NGÔ THÌ
NHẬM (1746-1803)
CÚC THU BÁCH VỊNH
50 Bài thơ đối thoại với Phan Huy Ích(1751-1802)
Phạm Trọng Chánh
Cúc Thu Bách Vịnh là một tập thơ 100 bài
gồm : 50 bài của Phan Huy Ích và 50 bài của Ngô Thì Nhậm
viết từ tiết Trùng Dương năm 1796. Ngô Văn gia phái gọi tập thơ là Cúc
Hoa Thi Trận. Sau những biến cố xãy ra trong triều đình Tây Sơn từ khi
vua Quang Trung mất năm 1792.
Thái sư Bùi Đắc Tuyên chuyên quyền đày quân
sư Trần Văn Kỷ. Tướng Vũ Văn Dũng đem quân về giết cha con Bùi Đắc
Tuyên và tướng Ngô Văn Sở. Tình hình nội bộ Tây Sơn mâu thuẩn, Ngô Thì
Nhậm lui về nhà cũ tại Bích Câu cạnh hồ Kim Âu, thành Thăng Long, mở
Trúc Lâm thiền viện xưng danh Hải Lượng thiền sư viết Trúc Lâm Tông
Chì Nguyên Thanh, Phan Huy Ích cũng mở Bảo Chân quán xưng danh Bảo Chân
đạo sĩ tu đạo Lão.
Điều đáng quý là hai vị đối thoại nhau
bằng thơ Đường luật những vấn đề: Văn học, Triết học, Mỹ học, Lịch
Sử.. kèm theo lời chú dẫn. Thật là thú vị và hiếm có một cuộc
đối thoại như thế trong lịch sử văn học Việt Nam, nhất là hai danh
nhân hàng đầu trong lịch sử Văn Học Việt Nam mà chúng ta chỉ mới
biết đến qua Hoàng Lê Nhất Thống Chí và bản dịch Chinh Phụ Ngâm
Khúc. Chúng ta chỉ biết đến phần nổi của tảng băng, còn phần chìm
của tảng băng là các tác phẩm viết bằng chữ Hán, mà tiếc thay này
nay chúng ta chỉ đọc được như đọc tác phẩm người ngoại quốc,
qua những bản dịch thi ca khập khểnh bằng văn xuôi. Trong bài này tôi dịch toàn bộ 50 bài thơ Đường luật
của Ngô Thì Nhậm và chỉnh đốn những sơ sót bản dịch nghĩa để bạn
đọc có thể thưởng thức được những tuyệt tác của di sản văn học
Việt Nam.
50 bài thơ trao đổi về tình yêu, tâm tình,
đạo lý, tâm sự .. thật thú vị.
Ngô Thì Nhậm đã nêu lên một chuyện chẳng
ai để ý là Ngũ Kinh của Khổng Tử đểu khởi đầu bằng chuyện tình yêu
nam nữ. Bằng bài thơ lấy đề tài câu khởi đầu năm kinh, ông đã
bàn luận chuyện tình yêu thật thú vị.
Kinh Thi khởi đầu từ bài thơ Quân tử hảo cầu. Bạn đẹp đôi
lứa của người quân tử.
Kinh Thư khởi đầu bằng chuyện Vua Nghiêu gã hai cô con
gái Nga Hoàng và Nữ Anh cho Đế Thuấn, để thử tài tề gia, trước khi
nhường ngôi cho trị nước.
Kinh Dịch khởi đầu bằng quẽ Đế Ất quy muội. Vua Đế Ất
gã chồng cho em. Em gái vua cớ gì mà can dự vào hình tượng ?
Bởi vì con em vua chúa phần nhiều kiêu căng hợm hĩnh, nên khiến cho họ
hạ bớt vẻ tôn quý để phục tùng chồng. Muốn đại cát phải hạ mình,
thân với người hiền, lấy sự trung chính mà đi lên.
Kinh Xuân Thu khởi đầu bằng chuyện Khương Thị hội Tề Hầu.
“Năm Trang Công thứ 5, mùa đông tháng 12, nàng Khương Thị về hội với
Tề Hầu ở đất Cáo. Khương Thị là vợ Lỗ Hoàn Công, em gái Tề Tương
Công .. Hoàn Công mất ở Tề. Khương Thị bèn thông dâm với anh ruột là
Tương Công.” Thơ Y Ta, thơ Tệ Cẩu trong Kinh Thi khinh chê Khương Thị.
Thánh nhân đã cố gắng nói rõ cái ý sâu xa chuyện gian dâm.
Kinh Lễ khởi đầu: “Thiếp tuy lão niên vị ngũ thập tất dự
ngũ nhật chi ngự”. Vợ thiếp tuy già, nhưng nếu tuổi chưa tới 50, ắt
phải được dự 5 ngày một lần ngự. Màn rách còn cất dấu, trai biển
nẩy hạt châu khi đã sống lâu năm, thánh nhân chỉ rõ cách dùng
cày nghĩa để làm ruộng tình.
Ai bảo Ngũ Kinh của Khổng Tử chỉ bàn chuyện khô khan về
đạo đức. Thật thú vị Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích, một thiền sư một
đạo sĩ đã bàn chuyện tình yêu bằng kinh điển đạo Khổng thật
là sống động.
Ngô Thì Nhậm sinh năm 1746 tại làng Thanh Oai, huyện Thanh
Trì, Hà Đông, con trưởng Ngô Thì Sĩ. Gia tộc họ Ngô một bồ Tiến
sĩ.
Năm 1765 ông đỗ đầu thi Hương. Năm 1769 đỗ khoa Sĩ Vọng được
bổ làm Hiến sát phó sự Hải Dương. Năm 1775 đỗ tiến sĩ, được bổ làm
Hộ khoa cấp sự trung, rồi thăng Giám sát Ngự sử đạo Sơn Nam, sau đổi
làm Đốc Trấn Kinh Bắc.
Năm 1780 xãy ra vụ án Trịnh Tông. Việc phác giác Ngô Thì
Nhậm bị nghi ngờ là người tố cáo vì được thăng Hữu thị lang
bộ Công. Bây giờ thân phụ ông mất ông lấy cớ về chịu tang tránh
sự dèm pha.
Tháng 9 năm Nhân Dần 1782 Trịnh Sâm mất, tháng 10 kiêu binh
nổi dậy đưa Trịnh Tông lên ngôi chúa. Ông trốn về quê vợ Sơn Nam ẩn
náo suốt 6 năm.
Năm Mậu Thân 1788. Nguyễn Huệ đem quân ra
Bắc lần II, ông được Trần Văn Kỷ tiến cử. Nguyễn Huệ trọng dụng
phong làm Tả Thị lang bộ Lại tước Trình Phái Hầu. Trong thời Quang
Trung tài năng ông được phát huy trong lĩnh vực ngoại giao, chính trị,
quân sự. Nào ngờ chưa đầy 4 năm vua Quang Trung mất trong căn bệnh
đột ngột ngày 29-4 nhuần năm Nhâm Tý, 1792, Ông được triều đình cử
làm Chánh sứ đi báo tang và cầu phong cho vua Cảnh Thịnh mới lên
mười. Lên đường ngày 20-2 năm Qúy Sửu 1793 đến Yên Kinh ngày 8-5 và
trở về nước tháng 9 âm lịch.
Tình hình chính trị rối ren triều Tây Sơn, năm Bính Thìn
1796, ông rút lui về phường Bích Câu ĩ. Những nâm tháng cuối
cùng triều Tây Sơn, ông lại được gọi về Phú Xuân. Nâm 1801, Phan Huy
Ích và ông bị bắt, được Gia Long hỏi ý dò xét, rồi được tha.
Năm 1803 ông cùng Phan Huy Ích, Nguyễn Gia Phan bị Binh Bộ Thượng Thư bộ
Binh Đặng Trần Thường đem ra đánh ở Văn Miếu, sau trận đánh đòn ông về
nhà không lâu thì mất ngày 16-2 năm Quý Hợi , 1803 hưởng dương 57 tuổi.
Ông để lại các tác phẩm : Nhị thập nhất sứ toát yếu. Bút hải tùng
đàm, Ung văn nhàn vưịnh, Ngọc đường xuân khiếu, Cúc hoa thi trận, Thu
cận dương ngôn, Cẩm đường nhàn hoài, Hoàng hoa đồ phả, Hàn các anh
hoa, Kim mã hành dư, Xuân thu quản kiến, Trúc lâm tông chí nguyên
thanh,
Được TS Nguyễn Tuấn Cường, nhà nghiên cứu
Hán Nôm, gửi cho Ngô Thì Nhiệm toàn tập, trong đó có Cúc Hoa Thi
trận, thật là quý báu, xin cảm ơn anh. Các bản dịch nghĩa nhiều bài
người dịch không lưu ý đến mạch thơ thông suốt toàn bài, người viết
bài thơ muốn nói gì , gửi gấm tâm sự gì ? bài thơ có liên hệ
gì trong tiểu sử; nên nhiều bài câu
này không thông với câu kia. Ví
dụ bài 11 câu “ Lãi chu nhã hứng
dật kinh đường”. Dịch “Hứng thanh
nhã của thuyền Phạm Lãi tràn ra ở kinh đường.”, chú thích: “kinh đường là ao ở kinh đô.” Không ai có
thể ngao du trong một cái ao ? Điều này ngược với chuyện ai cũng
biết Phạm Lãi sau khi giúp Việt Vương Câu Tiễn thắng nước Ngô, ông từ
quan cùng Tây Thi ngao du Ngũ Hồ, 5
hồ lớn Trung Quốc, và các sông Giang Bắc, Giang Nam, chứ không phải là
ngao du trong ao ở kinh đô. Bài 14 câu 1 : “Bỉ thướng thường lai, thử há
đường,” dịch: “Dấy lên nhà thì đây xuống khỏi nhà. “ có lẽ người
dịch cũng không hiểu mình viết gì ? Người Việt có câu ai cũng biết :
“Hết cơn bỉ cực đến hồi thái lai.” Tôi xin dịch lai: “Qua cơn khổ cực
đến vận may thời thái lai, nào có chọn con đường”. Ý nói vì bị nghi
là người tố giác trong vụ án Trịnh Tông, nên khi Trịnh Tông lên ngôi
chúa, ông phải trốn tránh, ẩn náo khổ cực suốt 6 năm, cả Phan Huy
Ích vì là em rể cũng bị hệ lụy, nhưng khi Tây Sơn Nguyễn Huệ ra
Bắc lần thứ hai, ông lại được lại được Nguyễn Huệ mời ra trọng dụng
lo việc Bắc Hà và sau đó việc ngoại giao với nhà Thanh
sau khi chiến thắng. Sơ sót như thế
khá nhiều trong bản dịch.
Trong Cúc Thu Bách Vịnh có những bài thơ
Ngô Thì Nhậm thương nhớ đến vua Quang Trung và cho rằng triều Quang
Trung là thời đại vua sáng tôi hiền tụ họp một nhà. Sau khi vua mất
ông được cử đi sứ báo tang. Lòng ông luôn thương nhớ trông vời
đến lăng Đan Dương nhà vua, bài 27, ông khâm phục : “ Võ công hiển hách
nơi nương tựa, Mưu lược anh minh lưu
hiến chương. “ Ông ước mơ gặp lại một thời đại như thế, nhưng không
còn tìm thấy nữa.
1.Cảm hứng họa lại bài thơ ông Thị Ngự.
Nguyên dẫn : Gặp tiết Trùng Cửu (Mồng 9 tháng 9 Âm
lịch) ốm ngồi ngắm cảnh cảm thấy rất buồn. Tiếp được thơ ông đưa tới,
bất giác tinh thần phấn chấn, bèn lạm nối vận kính gửi sang ông,
mong ông xem tới và sửa cho thì thật là điều vinh hạnh.
Hoa phụng tiên thơm nức nhà phụng nghi.
Trăng soi đầy thềm, tuyết phủ đầy bờ ao. Khen ông lúc hứng lên vẫn
thường có rượu. Cười cho tôi khi ốm vẫn gượng làm thơ. Thuật lại
chuyện vui họ Phùng coi thường Doanh Quốc. Phùng Đạo thời Ngũ Đại
thời Hậu Đường làm Tể Tướng. Hậu Đường bị Tấn diệt. Phùng Đạo đầu
hàng rồi cũng làm Tể Tướng. Hậu Tấn bị Hậu Hán diệt, Hậu Hán bị
Hậu Chu diệt. Đạo cứ đầu hàng các triều đại mới. Triều Hậu Chu
được phong làm Doanh Quốc Công. Phùng Đạo viết bài Trường Lạc Lão từ
nói về sự vinh hoa của mình trải 4 triều đại, 10 đời vua. Quan niệm
Nho giáo chính thống “Trung thần bất sự nhị quân” xem khinh Phùng Đạo
là không tiết tháo, liêm sĩ. Tài khó át bầy tôi nhà Chu, xem rẽ việc
ẩn núi Thú Dương. Bá Di, Thúc Tề bầy tôi vua Trụ nhà Ân. Trụ Vương
tàn ác bị Chu Võ Vương diệt. Bá, Thúc không chịu ăn thóc nhà Chu. Lên
núi Thú Di ăn rau vi và cuối cùng chết đói. Mạnh Tử khen là thánh
chí thánh, người thanh cao nhất trong các bậc thánh nhân. Chốn phòng
tu muốn tu mà chưa ổn. Vì có ngón tay nhỏ gỏ cửa nhiều phen quấy
rầy. Tiêm thủ là tay nhỏ tay phụ nữ trong Kinh Thi, đây chỉ triều đình vua Cảnh
Thịnh.
