳ hay sao! Bởi vậy, Thần đã xóa hết tài năng lý
trí con người để dùng họ làm thi sĩ, cho họ nhập Thần và trở
nên những tiên tri của Trời. Nhờ thế khi nghe lời thơ của
các thi sĩ, thì chúng ta hiểu được rằng không phải do chính
tài năng họ mà họ có được những giá trị cao cả, bởi lẽ lúc
ấy họ đã bị tước hết tài trí của mình rồi; nhưng chính Thần
nói, Thần chuyển lời của Thần đến với chúng ta qua trung
gian các thi sĩ ! » (PLATON, Ion. 534 c-d;
534 e..).
[3]
cf. PLATON, Biện hộ Socrate 20 d-e.
[5]
SOPHOCLE, Œdipe-Vua, c. 879-880.