Bài thơ Ngô Thì Nhậm muốn nói đến thân
phận ông giữa hai lựa chọn. Hoặc trung quân ông vua Lê Chiêu Thống,
với chúa Trịnh Khải thời đại suy
tàn, như Trụ Vương tàn ác chẳng ra
gì, bị nhân dân chán ghét, hai ông lẫn trốn trên núi Thú Dương, đốt
núi cũng không ra, ẩn đến chết đói , được Mạnh Tử khen là
thánh của bậc thánh và Phùng Đạo ai thắng thì theo ra làm quan,
làm Tể Tướng quản lý việc nước. Ngô Thì Nhiệm và Phan Huy Ích không
như Lý Trần Quán, Trần Danh Án người đương thời theo Trịnh, Lê
chống Tây Sơn đến chết, hai ông đã chọn thái độ Phùng Đạo. Các ông
phục vụ cho nhân dân cho đất nước, lo công việc đối ngoại trước láng
giềng to lớn hơn mười lần nước ta lúc nào cũng muốn sát nhập nước
ta thành quận huyện. Triều đại chúa Trịnh, nhà Lê, vua Quang Trung,
Thái sư Bùi Đắc Tuyên chiếm quyền lực triều đình, tướng Vũ Văn Dũng,
Trần Quang Diệu hay vua Gia Long chỉ là chuyện nội bộ Việt Nam, các
triều đại mạnh được yếu thua, cờ đến tay ai nấy phất xưng là Thiên
mệnh, nhưng đất nước, nhân dân chỉ là một. Thời ông khái niệm quốc
gia, dân tộc chưa rõ như ngày nay nhưng hai ông đã thấy rõ việc đó. Khi
triều đình trong vòng tranh chấp, hai ông không đính vào việc tranh giành
quyền lực, sau khi đi sứ báo tang và cầu phong cho vua Cảnh Thịnh năm
1793, Bùi Đắc Tuyên đã cho con Bùi Đắc Trụ làm Trấn Thủ Quảng Nam,
chức vụ thời các chúa Nguyễn dành cho Thế Tử chuẩn bị việc thừa
kế ngôi Vương. Hai ông về ẩn nơi chốn thị thành: người trở thành thiền sư, người thành
đạo sĩ nhưng cũng chẳng yên, chiếu chỉ vua Cảnh Thịnh lại mời ra,
lại lên đường lo việc bang giao.
Phụng tiên thơm nức phụng nghi đường,
Trăng sáng đầy thềm ao tuyết tràn.
Khen hứng ông thường đầy rượu uống.
Tự cười ta bệnh vẫn thơ tuôn.
Lạc quan Phùng Đạo khinh Doanh quốc,
Tài khó Di, Tề ẩn Thú Dương.
Thiền viện muốn tu, tu chẳng ổn,
Tay ngà ai gõ cửa bao phen.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Phụng tiên hương phức phụng nghi đường.
Nguyệt mãn đình giai tuyết mãn đường.
Hứng đáo tiên công tần hữu tửu,
Bệnh lai tiếu ngã cưỡng thành chương.
Tự truyền Phùng Lạc đê Doanh Quốc,
Tài khó Di Tề ẩn Thú Dương.
Thiền viện muốn tu tu chẳng ổn,
Khâu quan tiêm thủ nảo đa phương.
2. Nguyên dẫn: Đọc bài đến câu : “Xỉ phát ninh vô
cảm vãn dương.” Răng tóc đổi khác, lẽ nào không cảm khái trước cảnh
chiều, nỗi buồn lại tăng thêm, không thể ngăn nỗi. Những điều ca tụng
nhau trong bài trước của tôi, chính là cái tự khen tự chê của nhà
thơ, chẳng sợ người ngoài biết, chỉ sợ người ngoài không biết đến
mà thôi. Song buồn một nỗi, đó đều là những lời dong dài ! Còn như
bàn về cái lẽ “hàm chương “ thì làm sao có thể nói hết được ! Nhưng
trong lúc nhàn rãnh, xướng họa thổ lộ chí hướng đành tạm tả cái
mối tình sâu kín của ta, và phó thác cho “Trùng Dương chủ nhân” nhận xét, mong được cười và lưu lại
lấy làm hân hạnh.
Trùng Dương chủ nhân, là một chưởng môn Đạo Lão đời nhà
Thanh, đây chỉ Phan Huy Ích Bảo Chân đạo sĩ.
Thân là học sĩ bận rộn bước lên
nhà ngọc Viện Hàn Lâm. Thương thay mãnh trăng tàn(nơi quê nhà) in bóng
trên ao vắng. Mày râu già rồi luống uổng soi gương. Gấm vóc
(triều đình Tây Sơn) tặng nhiều, chưa lời báo đáp. Dép ngọc thoa
vàng, ẩn chốn thị thành thật là bậc đại ẩn. Tiếng thưa, rượu nhạt
lại là tiết nguyên dương. Cùng ông quên cả dáng hình quên cả ý định.
Hà tất phải nhọc lòng tìm phương chữa chứng cuồng điên.
Thân phận đa đoan chốn ngọc đường,
Bỏ trăng tà bóng lạnh ao vườn.
Mày râu già thẹn gương soi ngắm,
Gấm vóc nhiều phen chữa báo đền.
Dép ngọc, thoa vàng ông
đại ẩn,
Tiếng thưa rượu nhạt tết Trùng Dương.
Cùng ông quên dáng hình, quên ý,
Hà tất
nhọc công chữa chứng cuồng.
Nguyên tác
phiên âm Hán Việt :
Thân
thị đoan minh bộ ngọc đường,
Khả lân
tà nguyệt ấn hàm đường.
Tu mi
lão hỉ đồ lâm kính,
Cẩm tú
đa hồ mạc báo chương,
Châu
lý, kim thoa chân đại ẩn,
Hy
thanh, đạm tửu hữu nguyên dương.
Dữ công
vọng tưởng khiêm vong ý,
Hà tất
y cuồng khổ mịch phương.
3. Kính
đọc bài giai tác, hùng tráng thay. Cái phong vị như tập Kích Nhưỡng
của Thiệu Tử.
Thiệu Tử
là Thiệu Ung đời Tống, sống ẩn dật nhiều lần được mời ra làm quan,
nhưng ông từ chối. Ông có tác phẩm Y Xuyên Kích Nhưỡng tập.
Bổng dưng phút chốc được vời
đến triều đình (minh đường).
Như cây quế cạnh cung trăng, như cây liễu bên ao. Như chiếc chỉnh tự
chứa đầy (kiến thức). Tài kẻ cuồng ngông được tiếng nhiều áng
văn chương rực rỡ. Như cây trước sân giữ lại lá chống chọi với sương
giá. Được cài hoa, mang trâm hốt khi
đứng chầu trước nhà vua (thái dương). Gảy đàn (tri kỷ) mời ông đêm mai
dời gót tới. Chỉ bảo cho tôi con đường lớn, để biết hướng mà đi.
Như không lại đến chốn minh đường,
Quế ở trong trăng, ao liễu buông.
Chất chứa lòng đầy như chiếc chỉnh,
Tài cuồng rực rỡ áng văn chương.
Cây còn lá biếc qua đông giá,
Trâm tóc hoa cài trước thái dương.
Đàn gảy đêm mai mong bạn tới,
Chỉ bàn tôi biết hướng con đường.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Hư linh phương thốn hữu minh đường,
Quế tại thiềm khuyên, liễu tại đường.
Tích thực tự doanh ngung nhược phẫu,
Tài cuồng đa tại phỉ nhiên chương.
Diệp lưu đình thụ đương hàn tuế,
Hoa sáp triều trâm đối thái dương.
Cổ sắt lai tiêu kỳ bí dỉ.
Chu hành thị ngã thứ tri phương.
4 . LỜI THAN VUI MỬNG Kính nhận được quý thơ, thấy ý
muốn biện hộ cho Dì Gió. Vậy xin họa nguyên vận mong ông cười mà
nhận cho.
Lòng tiêu diêu sảng khoái tự mái nhà
tranh. Vì chưa rảnh để đến nâng chén thưởng cảnh. Cuối xuân còn
bận rộn bên đài Đồng Tước. Kiều : Một nền Đồng Tước khoá xuân hai
Kiều. Tào Tháo xây đài Đồng Tước, con út là Tào Thực làm thơ
ca tụng vẻ đẹp hai chiếc cầu bắt ngang. Khổng Minh muốn khích Chu Du
đánh trận Xích Bích thay một chữ khoá rồi diễn dịch thành : Tào
Tháo xây đài Đồng Tước để chuẩn bị bắt Nhị Kiều là vợ Tôn Quyền
và vợ Chu Du về giam ở đấy. Câu này Ngô Thì Nhậm muốn đùa Phan Huy
Ích còn bận với các dì hầu thiếp. Đầu thu xao lãng với văn chương
bên sông Ngân. Bảo toàn năng lực luyện thuốc tiên với thủy ngân để khai
mở trăng thu. Đạo Lão luyện thuốc trường sinh với chì và thủy
ngân và quan niệm sự giao hợp nam nữ điều độ cũng là một phương thuốc trường sinh. Sức khỏe còn sung sức non chống chọi
với ánh dương già. Rất mừng cho ông nay vẫn còn cường tráng. Theo
đường trận thơ bày cuộc vuông tròn.
Bài thơ này Ngô Thì Nhậm trêu Phan Huy Ích
than là vì Dì Gió mà cảm bệnh không đến dự tiệc: Không đến uống
rượu thưởng cảnh với ông vì có nhiều vui thú nơi mái thảo đường, vì
bận rộn với các dì hầu thiếp còn đang xuân. Mùa thu đến sông Ngân Hà
sáng tỏ cũng xao lãng với văn thơ. Lo luyện thuốc tiên với thủy ngân
để khai mở vầng trăng tỏ. Thân thể còn tráng kiện gân sức. Rất mừng
ông vẫn còn khỏe mạnh, tôi
theo cuộc vuông tròn của ông bày
trận văn thơ.
Tiêu dao vui thú mái tranh quê,
Chẳng rãnh nâng ly thưởng tuyết về.
Đồng Tước xuân sang còn vướng bận.
Ngân Hà thu đến lãng xao thơ.
Bảo tồn luyện thủy trăng thu tỏ,
Tráng kiện còn gân sức lão già.
Mừng bạn hãy còn thân tráng kiện,
Vuông tròn bày cuộc trận văn thơ.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
KHÁNH VÃN
Tiêu diêu khởi thị lậu mao đường,
Vị hạ huề bôi thưởng tuyết đường.
Đồng Tước xuân thâm mang tác đối,
Ngân hà thu thiện lãn vi chương.
Bảo năng tàng hống khai thu nguyệt,
Kiện đáo sinh thê chiến lão dương,
Đa hỷ thi ông cường bất túc,
Kinh tòng thi trận bố viên phương.
5. Nguyên dẫn . Tiếp được quý thư phúc đáp nói rằng
quan Sĩ sư gửi tới. Xét rõ tình lý không cần phải biện bạch nữa,
kính y vần trước, mong được vui nhận.
Quan Sĩ sư là người xét xử kiện tụng.
Phan Huy Ích cho rằng mình bị hàm oan. Ngô Thì Nhậm tiếp tục
đùa cho rằng án tình rõ ràng, tình lý không cần phải biện bạch,
thanh minh nữa. Bữa tiệc thanh cao hôm trước có đông đảo bạn bè như
bạn Mạnh Thường Quân đến thưởng trăng, ngắm hoa làm thơ, thì chú như vua
có giai nhân bước vào cung nên bận rộn không đến. Tôi chẳng buồn vì
có nhiều bạn làm thơ ngâm vịnh. Nào ai cấm chú luyện thuốc tiên, như
Lã Động Tân luyện thuốc, vợ chồng cùng lên tiên. Chú đừng biện bạch
chim hồng bay cao không có sức. Bay vạn dặm trong gió thu mát cũng là
một phương thuốc hay.
Án tình đã đưa đến tụng đường đối
chứng. Say sau bữa tiệc Cao Dương trăng sáng đầy ao. Ba ngàn khách quý
từ biệt cửa Kim Mã. Hai trăm giai nhân bước lên cung vua lầu Kiến
Chương. Tăng Tử Cố chẳng buồn vì đã có thi xã. Nào ai ngăn nỗi Lã
Thuần Dương luyện linh đan. Lông cánh chim hồng chớ bảo là không có
sức. Muôn dặm gió thu mát, ấy là phương thuốc hay.
Tiệc Cao Dương . Kinh Thi : tiệc người phẩm chất thanh
cao.
Kim Mã: Đời Hán đúc ngựa đồng đặt tại cung Vị Ương gọi
là Kim Mã môn. Ở đó các quan Học Sĩ Đãi Chiếu làm việc. Về sau Kim
Mã chỉ nơi các bậc văn chương Hàn lâm học sĩ làm việc. Mạnh
Thường Quân được ba ngàn khách tiễn. Hai trăm cung nữ được vua tuyển
vào cung Kiến Dương đời Hán.
Tăng Tử Cố là Tăng Củng đời Tống. Lã Thuần Dương là Lã
Động Tân đời Đường vợ chồng cùng đắc đạo thành tiên.
Đối chứng án tình trước tụng đường,
Cao Dương say tiệc trăng ao vườn.
Tam thiên khách tiễn cửa Kim Mã,
Nhị bách giai nhân lầu Kiến Chương.
Thi xã chẳng buồn Tăng Tử Cố.
Thuốc tiên ai cấm Lã Thuần Dương.
Chim Hồng lông cánh nào không sức.
Vạn dặm gió thu phương thuốc thơm.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Tình án tằng kinh chứng chủng đường,
Cao Dương túy hậu nguyệt doanh đường.
Tam thiên gia khách từ Kim Mã,
Nhị bách giai nhân thượng Kiến Chương.
Thi xã bất sầu Tăng Tử Cố,
Tiên đan thùy cấm Lã Thuần Dương.
Hồng mao mạc vị phong vô lực,
Vạn hộc thanh thu vị thảo phương.
6. VUI THUẬT NỖI LÒNG
Nguyên dẫn : Phu Tử nói : “ Thơ có thể hưng khởi ý
chí, có thể xem xét được sự được mất, có thể tụ tập được mọi
người, có thể gây oán thù giận dữ. “ Từng nhớ năm trước, hai nhà
chúng ta, xướng họa thù tạc, có tới vài chục bài thơ, đều lưu lại
làm tài liệu cho nhà mình, đến nay trở thành cuộc đàm đạo đẹp. Bọn
ta nay nhân thưởng chén tiết Trùng Dương, nên cảm hứng mà thành thơ.
Có lẽ thần thơ có ý xúc động đó chăng ? Không thế thì năm tháng lần
lửa không lúc nào rãnh mà mở cuộc chơi văn, thật cũng phủ phàng với
cái vui thú vô cớ mà tạo hóa đã ban cho chúng ta. Bèn nối vận trước
để tả niềm riêng mong được nhận cho.
Đến nay nhà thơ vẫn học theo nếp cũ. Hồ
phán thủy vẫn như xưa bốn bề trong suốt . Vui thú tao nhã vui
tiếng đàn ca. Cuộc chơi thanh cao nơi
cảnh đẹp sông sâu nước cả. Khói nước ngày thường tạm gửi hứng vào
đó. Gió thổi mây bay rồi cũng đi theo ánh dương. Tin rằng thú xướng
họa hơn hẵn các thú vui khác. Nhưng ý đó phải hỏi bậc cao nhân đã.
Hồ phán thủy. Giữa hồ có phán cung làm nhà dạy học.
Quốc tử giám còn gọi là phán cung.
Bậc đại phương theo Trang Tử là người có kiến thức rộng,
có tầm mắt nhìn xa trông rộng.
Nếp cũ người thơ theo đến nay,
Phán hồ trong suốt tỏ tường bày.
Tiếng đàn ca hát vang vang tiếng,
Sông nước rong chơi cảnh đẹp thay.
Khói nước lòng thường theo hứng gửi,
Gió mây soi bóng ánh dương đầy.
Xướng họa tin rằng hơn mọi thú,
Cần hỏi cao nhân cái ý này.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
TỰ LẠC HOÀI
Thi thất như kim học khẳng đường,
Phán hồ y cựu triệt phương đường.
Lạc danh giáo hệ huyền ca hưởng,
Du tuấn anh du quýnh lạo chương.
Yên thủy tâm thường liêu thác hứng,
Phong vân đáo để các tòng chương.
Canh thù tự tín hiền tha hiểu,
Thử ý hoàn tu chất đại phương.
7. Nguyên dẫn : Mắt đẹp cười tươi, nhưng vẻ mặt
chất phác, lời thêu câu dệt, nhưng tinh thần đọng ở trong lòng. Tóm
lại hàng tập hàng thiên cũng không ngoài việc đem lòng để hiểu lòng
mà thôi ! Cho nên lòng đã hiểu lòng, tất có điều gửi gắm vào sự
vật, thổ lộ ra lời nói. Còn như sự vật sở dĩ được gửi gấm, lời
nói sở dĩ được thổ lộ, cũng như cá sở dĩ nhảy, chim sở dĩ bay,
chỉ có thể nói ra điều mình nói được, mà không thể nói ra những
điều không thể nói được. Đúng như lời ông dạy bảo: “ Đụng vào máy
thi ca, là làm đầu mối của nó thêm kỳ diệu.” Đó cũng là chỗ tương
đắc của bọn ta, càng không thể dễ mà nói ra bằng lời được. Bèn nối
bài trước, để ghi lại niềm vui trong cuộc chơi này.
Ông từng bày trận bút thật đường hoàng.
Đâu phải nghiệt ngã tranh đua với Lã Đường. Lã Đường tức Thái
Thuận (1440- ?) Người làng Liễu Lâm, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh, giữ
chức Sái Phu Tao Đàn Thập Nhị Bát Tú do vua Lê Thánh Tôn làm Tao Đàn
Nguyên soái, tác phẩm : Lã Đường Di cảo. Chuyện rất hợp ý nhau như
chuông chín hồi đã đổ. Vẽ ra thì khó hết ý như cây mọc nghìn cành.
Chỉ có tiếng Bồ Đề là có thể giác ngộ. Bồ Đề có nghĩa là chính
giác. Luôn động tới bầu Thái Cực mới thấy Thái dương. Kinh Dịch cho
rằng vũ trụ phát sinh từ Thái Cực sinh ra lưỡng nghi : Âm Dương . Lưỡng nghi sinh ra tứ tượng
(bốn mùa : Xuân hạ thu đông), tứ
tượng sinh ra bát quái (8 quẻ, 8 hướng) bát quái sinh ra ngũ hành :
Kim mộc thủy thổ hỏa, ngũ hành sinh ra bốn mùa, bốn mùa sinh ra vạn
vật. Người xưa cho rằng mặt trời soi sáng cả vũ trụ, vì chưa có
điều kiện như các nhà Thiên Văn học ngày nay nhìn thấy có nhiều mặt
trời to lớn trong các giải ngân hà khác.
Chỉ có một mình ông là hiểu tôi. Cùng vui cùng cùng một ý
nhỏ hồn nhiên.
Ông từng bày bút trận đường hoàng,
Đâu phải tranh đua với Lã Đường.
Ý hợp tâm đầu chuông chín khúc.
Khó mà cây vẽ hết nghìn cành.
Bồ Đề mới có lòng năng giác,
Thái Cực rạng soi bóng thái đương.
Chỉ có mình ông tôi được hiểu,
Cùng vui cùng ý nhỏ hồn nhiên.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Công tằng bút trận bố đường đường,
Khắc tước ninh tu tranh Lã Đường.
Thoại đáo đầu cơ chung cửu khấu.
Đồ nan tận ý thụ thiên chương.
Bồ Đề duy hữu thanh năng giác,
Thái Cực thường ư động kiến dương.
Thị ngã tri công chân hiếu ngã,
Lạc hòa dĩ ỵ tiểu cư phương.
8. Nguyên dẫn : Ta làm cuốn Tân Thanh (Trúc Lâm Tông
Chỉ Nguyên Thanh) cốt là đem chổ sâu sắc huyền diệu của họ Thích tìm
kiếm ra, tóm lại không ra ngoài khuôn khổ của Khổng Phu Tử ta .
Xưa những người bàn về đạo lý, thường chê đạo Phật là dị đoan,
vì chỉ thấy chổ khác của nó chứ chưa biết chổ giống của nó. Bởi
vậy khiến phái mặc áo thâm, tự lập muôn hộ riêng đối lập với đạo
Nho ta bằng gươm giáo. Khổng Tử nói :” Đạo ta xâu lại làm một .” Xâu
như xâu tiền tản mác thành một chuổi. Nghĩ rằng ông cũng đã hiểu rõ
ý tôi. Nên xin cho lời tựa trên đầu, đó chính là thứ được gọi là
bài văn để chỡ đạo, chớ không phải loại xướng ca thù tạc, nên đâu
dám không coi việc quý trọng lời nói làm lệ thường. Kính họa hai
bài thơ vần trước đưa sang mong ông chỉnh giúp.
Bài 1. Phật giáo mầu nhiệm đầy nhà thăm thẳm. Không tiếng
tăm, chẳng phép tắc trong suốt tự hồ băng. Đạo không có hai đường
“không “ mà “sắc. Lời nói đồng lòng bóng tối tự sáng dần. Tam
Tổ. vua Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang tu thiền, thiền nhập thế. Lục Cửu Uyên
cùng với Chu Hy đời Tống chủ tĩnh, tĩnh sinh dương. Ý đó rất
sâu nào ai biết được. Người trong hàng quân tử mới hiểu điều này.
Phật giáo cao sâu mầu nhiệm đường,
Không thanh, không pháp suốt như băng.
Đạo không hai nẽo không mà sắc,
Tiếng nói một lòng tự sáng dần.
Tam Tổ tu thiền thiền nhập thế,
Cửu Uyên lấy tĩnh, tĩnh thành dương.
Sâu xa ý đó nào ai hiểu,
Chỉ có người quân tử biết rành.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Kỳ nhất
Phạn giáo huyền thâm cách áo đường,
Phi thanh phi pháp oánh băng đường.
Đạo vô nhị trí không như sắc,
Ngôn hữu đồng tâm ảm tự chương.
Tam Tổ đầu thiền thiền nhập thế,
Cửu Uyên chủ tĩnh tĩnh sinh đương.
Cực thâm để ý thùy tri đắc,
Phí ẩn trung nhân hội thử phương.
9. Có thế gọi là phòng tu cũng có thể gọi là phòng
sách. Cỏ hoa lung linh soi bóng trên hồ nước. Ai bảo sư Đại Điên không
hiểu đạo lý. Đại Điên người đời Đường tu ở Tiều Châu, khi Hàn Dũ bị
biếm ra đây, hai người chơi thân với nhau. Đại Điên được Hàn Dũ khen là
người thông minh biết đạo lý. Lẽ nào thầy Phật Ấn kém tài văn chương
. Phật Ấn đời Tống tu ở chùa Kim Sơn kết bạn văn chương với Tô Đông
Pha. Muôn nhánh sông Hằng (Gange) cùng đổ về biển. Ngàn hoa núi Thứu,
núi Linh Thứu, nơi Phật thuyết kinh Pháp Hoa đều hướng về ánh
mặt trời. Diện mạo trong đó nhờ cả vào bàn tay khéo. Khoanh bằng cái
quy (compa) thì thành hình tròn, kẻ bằng cái củ (êke) thì thành hình
vuông. Người xưa khoanh tròn ví dụ như đào giếng thì đóng cây cọc và
dùng sợi dây quay vạch thành hình tròn. Kẻ vuông thì có cây thước
thợ đo góc vuông.
Gọi là thiền viện cũng thư phòng,
Hoa liễu soi soi bóng nước trong.
Ai bảo Đại Điên không đạo lý,
Lẽ nào Phật Ấn kém văn chương.
Sông Hằng muôn nhánh trôi về biển,
Núi Thứu ngàn hoa hướng ánh dương.
Mi mắt nẳm trong tay khéo léo.
Khoanh thì tròn trặn, kẻ thì vuông,
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Kỳ nhị
Khả hộ thiền viên khả thư đường,
Hoa liễu y y kính thủy đường.
Thùy vị Đại Điên phi đạo lý,
Khởi tằng Phật Ấn thiểu văn chương.
Hằng Hà vạn phái đều quy hải,
Thứu Lĩnh thiên hoa tận hướng dương.
Mi mục thử trung bằng diệu thủ,
Quy thành viên thể, củ thành phương.
10. Nguyên dẫn : Mạnh Tử nói : “Người có đức sáng
mưu khôn thường lộ ra lúc gặp nạn. Tôi cùng ông lăn lộn sóng gió, nếm
đủ gian nguy, luôn luôn gặp tai họa vì danh lợi hảo, nhưng đức sáng mưu
khôn, mờ mịt vẫn hoàn toàn mờ mịt. Điều đó bọn ta nên cùng lo lắng,
và gắn gỏi lên. Nhẫn có thể đeo tay, nhưng phải đợi có thứ vàng
ròng; gương dùng để soi, cần phải loại gương thật tốt. Đó là
cái ý sở dĩ tôi gợi nên được, nhưng còn mong ở sự giúp đỡ thiết
thực của ông; để được gọi là vàng ròng gương tốt, việc giúp đỡ làm
nên nhẫn nên gương ấy thực nhiều. Như được ý phô bày, thật vô cùng
mừng rỡ mà thỏa lòng. Kính nối vần trước để ghi lại sự đồng tâm.
Bản chính văn Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên thanh, tôi đang chép lại cẩn
thận, sớm mai kính nạp.
Thân quý ngàn vàng, từ xưa cấm ngồi đưới thềm. Nguy cơ về
thế lợi như ngựa chạy rong trên đưởng. Lời Phật nói chỉ có gương tốt
mới soi thấy được. Lời ngã nghiêng đâu dám đùa với từ chương, Quẻ
Khảm ra từ hang Nguyệt, quẻ Ly sinh ra nguyệt. Nước chảy từ suối
dương, lửa ở bên ngoài dương. Chỉ bạn ta mới hiểu được ta. Nơi sâu kín
không hình dáng, cũng không phương hướng.
Trăng: quẻ Khảm. Kinh Dịch: Tượng của quẻ khảm làm nước,
làm mặt trăng. Hậu Thiên đồ : Khảm ở phương Bắc nên tượng là nước.
Tiên thiên đồ: Khảm ở chính Tây nên trăng mọc ở đó.
Quẻ Ly : Thoán từ nói Ly là phụ thuộc, mặt trời mặt
trăng phụ thuộc ở trời. Theo Tiên Thiên đồ : Ly là chính đông nên nhật
nguyệt phụ thuộc vào đó.
Thân quý ngàn vàng không lết đường,
Thế lợi nguy cơ ngựa chạy rong.
Phật thuyết chỉ soi gương tốt thấy,
Lời nghiêng đâu dám giễu văn chương.
Khảm từ nguyệt quẻ Ly sinh nguyệt.
Thủy phát dương sinh Hỏa ngoại dương.
Thấu hiểu ông ta, ông hiểu thấu,
Huyền huyền không thể lại không phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Thiên kim tự cổ giới thùy đường,
Thế lợi nguy cơ mã dật đường.
Phật thuyết chỉ duy minh tĩnh định,
Chỉ nguy khởi cảm lộng từ chương.
Khảm lai nguyệt quật Ly sinh nguyệt,
Thủy xuất dương tuyền hỏa ngoại dương.
Thức ngã ý trung tu ngã hữu,
Huyền huyền vô thể hựu vô phương.
11. Nguyên dẫn : Nhận được thơ ông, trong thơ dẫn ra
cái ý: “Hết lo lắng thì sẽ trở lại thanh tĩnh.” Ý này cũng giống
với cái lẽ: “Trước gào khóc rồi sau cười.” Trong quẽ Đồng nhân của
Kinh Dịch. Xưa nay những người biết được nghĩa chỉ có ba ông : Đào Chu
Công, Lưu Hầu và Nghiệp Hầu. Nhưng các ông Lưu Hầu và Nghiệp Hầu không
nhịn được cười sau lại gào khóc. Chỉ có ông Đào Chu Công thu xếp
được thật gọn ghẽ, ổn thoả. Tóm lại ba ông đều đạt tới mức biết
yên, biết lo, còn như việc khóc cười sao cho lẽ phải cũng đều do sự
sáng suốt mà thôi. Trong thơ trước những lời ông nói với tôi khiến tôi
vô cùng cảm động. Nay được câu ông khuyên việc: “ giữ gìn tấm thân,
giảm bớt công việc,” lại càng cảm động. Được lời vàng ngọc, đang
lựa chọn tứ thơ để kính họa lại, chợt nhớ câu: “Nhạn đà thu sắc
nhập Hành Dương.” Nhạn kéo mùa thu vào núi Hành Dương. Của
người xưa, bấc giác tìm được vần ý, cứ thế mà họa lại. Để đợi
lúc sum họp một nhà, sẽ cùng nhau thưởng thức, mong ông xét cho.
Trong mơ đã rõ cửa Kim Mã nhà Bạch Ngọc.
Hứng thanh nhã của thuyền Phạm Lãi tràn ra sông hồ. Tiến lui
đúng theo đạo lý, vẫn còn để lại khuôn phép. Áo lông cừu hay áo cát bằng vải, tùy thời
mà thay đổi ăn mặc khác nhau. Én đắp bùn mùa xuân làm tổ mới trong
vườn Cấm Uyển. Nhạn kéo mùa thu đưa vào Hành Dương. Khi thư nhàn tham
khảo thấu suốt cơ trời, lẽ vật. Người quân tử đâu có chịu đổi chí
hướng của mình.
Đào Chu Công: Phạm Lãi sau khi giúp Việt Vương Câu
Tiễn xong, từ quan lấy hiệu Đào Chu Công ngao du ngũ hổ. Lưu Hầu là
Trương Lương sau khi giúp Hán Cao Tổ xong từ quan lên núi tu tiên được
phong là Lưu Hầu. Lý Bí đời Đường làm quan các triều Huyền Tông, Túc
Tông, Đại Tông bị dèm pha từ quan. Đời Đức Tông được phong tước
Nghiệp Hầu.
Hành Dương cảnh Bình sa lạc nhạn trong Tiêu Tương Bát Cảnh
tức núi Hồi Nhạn tỉnh Hồ Nam, hồng nhạn, ngỗng trời đến
đây lại bay về.
Hán Thư :”Lịch Kim môn thướng ngọc đường nhật hỉ,” Sẽ tới
cửa vàng lên nhà ngọc ý nói lên làm quan. Ngô Thì Nhậm được vua Cảnh
Thịnh lại mời về triều đình.
Kinh đường: Sông hồ
Bài thơ tỏ ý muốn theo Phạm Lãi , không rơi vào vòng
tranh chấp triều đình Tây Sơn đời Quang Toản.
Mộng rõ cửa Kim, Bạch Ngọc đường,
Chơi thuyền Phạm Lãi chốn hồ sông.
Tiến lui theo đạo còn khuôn phép.
Cừu, cát tùy thời mặc phục trang.
Én lượn tổ xuân vườn ngự uyển,
Nhạn về thu tới núi Hành Dương.
Lẽ trời thấu suốt khi nhàn rỗi,
Quân tử không sao bỏ hướng đường.
Nguyên tác phiên ôm Hán Việt :
Mộng hiệu Kim môn bạch ngọc đường,
Lãi chu nhã hứng dật kinh đường.
Hành tàng thể đạo tồn quy củ,
Cầu cát tùy thởi dị phục chương.
Yến dựng xuân nê sào cấm ngự,
Nhạn đà thu sắc nhập Hành Dương.
Huyền cơ vật lý nhàn tham khảo,
Quân tử thao trì khởi dịch phương.
12. Nguyên dẫn : Nhận được sáu chữ ông đưa cho : “ Tâm vô
quý cung vô lệ” lòng không hổ, mình không trái, quả là một bí quyết
để giữ mình kính nối mãi lời hay.
Lòng thiền một mãnh như gương treo trước
nhà. Chẳng bàn chi chuyện bói rùa hay đánh cá ngựa. Ngày xưa thường
dùng mai rùa để bói quẽ tốt xấu, trò chơi đánh cá ngựa là chuyện
hên xui may rũi. Cõi đời dằng dặc đều việc đã qua. Thời gian đằng
đẵng đều việc văn chương đưa đến. Chưa thể buông chiếc thuyền câu để
tìm suối tiên. Đành làm bạn với tiếng chuông sớm trên cung Thượng
Dương. Vua Đường Cao Tông xây cung Thượng Dương để nghĩ ngơi khi tuần du.
Cõi mênh mang gửi mối tình chứ không gửi dấu tích. Giữ mình đúng
phương phép đó là một cách hay.
Bài thơ ý còn tạm làm quan giúp việc nước khi vua
Cảnh Thịnh còn dùng đến, chưa thể ở ẩn.
Lòng thiền một mãnh giữa nhà gương,
Cá ngựa, bói rùa chẳng luận bàn.
Thế sự nổi trôi qua tất cả,
Thời gian đằng đẳng chuyện văn chương.
Buông câu chẳng thể tìm tiên cảnh,
Làm bạn đành nghe chuông Thượng Dương.
Gửi một mối tình, không dấu tích,
Giữ mình cách tốt đúng theo khuôn.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Thiền tâm nhất phiến kính huyền đường,
Vô luận toản qui đã mã đường.
Phù thế du du giai vãn sự,
Lịch thời thế thế hữu lai chương.
Vi năng điếu đỉnh tầm tiên giáng,
Liêu bạn triêu chung khấu Thượng Dương.
Liêu khuyếch ký tình phi ký tích.
Đề cung củ phán thị lương phương.
13. ĐÙA THAY NÀNG HỒ DƯƠNG. Nàng Hồ Dương là công chúa,
chị vua Hán Quang Vũ, góa chồng sớm. Vua toan gã cho quan Đại Tư Không
Tống Hoàng. Xui Hoàng bỏ vợ cũ, Hoàng từ chối : “ Vợ từ thuở hàn
vi không thể bỏ”.
Tự biết thân phận như cánh hoa tàn cách
rèm trước nhà. May sao gặp được hồ gương trước vườn thơm. Thực
cầu cho duyên đẹp để hài lòng Đế Ất. Kinh Dịch quẽ Di Muội : “ Đế
Ất gã chồng cho em gái, như mặt trăng rằm tốt. Đế Ất đây chỉ vua Hán
Quang Vũ. Dám đâu đem mũ miện cũ gửi gắm cho Vương Chương. Vương
Chương học trò nghèo đời Hán, vợ nuôi ăn học, sau thi đỗ làm quan Kinh
Triệu Doãn. Miện là chiếc mũ dùng
cho quan Đại Phu, đây chỉ công chúa Hồ Dương, chị vua, bậc quyền quý
cao trọng. Vầng trăng lại tròn như gương tỏa sáng trên rừng chuối. Tấm
gương của Tống Hoàng toả như gương sáng trong nhân gian từ chối ân sũng
nhà vua, như mặt trời soi bóng cỏ cây, để khỏi làm điều trái với
tình nghĩa vợ chồng từ thuở hàn vi. Vầng dương đang trưa soi
bóng cỏ cây. Rau muống nước tầm thường khó đền được ơn mệnh. Mong ông
chỗ nông thì lội, chỗ sâu thì đi bè. Thơ Cốc Phong trong Kinh Thi “Tới
chỗ sâu thì đi bè, đi thuyền tới chỗ nông thì ta lội ta bơi.” Ý nói tùy thời mà xử thế.
Bài thơ cho thấy hai ông bị phe cánh trong
triều Cảnh Thịnh chi phối, nhưng ông cố gắng giữ lòng trung trực không
lệ thuộc.
Biết phận hoa tàn cách bức rèm,
May sao soi bóng chốn vườn thơm.
Mong cầu Đế Ất thành duyên đẹp,
Miện cũ Vương Chương đâu dám quên.
Rừng chuối ánh trăng tròn chiếu sáng,
Cây cỏ vầng dương trưa nắng lên.
Rau muống tầm thường ơn khó đáp,
Bè sâu, cạn lội mong ông sang.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
HÍ ĐẠI HỒ DƯƠNG
Tàn hoa tự phận cách liêm đường,
Đa hạnh phương viên ngộ kính đường.
Thành ký cát do hài Đế Ất,
Cảm tương cố miên thác Vương Chương,
Tiêu lâm kính chiếu trùng viên nguyệt,
Bao quán đan hồi ký ngọ dương.
Mao thủy tầm thường nan báo lý,
Ngưỡng công thiền vịnh cánh thâm phương.
14 : Lại bởn làm thay lời khuê oán cung nữ trong cung.
Hết cơn bỉ cực đến hồi thái lai, nào có dễ chọn đường. Đâu dám mong
sóng xuân dâng đến Tiền Đường. Tiền Đường là một đoạn sông Trường
Giang, mùa xuân sóng rất cao, ý trong bài nói gặp may được vua đoái
hoài đến. Thân phận sương sa liễu yếu có được vua hài lòng khi hầu
ngự vua. Nhiều móc ít vàng, cung nữ sắc nước hương trời thì nhiều
cho một mình vua, được vinh dự vua ngự khó viết nên văn chương. Cấu Kỷ
: Kinh Dịch quẽ cấu hào Cữu Ngũ : “Dĩ Kỷ bao quam hàm chương
hữu vẫn tự thiên”. Dùng cây kỷ bao che cho dây dưa, lẵng lặng xử tốt
trời sẽ giáng cho điềm lành. Cây
dưa được cây kỷ bao che, nguyên đã có chốn. Nàng đã có nơi nương tựa.
Kinh Dịch quẽ Bác hào Ngũ : “Quán ngư đễ cung nhân sũng, vô bất lợi.”
Lấy cả bầy như xâu cá cùng tiến cả làm cung nhân. Được vua yêu cũng
không gì lợi. Quẽ Bác Ngư như cung nhân vào cung từng đoàn, nhưng có
ngày có người sẽ được vua yêu. Nàng sẽ được vua yêu khi tiến
cung. Nàng tiên đẹp thử chiếc đỉnh
của tiên ông, cầm chày ngọc tán phương thuốc trường sinh. Bùi Hàng
đời Đường được chiếc chày ngọc bỏ chút huyền sương vào giả ở trên
cầu Lam Kiều để chế thuốc trường sinh thì gặp nàng Vân Anh kết duyên
thành vợ chồng rồi thành tiên bay mất. Ngô Thì Nhậm dùng điển tích
này để đùa với Phan Huy Ích: Bảo Chân đạo sĩ có tiên nương dùng
chày ngọc tán thuốc trường sinh,
sẽ sớm thành tiên.
Bài thơ cho thấy ông phân vân không dễ lựa chọn theo phe
phái nào trong triều Cảnh Thịnh.
Qua khổ gặp may dễ chọn đường,
Xuân tràn lòng cảm hứng Tiền Đường.
Sương sa liễu yếu khôn cung ngự,
Nhiều móc ít vàng khó khó viết chương.
Cấu Kỷ bao thời thân có chốn,
Bác Ngư có lúc gặp vầng dương.
Tiên đẹp, đỉnh tiên ông có thử,
Chày ngọc tán phương thuốc lão tiên.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Bỉ thướng thường lai thử há đường,
Xuân trào cảm vọng đáo Tiền Đường.
Kiếp sương nhược liễu nan cung ngự,
Thừa lộ chân kim dị trác chương.
Cấu Kỷ bao thời nguyên hữu quật,
Bác Ngư xuyên hậu cánh phùng dương.
Tiên thù háo thí tiên ông đỉnh,
Ngọc chữ phương nghiên bất lão phương.
15. ĐÙA THAY NÀNG HỒ DƯƠNG BÀY TỎ NỖI LÒNG.
Bài 1. Buồn nghe tiếng chim quyên.
Nguyên dẫn : Người xưa từng bày ra chuyện kẻ hỏi người
đáp giữa Vô Thị và Ô Hữu tiên sinh, trong ý vị lời bàn luận giữa họ
thường để lộ ra cái phận tự nhiên mà trời kia đã dành cho họ. Bọn
ta nhân duyên tình sử mà thành thơ, nêu ra được một đoạn hay cho là lý
thú, mô tả được vẻ đẹp 36 cung, ghi lại chuyện gió mây sương móc
thường ngày, đó chẳng qua là chuyện trong vòng giáo hóa cả. Còn
người xinh mắt đẹp kia há chẳng phải là để giúp ta hứng khởi lên.
Vì vậy bèn thay nàng Hồ Dương làm 5 bài cảm hoài họa theo vần
trước, trình ông phủ chính cho.
Vô Thị và Ô Hữu nhân vật trong bài Thượng Lâm Phú của Tư
Mã Tương Như. Ngô Thì Nhậm muốn dùng chuyện nàng Hồ Dương để nói thay
tâm sự của mình.
Chẳng phải là căn nhà chung sống đùm bọc
nhau thuở xưa nữa, sách Trang Tử gọi là Hú Xứ. Ngô thì Nhiệm nhắc
lại ngày xưa hai anh em bạn rễ cùng học với nhau với cụ Ngô Thì
Sĩ. Thế sự đã đổi thay theo thắng bại của sa trường. Cuộc hành quân
ra Bắc của vua Quang Trung đã đổi thay thế sự. Hồn hờn oán vang
vọng đứt ruột suốt ba canh nguyệt. Máu hờn khóc vua Thục Đế vẽ
thành cảnh đêm thất tịch, đêm mùng
7 tháng 7 âm lịch tương truyền Ngưu
Lang, Chức Nữ gặp nhau. Chuông lớn nước xưa ngân theo giọt đồng hồ
nước sớm. Thời thế đã đổi thay, tiếng chuông lớn nước xưa cũng phải
đánh theo giờ giấc mới. Cây cao thế gia ủ rũ dưới bóng chiều
tà. Nước cũ Vua Lê, chúa Trịnh giờ cũng như vua Thục Đế thác thành
chim đỗ quyên khóc nhớ nước, giọng khan
máu trong đêm Ngưu Lang Chức
Nữ gặp nhau. Những gia đình thế gia vọng tộc thời Lê Trịnh cũng như
cây cao ủ rũ vì thời thế đã hết. Nơi vườn Tấm không ngăn nỗi
giọt lệ song the. Tấm Viên là khu tư viên của công chúa Tấn Thủy đời
Hán bị Đậu Hiên cướp đoạt. Sách Hậu Hán Thư, Đậu Hiên truyện. Muốn
chạy lên cung trăng mây cao nhưng chưa biết cách nào. Sách Luân Hành Vương Sung đời Hán : Vợ Hậu
Nghệ là Thường Nga lấy cắp thuốc
chồng rồi trốn lên cung trăng. Sống trong thời mới dù có khóc than
cũng như chim đỗ quyên, chỉ có cách trốn lên cung trăng nhưng là chuyện
viễn vông không biết bằng cách nảo.
Bài thơ cho thấy ông lui về ở ẩn nhưng cũng không thể yên,
chỉ có trốn lên cung trăng mới có thể yên được,
Chẳng thuở đơn sơ chung nhà, trường,
Đổi thay thế sự ở sa trường.
Oán hờn đứt ruột ba canh nguyệt,
Máu khóc vẽ đêm
mưa ngâu tuôn.
Cố quốc chuông ngân hồ nước sớm,
Thế gia cây đẹp bóng tà dương.
Tấm Viên khôn nỗi đôi dòng lệ.
Lên nguyệt mây cao biết có đường.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
HÍ ĐẠI HỒ DƯƠNG CẢM HOÀI
Kỳ nhất: Cảm quyên thanh
Bất thị đơn sơ hú xứ đường,
Suy di sự thế khán sa trường.
Oán hờn vọng đoạn tam canh nguyệt,
Đề huyết trang thành thất tịch chương.
Cố quốc cảnh chung tùy hiểu lậu,
Thế gia kiều mộc thảng tà dương.
Tấm viên bất cấm sq song lệ,
Bôn nguyệt vân cao vị tức phương.
16. Bài 2 BUỒN NGHE TIẾNG VE
Ai đem sầu oán cuốn quanh nhà cao,
tiếng tiếng trên cây rập rạp như sóng vỗ vào bờ. Đêm khuya tựa
tiếng hờn khóc trên cung trăng. Sáng sớm buồn như tiếng ai bẻ cành
liễu tiễn người đi xa. Chén trường đình nơi nao tràn trề vườn
Kim Cốc. Kim Cốc là nơi Thạch Sùng đời Tấn thường tổ chức yến tiệc.
Tiếng sáo ngắn ai đó réo rắc trong ánh tà dương. Trong cảnh vắng vẻ có
ai thương người đơn côi này chăng nhỉ ? Xin truyền cho cách tu tiên
sánh đôi của vợ chồng Lã Động Tân. Lã
người đời Đường khi loạn Hoàng Sào, dời nhà lên núi Chung Nam
tu tiên hai vợ chồng đều đắc đạo.
Mượn tiếng ve Ngô Thì Nhậm muốn nói đến những biến động
trong triều Cảnh Thịnh, ông là người cô đơn thổi tiếng sáo trong chiều
tà.
Ai đem sầu oán quyện cao đường,
Như sóng trên cây tiếng vọng vang.
Tựa khóc đêm tàn Thiềm Điện khúc,
Bẻ cành buổi sớm Liễu Đài chương.
Trường đình chén tiễn sầu Kim Cốc,
Sáo thổi ai người
bóng tịch dương.
Cảnh vắng có thương người lẽ bóng,
Động Tân chồng vợ đạo tiên truyền.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Kỳ nhị : CẢM THIỀN THANH
Tủy tương oán tự nhiễu cao đường,
Thân thụ thanh thanh lãng cỗ đường.
Lương dạ tự đề Thiềm Điện phách,
Thanh thần như chiết Liễu Đài chương.
Trường đình thâm xứ phù Kim Cốc,
Đoãn địch hà nhân xuống tịch dương,
Tịch mịch tằng lân cô lãnh phủ,
Động Tân lưỡng khẩu hạnh truyền phương,
17. Bài 3 . BUỒN NGHE TIẾNG ĐÀN: Không phải người mặc
áo màu gảy đàn trong nhà phượng. Thái y người mặc áo màu, ca kỹ
đàn hát. Cách rèm tiếng đàn dứt, âm thanh tan ra ngoài ao vườn. Đêm
lạnh lẽo gợi nỗi buồn bên gối cô đơn. Ban đầu nỉ non tấu các khúc
nhạc danh tiếng. Mái tóc tóc xanh người thôn dã nghe khúc Bạch Tuyết,
theo Tống Ngọc, Bạch Tuyết là khúc hát hay của Sư Khoáng khi hát lên
cả nước chỉ còn mươi người hiểu thưởng thức được. Râu đóm bạc người
quân tử chầu ở cung Thanh Dương. Cung Thanh Dương là cung xây phía Đông
nơi vua ở dành cho các quan Đông Các học sĩ người cố vấn nhà vua.
Nhà ai mới sáng tác ra khúc Phượng Cầu Kỳ Hoàng. Khúc Tư Mã Tương
như đời Hán tỏ tình cùng Trác Văn Quân. Tan tác cả tâm tình mỗi
người một ngã.
Tâm sự ông như nàng Trác Văn Quân nghe tiếng đàn Tương Như ai
mới sáng tác, chì làm tan tác tăm tư mỗi người một ngã.
Chẳng phải ca nhi đàn phượng đường,
Cách rèm tiếng dứt vọng hồ vương,
Thê lương đêm bóng sầu gối lẽ,
Ai oán khởi đầu khúc đại chương.
Xanh tóc dân quê lời Bạch Tuyết.
Bạc râu quân tử chốn Thanh Dương.
Nhà ai mới viết Cầu Hoàng khúc,
Tan tác tâm tư người mỗi phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Kỳ tam CẢM CẦM THANH
Bất thị thái y cổ phượng đường,
Cách liêm đoạn khúc hưởng phương đường,
Thê lương thử dạ khêu cô chẩm,
Ô yết đương sơ tấu đại chương.
Lục mấn dã nhân sơ Bạch Tuyết,
Ban nhiên quân tử thị Thanh Dương,
Thùy gia tân chế Cầu Hoàng khúc,
Náo loạn tâm linh các
nhất phương.
18. Bài 4. CẢM LÒNG KHI NGHE TIẾNG CHUÔNG.
Nửa đêm kêu vang tiếng chuông tới phòng
trai tịnh. Khiến lòng thơm như tới toà nhà bằng bạch ngọc. Hương
lòng xua tan giấc mơ hồ điệp. Hồ
điệp: trong thiên Tề Vật Luận Trang Tử năm mơ hóa bướm. Tựa như thoi gấm
ném đứt khúc Phượng Cầu Hoàng. Nếu Trác Văn Quân, gái góa ném đứt
thoi gấm, không thèm nghe lời hát tỏ tình của Tư Mã Tương Như thì
không chuyện gì xãy ra. Lần chuổi hạt châu bồ đề tâm niệm Phật
cho kiếp ba sinh. Từ hang hư không truyền lại một khí dương. Không cốc
là hư không, Kinh Bát Nhã : ‘Sắc tức thị không, không tức thị sắc
“. Chuông vang nửa đêm giờ Tý, dương
sinh từ giờ tý đến giờ tỵ, âm sinh từ giờ ngọ đến giờ hợi. Xúc
động duyên thiền đi tìm chứng quả. Vật quý như cỏ trăn, cỏ linh
ở tận phương Tây. Thơ Giản hề, Kinh Thi” “ Sơn hữu trăn, thấp hữu linh.
Vân thùy chi tự. Tây phương mỹ nhân.” Trên núi có cây trăn, dưới nước
có cỏ linh. Rằng ta nhớ ai ? người đẹp phương Tây. Thơ cổ Trung Quốc
người đẹp chỉ bậc thánh nhân. Trong bài thơ chỉ Đức Phật ở Tây Trúc.
Nửa đêm chuông vọng tới trai phòng,
Lòng quyện thơm nơi bạch ngọc đường.
Hương tỏa xua tan Hồ Điệp mộng,
Gấm thoi đứt khúc Phượng Hoàng chương.
Nguyện cầu lần chuổi ba sinh kiếp.
Hang trống thổi truyền một khi dương,
Xúc động duyên thiền tìm chứng quả,
Trăn linh vật quý tại Tây Phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Kỳ tứ CẢM CHUNG THANH
Nguyên âm dạ bán đáo trai đường,
Lưu trú phương tâm bạch ngọc đường,
Hương kính xao tàn Hồ Điệp mộng,
Cẩm cơ tịch đoạn Phượng Hoàng chương.
Niệm châu ấm sổ tam sinh kiếp,
Không cốc sơ truyền nhất hoạch dương.
Xúc động duyên thiền tầm chứng quả,
Trăn linh giai phẩm tại Tây phương.
19. Bài 5. CẢM TƯỞNG KHI NGHE TIẾNG NƯỚC MÙA THU
Một màu biếc trong đọng lại trong nhà
bích ngọc. Nguồn tiên uốn khúc vỗ vào bờ bạc. Giòng nước không chảy
làm sao đề thơ trên lá đỏ. Tích thư sinh Vu Hựu và cung nữ Hàn Thúy
Tần đề thơ trên lá đỏ theo giòng nước chảy vào cung rồi gặp nhau kết
duyên tình.. Như mách còn lười mở bức màn gấm. Ý thơ Âu Dương Tu
tả người thiếu phụ mong chồng lười mở bức trướng gấm. Khó như ông
già Phùng Đạo viết bài Trường Lạc Từ, làm quan Tể Tướng sáu triều
đại, mười đời vua, không thể vui với khe động như ông già đánh cá Vũ
Lăng lạc đào nguyên. Buồn nghe cô gái đương xuân hát trong cung. Vua
Đường Minh Hoàng say mê Dương Quý Phi, quên cả Mai Phi, nàng vẽ đẹp, thơ
hay sáng tác khúc hát ai oán trong cung. Ai đòi sông Ngân xuống cõi
trần gian. Tích Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau mồng 7 tháng 7. Muốn bắc
cầu ngang ngại hỏi phương hướng.
Mầu biếc ngưng trong bích ngọc đường,
Nguồn tiên uốn khúc bạc giòng vương.
Không trôi lá đỏ thơ sao gửi ?
Chẳng vén màn nhung gấm nhớ thương.
Khe động khó vui Trường Lạc lão,
Cung phòng sầu khúc oán cung nhân.
Sông Ngân sao chảy nơi trần thế,
Muốn bắt cầu ngang ngại hỏi đường.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Kỳ ngũ : CẢM THU THỦY THANH
Nhất bích trừng ngưng ngọc bích đường,
Tiên nguyên ủy khúc giáp ngân đường.
Bất lưu vô nại đề hồng điệp,
Như tố hoàn dung tiền cẩm chương,
Động gián nan nơi Trường Lạc lão,
Cung ca muộn thích kiểu kiều dương.
Thùy di Ngân Hán lai nhân thế,
Dục giá hoành kiều ngại vấn phương.
20 .ĐÙA THAY NÀNG HỒ DƯƠNG LÀM CÁC BÀI THƠ NGŨ CẦU.
Nguyên dẫn : Đầy rẫy trong trời đất là
hai thứ đạo và khí. Cái có thể bởn được là khí, cái không thể bỡn
được là đạo. Trăng , hoa, gương, dệt, dây đàn là những thứ có thể
bỡn được. Trăng vì sao mà tỏ, hoa vì sao mà thơm, gương vì sao mà
sáng, dệt vì sao mà thành tiếng dây đàn vì sao mà nên âm, đó là
những đạo lý không thể bỡn được. Ví như bút mực là những thứ kẻ
sĩ có thễ bỡn được. Xe cộ áo mũ người sang có thể bỡn được .
Còn cái tài học bao quát cổ kim của kẽ sĩ, vái chí hướng ôm
ắp kinh luân của người sang thì
không ai bỡn được. Lại như trăng,
hoa, gương, dệt, dây đàn có thể là
những thứ nàng Hồ Dương có thể bỡn được, nhưng công việc có ai xui
nên trăng tỏ, hương thơm, gương sáng, dệt thành tiếng, đàn gảy thành âm
thì rõ ràng nàng Hồ Dương không sao bỡn cợt được. Kinh Thi có câu : “
Xem vẻ con chim kia dường tìm tiếng của bạn nó.” Loài vật tìm
nhau còn tìm tiếng của nhau, huống chi là con người lại đến không
biết cái thứ mà mình tìm kiếm sao. Nếu như nàng Hồ Dương mà biết
những thứ mình cần tìm là trăng, hoa, gương ,dệt, dây đàn là khí còn
đây ánh trăng tỏ, mùi hoq thơm, vẻ gương sáng, tiếng thoi dệt, âm dây đàn
là đạo.
Kinh Thi còn có câu : “ Tìm chẳng được, thức ngủ đều mong
ước, đó có thể là cách tìm kiếm của ngưởi đi tìm đạo.”. Vậy liền
thay nàng Hồ Dương viết thơ Ngũ Cầu kính gửi sang ông. Còn những điều
mà người ta nói rằng : Cái đó có thể tách ra được thì không phải
là đạo, điều đó sai chăng ? Ý của bậc quân tử hiểu rõ về đạo định
giải thich sao đây ?
Bài 1 TÌM (ÁNH TRĂNG) SÁNG
Bỡn trăng bồi hồi trong phòng trăng tới.
Tình trăng lai láng bao trùm cả phòng không. Bao phen tìm bóng người
trên mặt đất. Bắc thang trời nơi nao mà tìm vầng thỏ. Trong mơ thấy
chiếc khuyên vàng nổi trên hồ Thái Dịch, hồ nơi cung vua. Ngang má rơi
giọt lệ xuống hồ Chiêu Dương. Hồ Chiêu Dương ở Sơn Đông Trung Quốc,
tích nàng Chiêu Quân cống Hồ khóc từ biệt nhà vua. Mong người cuốn
hẵn bức màn mây. Soi tới thiên thai nơi có thuốc tiên. Lưu Thần, Nguyễn
Triệu ngày mùng 5 tháng 5 lên núi Thiên Thai có hai nàng tiên đón mời
rồi kết thành vợ chồng sau thành tiên bay mất.
Trăng sáng bồi hồi chốn nguyệt đường,
Tình trăng lai láng chiếu phòng không.
Bao phen trên đất tìm nhân ảnh,
Sao bắc thang trời hỏi thố chương.
Vào mộng xuyến vàng cung Thái Dịch,
Lệ rơi má thắm hồ Chiêu Dương.
Mong người chẳng vén màn mây được,
Sao tới thiên thai kiếm thuốc tiên.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
HÍ ĐẠI HỒ DƯƠNG NGŨ CẦU CHƯƠNG
Kỳ nhất CẦM MINH
Lộng nguyệt bồi hồi tẩm nguyệt đường,
Nguyệt tình đạm đãng trạo không đường.
Kỷ hồi tại địa tầm nhân ảnh.
Hà xứ thê thiên mịch thố chương,
Nhập mộng kim điền phù Thái Dịch,
Hoành lương châu lệ lạc Chiêu Dương,
Nguyện quân bất khứ trùng vân mạc,
Chiêu đáo thiên thi sản dược phương,
21. Bài 2 TÌM (HOA) THƠM
Bỡn hoa trằn trọc nghỉ ở lầu hoa. Vẽ hoa
mơ màng nằm trên vách đá. Vỗ gối trong mơ lan ở trong tay. Lần túi
lấy bút viết câu thơ hay ca tụng bóng quế đẹp. Đem hồ tiêu phất vào
phòng cho ấm, ngày xưa cung thất được sơn phất một lớp tiêu cho
ấm, nên gọi là tiêu phòng. Chỉ có hoa quỳ vẫn hướng theo ánh dương.
Mong chàng như cây ngọc hòa hợp cùng thiếp như cây liền cành. Bạch Cư
Dị trong bài Trường Hận ca, lời Dương Quý Phi nói với vua Đường Minh
Hoàng : “Tại thiên vi dực điểu, tại địa nguyện vi liên lý chi.”
Trên trời nguyện như chim liền cánh, dưới đất nguyện như cây liền
cành. Chẳng cần phẩm bình hương thiệt kê là phương thuốc hay. Hương
thiệt kê là đinh hương, ngày nay dùng nấu phở, ngày xưa các quan vào
chầu vua thường ngậm đinh hương cho thơm miệng. Tại Ấn Độ, sau khi ăn
xong người ta thường ngậm đinh hương.
Say hoa thao thức chốn lầu hoa,
Hoa dáng mơ màng trên vách nhà.
Gối mộng kề lan tay vói hái,
Túi thơ bóng quế dáng kiêu sa.
Cung phòng ấm cúng, hồ tiêu phất,
Ánh sáng dương theo, quỳ nở hoa.
Cây ngọc liền cành chàng với thiếp,
Đinh hương phương thuốc chẳng bàn qua.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Kỳ nhị: CẦU HƯƠNG
Lộng hoa triển chuyển khệ hoa đường,
Hoa thái đê mê yển thạch đường,
Phác chẩm mộng trung lan tại thủ,
Thám nang chương lý quế trình chương.
Mạn tương tiêu thực đồ hư thất,
Không hữu quỳ tâm hướng húc dương.
Liên lý nguyên quân tài ngọc thụ,
Bất tu kê thiệt phẩm kỳ phương.
22. Bài 3. TÌM GƯƠNG SÁNG
Bỡn gương đứng bồi hồi trước đài gương.
Những vết nhăn như chữ triện trên gương lạnh. Ánh sáng sao Mai,
thẩn thờ soi trên gối uyên ương. Ánh sao Hôm hững hờ mong manh quanh chăn
phỉ thúy, chăn màu xanh chim bói cá. Thẹn thùng son phấn không buồn
kẻ đôi lông mày chữ bát. Ngượng ngùng trên sân vắng ánh sáng ban mai
lạc vào. Mong chàng như đài gương phẳng lặng mây nước ngược chiếu
khắp nơi. Chớ bảo rằng gương trong chẳng tìm thấy bóng.
Lần lửa đùa gương trước kính đường,
Nếp nhăn hằn vết lạnh hạnh màu sương.
Uyên ương gối lẻ, Mai đơn chiếc,
Phỉ thúy chăn đơn, Hôm nhớ thương.
Son phấn thẹn mi cong nét vẻ,
Ngại ngùng sân vắng nắng mai vương.
Mong chàng gương phẳng trong soi bóng,
Chớ bảo gương trong chẳng bóng truyền.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Kỳ tam CẦU QUANG
Lộng kính trì hồi hướng kính đường,
Tô ngân sinh triện trệ hàn đường.
Khải Minh trử chiếu uyên ương chẩm,
Thái Bạch không hàm phỉ thúy chương.
Trang phấn nữu nê khai bát tự,
U đình tàm quý dẫn triêu dương.
Nguyện quân chiếu tận yên đài thủy,
Mạc vị hà minh bất khả phương.
23. Bài 4. TÌM TIẾNG (THOI ĐƯA) Vui đùa với nghề dệt
ở mãi nơi nhà dệt. Thoi ô ném
hoài như sóng vỗ vào ghềnh đá. Tiếng tơ kêu như lòng thiếp có thấu
tới tai chàng. Tiếng trục khua gian nan dệt thành y trang người phụ
nữ. Lòng thiếp nhớ chàng nên dệt y trang thật vụng về, khó khăn. Buồn nghe tiếng đập vải thôi
thúc từ cửa sổ phía Bắc. Buồn vang tiếng dế kêu than từ phía trời
Đông. Mong khung cửa nhà chàng treo các xâu chỉ hồng. Để may áo cưới
tay áo rộng đón cô dâu khi mùa sang. Bài thơ thật là một tuyệt
bút.
Dần dà vui dệt trong nhà dệt,
Thoi ném, sóng xô ghềnh đá vang.
Có thấu tai chàng tơ vọng tiếng,
Xót xa lòng thiếp áo khôn đan,
Lòng buồn cửa Bắc chày thoi vải,
Sầu thảm trời Đông dế vọng vang.
Mong cửa nhà chàng treo chỉ thắm,
Để may áo cưới rộng thu sang.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Kỳ tứ CẦU THANH
Lộng chức xâm tầm ẩn chức đường,
Ô thoa lãng trích thạch ky đường.
Minh ti vị đáo tài lang nhĩ.
Khấu trục nan ly ấu phục chương.
Muộn thính đão y thôi bắc dũ,
Sầu văn xúc chúc dẫn đông dương.
Nguyên quân gia trữ thiêm hồng tuyến,
Trùng chế thu san đại tụ phương.
24. Bài 5 TÌM TIẾNG (ĐÀN)
Tới nhà đàn tay uyển chuyển đùa với dây
tơ. Nâng đàn Tiêu Vĩ mà sợ lá mùa thu rơi rụng đầy ao. Đàn Tiêu Vĩ
là đàn do Thái Ung thời Tam Quốc chế ra, đây chỉ cây đàn nói
chung. Ngón tay nhỏ nhắn lướt thành khúc
thân thuộc ấy. Mối tình u uất dạo nên chương nồng nàn. Đáng
thương cho dây tơ vì thương cảm như nức nở, quá rít khó thành tiếng.
Cũng mừng khi đổi cung chưa phải dứt dưới ánh tà dương. Mong chàng
nối lại dây đàn Lục Ý để cùng sống bên nhau đến bạc đầu. Đàn lục
Ý là đàn của Tư Mã Tương Như làm xiêu lòng Trác Văn Quân. Khỏi khiến
nỗi lòng người lữ thứ quên lúc thần tiên.
Tay đàn uyển chuyển chốn huyền đường,
Tiêu Vĩ thu rung ao lá vàng.
Ngón nhỏ cung đàn thân thuộc ấy,
U tình vang tiếng đượm nồng nàn,
Thương thay tơ rít khôn thành tiếng,
Mừng nỗi sang cung chiều nắng tàn.
Đầu bạc cùng chàng đàn Lục Ý.
Xa nhà vui thú khúc thần tiên.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Kỳ ngũ: CẦU ÂM
Lộng huyền uyển chuyển đáo huyền đường,
Tiêu vĩ kinh thu diệp tích đường.
Tiêm chỉ án thành tư thích phả,
U Tình khêu động bỉ nồng chương.
Khả lân huyền sáp nan thành hưởng,
Do hỉ cung tường vị đoạn dương.
Giai lão nguyện quân đề Lục Ý,
Miên giao lữ vị trở tiên phương.
25. GẶP NGÀY SINH NHẬT CHA KÍNH VIẾNG
Không
phải mặc áo màu để múa trước thềm. Lão Lai trong Nhị Thập Tứ Hiếu,
80 tuổi cha mẹ vẫn còn sống, nên mặc áo màu như trẻ thơ múa mua vui
cho cha mẹ, ý câu thơ nói cha mẹ không còn nữa. Xum xuê hoa hạnh
nở bên ao biếc. Ý nói con cháu giờ đông vui đầy nhà. Nơi nao mây núi
theo hầu người cầm hạc. Ý cha mẹ đã cỡi hạc qui tiên. Tích Triệu
Biện đời Tống làm quan Tham Tri khi vào đất Thục cỡi ngựa và đem theo
cây đàn cùng chim hạc tỏ vẽ giản dị vui thú tiêu dao. Câu thơ nhắc
lại chuyện cha Ngô Thì Sĩ khi làm Đốc Trấn Lạng Sơn thường ngao du nơi
động Nhị Thanh. Nay làm quan to gấm vóc dư thừa, mà xót xa không
mẹ cha để phụng dưỡng. Cổn chương là người làm quan to. Đứa con lênh
đênh chẳng phải nói đến cây nga, thẹn với tóc bạc như tuyết. Kinh Thi
thơ Lục Nga :” Lục lục giả nga, phỉ nga y cao, ai ai phụ mẫu, sinh ngã
cù lao “ Cây nga xinh tốt kia, không phải là cây nga mà là cây cao,
thương cha mẹ ta sinh ta vất vả.Thương cha mẹ quá cực khổ sinh dưỡng ta
nay nay mắt lòa, không phân biệt rõ
cây nọ với cây kia. Không cần nói cây nga nữa vì cha mẹ đã mất.
Từ đường chốn quê nhà tịch mịch trong nắng thu. Nhị Thanh mờ mịt đây
động thần tiên. Không kế gì tìm lại được cha mẹ để phụng dưỡng.
Chẳng múa áo màu vui mẹ cha,
Xum xuê vườn hạnh biếc ao nhà.
Nơi nao mây núi theo cầm hạc.
Thừa thải gấm the phận xót xa.
Lênh đênh tóc bạc thơ nga thẹn.
Tịch mịch từ đường quê nắng tà.
Nhị Thanh mờ mịt thần tiên động.
Tìm đâu phụng dưỡng mẹ cha già.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
CUNG VÃN TIÊN NGUYÊN ĐÃN TIẾT
Bắt thị y ban vũ tại đường,
Bích trì niểu ái hạnh hoa đường.
Vân sơn thậm xứ bồi cầm hạc,
Phong vận duy dư ngưỡng cẩm chương.
Du tử phi nga tàm huyết mấn,
Thế từ hữu hức đối thu dương.
Nhị Thanh phiêu diểu thần tiên động,
Vô kế trùng tầm tựu dưỡng phương.
26 . TUÂN THEO Ý
Nguyên dẫn : Việc đã qua như giấc mộng. Bạn ta là hạng
người trong tuần lễ Đế Quán. Hồi tưởng lại cuộc gặp gỡ xưa. mong
gặp lại lần nữa thì thật là khó. Nay tiếp được quý thơ nhắc lại
quang cảnh đi sứ, bấc giác thêm khảng khái, bèn kính thơ họa lại mong
được nhận cho.
Đế quán là thời suy vong sau thời thịnh trị Chu Thành Vương. Luận Ngữ, thiên
Bất Dật, Tử viết : “Đế tự ký quán nhi vãng gia, ngô bất diệc quan”.
Tế Đế Tử tuần rót rượu đế thần giờ trở đi ta không muốn xem nữa. Ý
Khổng Tử nước Lỗ đời Chu Thành Vương lễ đế thời thịnh trị, khi
nước Lỗ suy sinh ra lười biếng không thể xem được,
Nhớ xưa vua sáng tôi hiền tụ họp một
triều đình. Hầu xa giá bên
sông Hương xe theo lối tiên. Năm đi sứ được sai truyền từ cửa Kim mã.
Vua Quang Trung mất, Ngô Thì Nhậm được cử làm Chánh sứ sang báo tang
và thụ phong cho vua Cảnh Thịnh. Nhớ lúc ngự bút báo tang được vua
nhà Thanh cảm động ban khen khi dâng tờ biểu chương. Năm tháng như
tên bay giờ thành ông già bạc tóc. Đỉnh hồ mờ mịt trông vời lăng Đan
Dương. Vua đã mất trông vời nơi lăng
Đan Dương. Muốn gieo quẻ đề cầu may lần nữa. Nhưng nực cười chưa tìm
ra phương thuốc làm đen râu.
Kim mã nơi cung Vị Uông đời Hán nơi các Hàn Lâm học sĩ
làm việc. Đình hồ : vua Hoàng Đế TQ lấy đồng núi Kinh Sơn đúc đỉnh
hồ, đỉnh đúc xong vua cỡi rồng bay mất. Đỉnh hồ chỉ vua Quang Trung
mất, lăng Đan Dương là nơi an táng vua Quang Trung.
Vua sáng tôi hiền xưa một đình,
Hương giang ngự giá lối xe tiên.
Xưa qua Kim Mã đường đi sứ,
Dâng tấm ngự chương bút ngợi khen.
Năm tháng tên bay giờ bạc tóc,
Đỉnh hồ mờ mịt nhớ Đan Dương,
Muốn mong trở lại ngày tao ngộ,
Nhưng nực cười không thuốc nhuộm đen,
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
TUÂN Ý
Ức tích minh hương hội nhất đường,
Hương giang ngự tất hổ tiên đường.
Hoàng hoa tuế khiền truyền Kim mã.
Duệ táo thời bao phụng bảo chương.
Niên tiển xâm tầm thành bạch tẩu,
Đỉnh hồ phiếu diễu vọng Đan Dương.
Thao hồ yêu hạnh trùng tao ngộ,
Khước tiếu ô tu vị đắc phương.
27 . KÍNH VIẾNG LĂNG ĐAN DƯƠNG
Nguyên dẫn : Ông nhân nghe có lệnh gọi, còn chưa đi
ngay được, buồn bã mà thành thơ. Đại đễ vua tôi cốt ở nghĩa, cha con
cốt ở ân, luân lý lớn của đạo làm người chỉ là một. Nhưng vua biết
tôi, cha biết con, vậy cảm kích về ân nghĩa đó như thế nào ? Bài thơ
trước tôi có câu “Hữu vọng Đan Dương “ Trông về lăng Đan Dương, nhân nhắc
tới chuyện đi sứ trước đây, mà nay được thơ ông, chợt lại có cảm
hứng. Nhân sắp đến ngày tiên húy, giữa lúc ốm yếu vẫn cảm nhớ, nỗi
lỏng càng thêm trằn trọc, làm được bài Khâm Văn (Kính viếng) và Cung
Ức (Kính nhớ) họa theo nguyên vận gửi ông xem, tất cả đều mong ông
lượng xét.
Khó níu xe rồng ở cung Tử cực. Vua
Hoàng Đế TQ sau khi đúc đỉnh xong cỡi rồng lên tiên, các đại thần vin
râu rồng, muốn giữ lại mà không được. Tử Cực đường là nơi quàn quan
tài vua. Buồn trông suối vàng chín khúc quanh co. Kim nguyên:
suối vàng, người xưa cho rằng
nguồn ở phía Tây Vực. Võ công hiển hách còn để lại nơi nương tựa.
Mưu lược sáng suốt đã mở nền tảng cho triều đại. Hồn thiêng
hiện xuống kính thấy ngay bên tả. Giòng dõi giữ gìn ngưỡng trông đang
ở bên ánh dương. Đức trời bồi đắp lo mà đền đáp. Đạo quẽ Khôn không
gì khác. Lợi ở thẳng và vuông. Hào từ quẽ Khôn, Kinh Dịch : “Trực
phương đại, bất tập vô bất lợi.” Thẳng vuông lớn, dẫu không học tập
mà vẫn có lợi.
Ngày 29 tháng 9 ,Quang Trung thứ 5
(1792) Nguyễn Huệ mất, Năm sau Cảnh Thịnh năm thứ nhất, Ngô Thì Nhậm
làm Chánh sứ sang báo tang và cầu phong.
Khó níu xe rồng Tử Cực Đường
Quanh co chín khúc suối vàng trông.
Võ công hiển hách nơi nương tựa,
Mưu lược anh minh lưu hiến chương.
Hiện xuống hồn thiêng khâm tại tả,
Giữ gìn giòng dõi ngưỡng vầng dương.
Đất trời bồi đắp lo đền đáp,
Khôn đạo không ngoài lợi thẳng vuông.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
KHÂM VÃN ĐAN DƯƠNG LĂNG
Long ngự nan phàn Tử Cực Đường,
Kim nguyên trướng vọng cửu hồi đường.
Nhung y thần vũ lưu bằng tạ,
Phương sách anh mô địch hiến chương,
Trắc giáng hoàng linh khâm tại tả,
Bảo minh thanh dận ngưỡng đương dương.
Tài bồi thiên đức tư thù đáp,
Khôn đạo vô tha lợi trực phương.
28, KÍNH NHỚ ĐỘNG NHỊ THANH. Bài này Ngô Thì Nhậm nhớ
tới cha là Ngô Thì Sĩ đã trùng tu động Nhị Thanh khi làm Đốc Trấn
Lạng Sơn, ông lấy hiệu Nhị Thanh Động Chủ.
Mây ráng là phòng, vách đá là nhà. Tùng bách mới trồng
trên bờ muôn trượng. Uy nghi Thần, Phật sáng trưng sắc ngọc. Điển sách
vương hầu bài bia ký rực rỡ sắc rồng. Dân trong bảy châu Lạng Sơn đầu
yên vui sinh sống. Tất cỏ sao đáp đền ánh dương soi đã lâu. Riêng người
còn để lại mãi chữ Hiếu trên vách. Đâu nữa vời như đứa con này, nào
được vẹn toàn.
Mây ráng là phòng vách đá nhà,
Bách tùng mới cấy vạn bờ xa.
Uy nghi Thần Phật ngọc trong sáng,
Điển sách vương hầu rồng lượn sa.
Bảy châu vui sống dân yên ổn,
Tất cỏ đáp đền ân đức nhà,
Riêng người chữ Hiếu còn trên vách,
Chẳng phải nửa vời thẹn nỗi ta.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
CUNG ỨC NHỊ THANH ĐỘNG
Yên hà vi thất, thạch vi đường,
Truông bách tân tài vạn trượng đường.
Thần Phật uy nghi chiêu ngọc sắc,
Vương hầu điển sách xán long chương.
Thất châu tẩm đức đồng bào hộ,
Thốn thảo an thù cửu chiếu dương,
Tiêu bích duy công lưu vĩnh hiếu,
Bán như tử thử cảm toàn phương.
29. TIỄN THU
Nguyên dẫn : Ngày Liễu Cốc đã chuyển
đi dần. Chuông Ứng Chung sắp kỳ rung tiếng. Chứa giai nhân, chọn
nhà vàng. Những e gió thổi lưu thi khách nơi lầu ngọc, luống ngại
không trăng. Nhớ ông lòng nhớ, lòng dám xa lòng! Nhân mượn bút mực mà
tiễn thu, suối lan đọc câu thơ cũ, bèn quăng sành đá mà kiếm ngọc,
nhà chi mong vị hương thơm.
Liễu Cốc là thần coi mùa thu. Ngày thu, “Liễu Cốc chi
đán.” Chương Thượng Thủ trong Đại truyện. Kinh Lễ : Chuông Ứng Chung
dùng vào tháng 10(ÂL), mủa thu đang dần qua, mùa đông sắp đến. Suối
lan, nhà chi. Chi lan là tình bạn thân thiết.
Tiễn thu sao không đến được ngôi nhà ở
phía Đông. Tình sâu trân trọng tiễn nhau lên yên lưng ngựa. Chỉnh rượu
vừa cấp cho vào đêm Nhâm Tuất. Nhắc thơ Tô Đông Pha bài Hậu Xích Bích.
Vợ nói :” Tôi có chỉnh rượu cất đã lâu ngày.” Ý thơ hẹn ngày trở
về, như Tô Đông pha chơi thuyền đêm Nhâm Tuất. Bức Hồi Văn lại dệt vào
tháng Tất Canh. Hồi Văn bài thơ dệt lên gấm dâng vua. Đây nói việc Ngô
Thì Nhậm đi sứ báo tang vào mùa thu. Sao Tất và sao Trường Canh
ở phương Tây thuộc về mùa thu. Mỹ nhân thầm nhỏ giọt lệ trong xe Ngư
Hiên. Tích Chiêu Quân cống Hồ, ý nói việc đi sứ xa nhớ đến vua Quang
Trung đã mất. Du khách khó đuổi
theo ánh dương vùng Nhạn Đảng. Thủy Vân nhàn vịnh bài Hữu Sở thán :
Kiến Văn Công nhà Minh chạy trốn đến Thiên Thai, Nhạn Đảng, Kiếm Nam
làm nơi trú chân, cha con Sử Bân đi theo điều hành chính sự suốt 40
năm. Niên hiệu Chính Thống năm đầu. Kiến Văn Công tự ra đầu thú, được
rước vào cung được phong làm Thọ Hầu bỏ mặc cha con Sử Bân. Ý nói
những biến động trong triều Tây Sơn khó mà lường trước được.
Trên lưng ngựa biệt ly chúc nhau lời vàng bình an . Cõi bồng lai
kia há phải là chốn thu về.
Tiễn thu chẳng phải
đến nhà Đông,
Trịnh trọng tình sâu yên ngựa dong.
Đấu rượu cấp đêm Nhâm Tuất ấy,
Hồi Văn lại dệt Tất Canh chương.
Mỹ nhân đau xót Ngư Hiên lệ,
Du khách khó theo Nhạn Đảng dương.
Ly biệt bình an câu chúc tụng,
Bồng lai há phải đợi thu sang.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt .
TỐNG THU
Tống thu vô nại đáo đông đường,
Trịnh trọng thâm tình mã thượng đường.
Đấu tửu phương cung Nhâm Tuất dạ,
Hồi văn trùng chức Tất Canh chương.
Mỹ nhân ám trích Ngư Hiên lệ,
Du khách nan tùy Nhạn Đãng dương.
Vị khắc kinh an tham biệt giá,
Bồng lai khởi thị phản thu phương.
30. Bài 2. Tiễn thu không sao tới được ngôi nhà phía Tây.
Tình thừa vương vấn tan tác bên đường. Người anh hùng Tào Tháo cầm
ngang ngọn giáo trận Xích Bích bừng tỉnh giấc mộng sớm. Hoa hải
đưởng không sức nâng đỡ Dương Quý Phi. Vua Đường Minh Hoàng yêu thương
ví Dương Quý Phi như đoá hoa Hải Đường, nhưng khi quân sĩ làm loạn đòi
giết Dương Phi, nhà vua không ngăn cản được. Chuông Nam Lữ văng vẳng
vọng đến lầu Cảnh Dương. Nam lữ : Luật âm nhạc xưa có 12 luật
lữ, ứng với 12 tháng. 6 luật tháng dương, 6 lữ tháng âm, Nam lữ ứng
với tháng 8. Cảnh Dương là lầu do vua Vũ Đế đời Nam Tề dựng có
chuông đến canh ba, canh năm cung nhân nghe chuông thức dậy trang điểm.
Hãy nâng chén quý bằng ngọc tía tiễn người ly biệt. Cõi trời Đâu
Xuất há có phải là nơi trụ lại mùa thu. Phật chia thế giới làm
nhiều cõi: Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, Trời, Người, Súc Sanh,
Ngạ Quỹ. Các vị thần Bà La Môn không bị Phật phủ nhận mà xếp
vào cõi Trời Đâu Xuất trên cõi Người. Đế Thiên không tự mình sinh ra và sáng tạo ra vũ trụ,
vật chất vũ trụ tự nó mà có trong vòng nhân quả, có hằng hà sa số
cõi trời. Cõi người còn gọi là cõi Ta Bà.
Tiễn thu không ngại đến Tây đường,
Vương vấn tình thừa tan tác buông.
Cắp giáo anh hùng bừng mộng sớm,
Rời lầu thục nữ ngắm mây vương.
Hải đưởng không sức nâng Phi Tử,
Nam Lữ chuông vang vọng Cảnh Dương.
Nâng chén tử hà cùng tạm biệt,
Cõi trời Đâu Xuắt bóng thu phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ nhị
Tống thu vô nại đáo Tây đường,
Khiển quyển dư tình tản ủng đường.
Hoành sáo anh hùng kinh hiểu mộng,
Từ lâu yểu điệu đát thiên chương.
Hải đường vô lực phù Phi Tử,
Nam lũ hi thanh đáo Cảnh Dương.
Vi ủng tử hà châm biệt tửu,
Đâu thiên khởi thị trú thu phương.
32. Nguyên dẫn : Phương Bắc không phải là nơi mùa thu sinh
ra. Cũng không phải là chốn thu quay về, chắc rằng tình thu không tới,
cho nên nhà Bắc không đưa tiễn thu. Nhân đó nghĩ thêm một bài “Bắc
đường oán” (Lời oán nhà Bắc) vì được câu Đỗ Công Bô : “Vân thủy
chiếu phương đường “ (Mây nước chiếu ao thu ).
Không tiễn thu về tới nhà phía Bắc. Há
không mây nước chiếu xuống ao thu chăng ? Vườn Thượng Lâm, Đường
Vũ Hậu từng cho đánh ba hồi trống dục cho hoa nỡ, hoa mẫu đơn không
kịp nỡ bị đày đi Giang Nam. Chốn hang tối nối vần thơ “chặt cây”. Kinh
Thi, chương Tiểu nhã, bài Phạt mộc : “ Phạt mộc đinh đinh, Điểu
minh anh anh, Xuắt tự u cốc, Thiên vu
kiều mộc. “ (Chém cây chan chát, Chim kêu rối rít, Ra từ hang sâu, Vượt
trên cây cao). Như chiếc lộng xanh, cây tùng vượt lên ba thước tuyết.
Tựa giải mũ bạc hoa mai thêm năm hào dương. Hoa mai nở vào tháng 11 ÂL
Tháng 11 đầu đông, quẽ địa lợi phục, hào dương bắt đầu sinh ra, ở
dưới 5 hào âm, mỗi tháng có thêm một hào dương, âm giảm. Chữa biết
tới mùa thu mà đã lắm vẻ Đông. Lại đem hành Kim đi qua phương Bắc.
Hành kim thuộc ngũ hành chỉ phương Tây mủa thu. Ý nói phương Bắc không
có mùa thu. Vì trời hết nóng chuyển sang lạnh ngay, hầu như không có
mùa thu chuyển tiếp.
Không tiễn thu về đến Bắc đường,
Há không mây nước bóng ao vương.
Thượng lâm truyền dục cho hoa nỡ,
U cốc chim bay, phạt mộc chương.
Xanh lộng tùng cao ba thước tuyết,
Mai hoa bạc mũ năm hào dương,
Mùa thu chẳng biết đông nhiều vẻ,
Sóc phương mang đến thuộc hành kim.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Kỳ tứ
Bất tống thu quy đáo Bắc đường,
Khởi vô vân thủy chiếu phương đường.
Thượng lâu tằng bá thôi hoa lệnh,
U cốc phương canh phạt mộc chương.
Thủy cái tùng lâm tam xích tuyết,
Ngân anh mai xướng ngũ hào dương.
Vị tri thu tú ca đông tứ,
Khước bả kim hành quá Sóc phương.
33.
Nguyên dẫn : Người xưa có chữ “tiễn xuân“,”giữ
xuân” nhưng lại không nói đến thu, dường như yêu thu không tha thiết bằng
yêu xuân. Ôi ! Trang điểm lộng lẫy ấy là tình của hóa công, nhưng trang
điểm thanh đạm ấy cũng là ý của hóa công, cho nên lẽ nào chỉ có
thể lưu luyến cảnh phồn hoa mà không tiếc thương cảnh thanh bạch. Vừa
tiễn thu đi nay lại có ý giữ thu lại. Nối được năm bài Tiếc thu
trình ông phụ chính giúp. Được mắt xanh nhà sáng sẽ lấy làm vinh
hạnh.
Bài 1 Tiếc thu muốn dựng căn nhà mơ thu. Tiếc vẻ đẹp của
thu ở ngôi nhà trồng cúc. Màu sắc như giáp vàng hoa cúc đánh tan
cả trận bướm vàng bay tới. Hoa ngọc dệt thành thơ trên tờ gấm.
Không để cho ngõ sâu tri huyện Bành Trạch của Đào Tiềm trở
thành nơi hoang vu. Chỉ để cho thuốc tiên giúp Bá Dương Lão Tử trường
thọ. Nhắn nhủ ông khôi nguyên thi tướng quốc gia. Phan Huy Ích
từng đỗ đầu, từng làm Chánh Sứ.
Chùa Hương núi Long Môn, Lạc Dương, Hà Nam do Bạch Cư Dị lập ra
Hương Sơn Thi xã chính là nơi ngắm cảnh thu.
TIẾC THU
Tiếc thu muốn dựng mộng thu đường,
Tiếc vẻ thu dung ở cúc đường.
Kim giáp đánh tan tàn trận bướm,
Ngọc anh dệt gấm, nét văn chương.
Ngõ sâu chẳng để hoang Bành Trạch,
Linh dược giúp cho Lão Bá Dương.
Nhắn với khôi nguyên Thi Tướng Quốc,
Hương Sơn nơi đó thưởng thu phương.
TÍCH THU
Tích thu dục cấu mộng thu đường,
Tích vị thu dung tại cúc đường.
Kim giáp chiến tàn phương diệp trận,
Ngọc anh chiếc tựu cẩm tiên chương.
Bất giao u kính hoang Bành Trạch,
Chi hứa linh đan lão Bá Dương.
Ký ngũ chế khôi thi tướng quốc,
Hương Sơn chính thị hưởng thu phương.
34. Tiếc thu muốn dựng ngôi nhà ngắm thu, Tiếc vì
tiếng thu reo bên bờ trúc. Xào xạc khó tìm tiếng sắt tiếng vàng.
Mài dũa để hứng thành câu thơ ngọc khuê văn chương. Rừng sương có
bạn tùng thêm xanh tốt. Trong cõi đời mờ mịt như sương có bạn ta là
cây tùng xanh tốt chống chọi sương giá. Gác ấm đậu bầy chim phượng
hợp dưới vầng dương. Triều đình có nhân tài dưới sự châm sóc của vị
vua anh minh. Nhàn khách buông phao bên đài câu cá. Rau thuần đất Ngô ấy
là chốn say mùa thu.
Tiếc thu muốn dựng vọng thu đường,
Tiếc tiếng thu reo bờ trúc vang.
Xào xạc khó tìm vàng sắc lá,
Dùi mài thi hứng ngọc văn chương.
Rừng sương có bạn tùng xanh tốt,
Gác ấm đậu bầy phượng hợp non.
Nhàn khách buông câu bên điếu vọng
Ngô thuần ấy chính
chốn thu phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Kỳ nhị
Tích thu dục cấu vọng thu đường,
Tích vị thu thanh tại trúc đường.
Sưu sắt nan tầm kim thiết hưởng,
Trác ma dị hứng bích khuê chương.
Sương lâm đắc hữu thiêm tùng mậu,
Noẵn các thê bằng tụ phương dương.
Ký ngữ điếu đài thùy địch khách,
Ngô thuần chính thị túy thu phương.
35.
Tiếc thu muốn làm ngôi nhà níu mùa thu
lại, Tiếc ánh thu trong rọi xuống ao sáng như gương. Bóng quế tròn xoe
vào hôm đêm rằm. Áo lông Hằng Nga rực rỡ thành mây năm vẻ. Mỹ nhân mê
mẫn trong trướng lan vườn Phương Lạc. Vườn do Đông Đôn hầu nước Tề mở
ra có chợ, hàng quán.. Khách thơ say đắm cảnh sông tạnh Hán Dương ở
Hoàng Hạc Lâu. Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích khi đi sứ từng thăm lầu
này và làm thơ. Gửi lời nhắn ông già đội giải mũ phong lưu, từng
làm quan mang phẩm phục Chánh Sứ. Lầu nam chính thị là nơi ngắm
cảnh thu.
Bài ba
Tiếc thu muốn dựng Hệ thu đường,
Tiếc ánh thu ao sáng soi gương.
Bóng quế đêm rằm trăng tỏa sáng.
Áo lông năm sắc kết mây vương,
Mỹ nhân mê trướng lan Phương Lạc,
Thi khách say sông tạnh Hán Dương.
Muốn gửi người phong lưu áo mũ,
Lầu Nam nơi ngắm cảnh thu phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Kỳ Tam
Tích thu dục cấu hệ thu đường,
Tích vị thu quang tại kính đường,
Quế phách đoàn đoàn tam vọng hậu,
Vũ y xán xán ngũ vân chương.
Mỹ nhân lan trướng mê Phương Lạc,
Thi khách tình xuyên túy Hán Dương.
Ký ngữ phong lưu linh trải lão,
Nam Lâu chính thị ngoạn
thu phương.
36. Tiếc thu muốn cất ngôi nhà lưu luyến
mùa thu. Luyến tiếc tình thu ở nơi bờ liễu. Cành liễu quét vào song
cửa, chồi non đang sợ tuyết lạnh. Trước khung cửa sổ, tơ liễu bay
muốn vẽ nên tranh. Hái cỏ tiêu nỗi nhớ dài thêm ba tháng. Thơ Thái
Cát, Kinh Thi : “Thái bỉ cát hề, nhất nhật bất kiến như tam nguyệt
hề. Thái bỉ tiêu hề. Nhất nhật bất kiến như tam thu hề.” Hái rau
sắn kia chừ. một ngày không gặp lâu như ba tháng chừ. Hái cỏ tiêu
chừ, một ngày không gặp lâu như ba mùa thu chừ. Ý câu thơ mong nhớ bạn
tha thiết. Cầm cây đuốc chơi đêm, cuộc vui say đắm tiếc nuối buổi xuân
tàn. Thành ngữ ”Bỉch chúc dạ dư,” cầm đuốc chơi đêm. Gửi lời nhắn
bạn thơ áo xanh. Tỳ bà đình chính lả nơi ôm ấp mùa thu. Thơ Bạch Cư
Dị bài Tỳ Bà hành : “Tựu trung đối khớp hạ thùy đối, Giang
Châu Tư Mã thanh san thấp.” Trong đó
ai nhỏ lệ nhiều nhất (khi nghe tiếng đàn tỳ bà người ca kỷ trên bến
Tầm Dương) Tư Mã Giang Châu vạt áo xanh ướt đẫm.
Bài
Tiếc thu muốn dựng luyến thu đường,
Vì tiếc tình thu tơ liễu vương.
Phơ phất bên song chồi tuyết lạnh,
Bay bay khung cửa cảnh thi chương.
Hái tiêu nỗi nhớ dài ba tháng,
Cầm đuốc hoan nồng suốt buổi xuân.
Nhắn gửi áo xanh người mấy kẻ,
Tỳ bà nơi chốn giữ thu phương.
Kỳ tứ
Tích thu dục cấu luyến thu đường,
Tích vị thu tình tại liễu đường,
Phát hạm nhu đề phương khiếp tuyết,
Niêm song phi nhứ hựu thi chương.
Thái tiêu hoài vọng tăng tam nguyệt,
Bỉnh chúc hoan nồng kế ngũ dương.
Ký ngữ thanh san phong vận hữu,
Tỳ bà chính thị bão thu phương.
37.
Bài 5. Tiếc thu muốn cất ngôi nhà giữ mùa thu lại.
Tiếc vì nhớ thu ở bên ao rau xanh. Đồng xanh nổi màu biếc trải ra gấm
vóc. Suối nâu hơi lạnh sương
bay như giải lụa. Ly chương là tấm dãi lụa che mặt cô dâu. Sáo trẻ
mục đồng mấy khúc đón vầng trăng mới mọc. Lời ca ngư phủ một khúc
tiễn mặt trời lặn xa. Gửi lời nhắn ông già ôm bầu ngọc thét hoài.
Đạo sĩ Lý Thiết Quài tu tiên nhưng thường ôm chiếc hồ lô ngọc
say lúy túy, đây chỉ Phan Huy Ích. Rằng nhà đình trên bãi rau tần
chính là nơi ngắm cảnh thu trôi nổi.
Tiếc thu muốn dựng lãm thu đường,
Vì tiếc tình thu ao sắc xanh.
Đồng ruộng biếc xanh thơ gấm vóc,
Suối nâu lạnh trải lụa sương vương.
Mục đồng thổi sáo chờ trăng mới,
Ngư phủ ca ngâm tiễn ánh dương.
Nhắn bảo ông ôm bầu rượu ngọc,
Tần đình trôi nổi cảnh thu phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Kỳ ngũ
Tích thu dục cấu lãm thu đường,
Tích vị thu hoài tại lục đườ ng.
Lục dã bích phù thi cấm tú,
Hám khê hàn tẩm thổ ly chương.
Sổ xoang ngưu địch nghênh tân nguyệt,
Nhất khúc ngư ca tống viễn dương.
Kỷ ngữ ngọc hồ trương khiếu tẩu.
Tần đình chính thị phiếm thu phương.
38
Nguyên dẫn : Được thư ông thăm hỏi, tinh thần thực
là phấn chấn. Song bệnh tôi thuộc loại ngoại thương nội cảm, phải
đợi dùng phương thuốc phát tán phong tụ, mới có thể đỡ mệt mỏi bải
hoãi. Tôi biết rõ ràng việc bang giao khẩn cấp là việc đáng mong sợ,
đã nhận điều phó thác phải hết lòng. Vậy nên làm giấy tờ sổ sách
kính trình ông xem xét tiếp nhận và chuyển đạt lên trên, chắc
cũng không có gì trở ngại. Khi bệnh điều trị hơi đỡ, tức ngày mồng
một này tôi sẽ vào chầu ngay. Mọi việc thù ứng thì nhờ ông giúp.
Nay kính hoạ vần thơ ông đưa cho. Xin gửi đến ông mong ông soi xét.
Cơm hẩm canh rau tựa như ở dưới mái lều
tranh. Thân ốm lây lất đùa bên khóm cúc. Thân vướng vào tước quý ở
chốn âm u càng lợi. Lòng chưa được như hồ băng, ở chổ u ám há có
thể tỏ soi ? Đọc thơ Ký Ức vẫn cân nhắc ý mài ngọc bên bờ
trúc. Kinh Thi, thơ Vệ phong, bài Ký Ức ca ngợi Vệ Vũ Công có tài văn
chương, vừa biết mài dũa đức hạnh, nên được thiên tử nhà Chu mời làm
Tướng quốc lo việc chính sự. Mơ tới kinh đô tấm lòng hoa quỳ vẫn tha
thiết hướng về mặt trời. Lòng trung với vua. Tự điều hoà sẽ có
nguồn vui mong được khỏi bệnh. Đâu dám rên rỉ xem là phương thuốc dối
mình.
Canh rau cơm hẩm dưới nhà tranh,
Thân ốm vui bên khóm cúc vàng.
Tước hảo thân mang lòng muốn dấu,
Băng hồ lòng chữa gạn khơi trong.
Nhắc cân ký ức thơ mài ngọc,
Mộng hướng đô thành quỳ hướng dương.
Vui sống điều hoà thân chẳng bệnh,
Dối mình phương thuốc dám đâu rên.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Phán xú canh lê tự thảo đường,
Bệnh khu triển chuyển cúc y đường.
Thân anh hảo tước âm vô lợi,
Tẩn vị băng hồ ám khởi chương.
Kỳ ức thôi xao ma trúc bích.
Đô thành mộng mị thiết quỳ dương.
Điều hoà hữu hỉ vong vô vọng,
Cảm dụng thân ngâm khí dĩ phương.
39
Nguyên dẫn: Vừa rồi đọc các bài thơ hoa cúc về mùa thu,
đó là những bài bọn ta xướng họa, nhân cảm hứng về nàng Hồ Dương,
không ngờ đã lên tới hơn 20 bài, Người ngoại cuộc có khi sẽ cười
chúng ta là lũ si tình, nhưng bình tâm mà suy nghĩ thì thấy đạo
lý trong kinh truyện đại để đều ký thác vào tính tốt.
Kinh Thi có câu rằng : Khéo đùa cợt chừ ! Không độc
ác chừ ! (Thiện hỷ hước hề ! Bất vi hước hề !) Như vậy điều
cốt yếu là để bởn cợt, chứ không phải giỏi làm điều độc ác. Đần
độn như Tăng Tử, tương truyền giỏi phép trị nước, cũng nói rằng
: ‘Chưa hề có chuyện học nuôi con rồi mới lấy chồng’ .”Vị hữu học
dưỡng tử nhi hậu giá giả dã.” vả
lại một âm một dương thì gọi là “đạo” . Thông hiểu được đạo âm dương
thì hoặc ‘xuất’ hoặc ‘xử’
hoặc im lặng, hoặc nói ra, mở ra cho rộng, suy ngẫm cho sâu thảy đầu
hợp với cái nghĩa. Xử trí đúng lúc, sắp đặt phải thời. Ví dụ
chuyện nam nữ kịp thời là thuận, vợ chồng sống chung một nhà phải
ngay. Nếu làm trái với lẽ đó, sẽ sinh ra nỗi oán hờn ‘quả mơ rụng’
, ‘trên bộc trong dâu’ khác nào như việc tiến thủ kẻ sĩ, một đằng
giữ tiết tháo mà tiến thủ, một đằng xu thời cầu vinh. Cho nên thơ là
để hướng dẫn tính tình, lại có cội rễ từ chuyện nam nữ. Nam nữ
quả là đầu mối của muôn sự vậy. Không phải là người hiểu biết về
“đạo” thì không thể biết được điều đó. Nếu đã biết rõ
được “đạo “ thì đó chẳng riêng gì
Kinh Thi, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu phàm là những chổ khởi hứng
từ tính tình có thể thấy rõ được. Bèn làm 5 bài khởi hứng từ Ngũ
Kinh, họa nguyên vận trước để góp vào trận thơ trong mùa thu hoa cúc.
Hết thảy mong được ông xét định.
Khổng Tử chê Tăng Tử chậm chạp và đần độn (Lỗ như
Tăng Tử)
Phiếu mai, Thiệu mai Kinh Thi nói niềm ai oán của người
phụ nữ quá lứa lỡ thì và lòng khát vọng kịp thời xây dựng hạnh
phúc lứa đôi.
Trên bộc trong dâu bài Tang Trung trong Dung phong Kinh Thi :
quan hệ nam nữ bất chính.
Sinh ra dưới trời kẻ Nam người Bắc vốn không cùng nhà.
Việc chi mà vương vấn vào đường tình ái như bài thơ tìm hái rau
hạnh. Thơ Chu nam, Kinh Thi : hình ảnh hái rau hạnh để ví trai
tài chọn người yêu. Thân nếm đủ lo âu nguy hiểm trở thành lời Thoán
trong Kinh Dịch. Vân Vương ở Dữu Lý diễn Kinh Dịch viết ra Quái
từ và Thoán từ, Ngô Thì Nhậm lúc chạy trốn ở Thái Bình viết lời
bàn Kinh Xuân Thu. Lòng tơ tưởng tới người yểu điệu truyền tụng trong
Kinh Thi. Quan Thư Kinh Thi: “Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cầu, Cầu
chi bất đắc, Ngộ mi tư bạc.” Người thục nữ yểu điệu, chính là người
bạn tốt đôi của người quân tử. Người quân tử theo đuổi người đó mà
chẳng được, nên lúc tỉnh lúc mê đều tơ tưởng tới. Đáng thương cho cây
tùng kia dãi dầu trong tuyết lạnh. Luống nghĩ tới hoa đào nọ còn lưu
luyến buổi xuân về. Phải biết chỗ ngụ ý sâu xa của bậc thánh nhân.
Khuôn phép “Trị Bình” xuất phát ngay từ chốn phòng khuê.
CẢM TƯỞNG VỀ CÂU: BẠN ĐẸP LỨA ĐÔI NGƯỜI QUÂN TỬ TRONG KINH
THI
Dưới trời Nam Bắc chẳng chung nhà,
Hà tất tình như hạnh hái ra.
Thân đủ ưu nguy như Dịch thoán,
Thương người yểu điệu Kinh Thi ca.
Đáng thương tùng dãi dầu sương tuyết,
Luống tưởng đào lưu luyến buổi xưa.
Biết chổ sâu xa lời thánh dạy,
Trí bình khuôn phép tự phòng khuê.
Kỳ nhất
THI KHỞI QUÂN TỬ HẢO CẦU
Hậu thiên Nam Bắc bất đồng đường,
Hà sự anh tình hạnh thái đường.
Thân bão ưu nguy thành Dịch thoán,
Tâm quan yểu điệu bá Thi chương.
Khả lân tùng thụ kinh nghiêm tuyết,
Mạn tưởng đào hoa luyến thiếu dương.
Yếu thức thánh hiền thâm ý xứ,
Trị bình quy phạm tự khuê phương.
40 Cảm nghĩ về chuyện VUA NGHIÊU GÃ HAI CON GÁI
CHO ĐẾ THUẤN TRONG KINH THƯ.
Kinh Thư : Vua Nghiêu nghe nói Thuấn hiền đức đã cảm
hóa mẹ kế và em khác mẹ độc ác ương ngạnh, bèn mời về triều
gả cho hai con gái Nga Hoàng và Nữ Anh để thử tài xử thế trước khi
nhường ngôi.
Vua thánh tôi hiền gặp nhau tương đắc trong triều đình. Lẽ
ra Thuấn phải già đời đánh cá trong đầm Lôi Trạch. Trai muộn vợ vốn
đã quen sống đời cô độc. Gái con vua cần chi xuống chiếu kén chồng.
Tiếc cho gái một đôi chẳng phải là gương vỡ, từng có chồng mà goá
bụa. Nào biết tuổi ba mươi quả còn trai tân. Thánh nhân muốn ổn định
ngôi vị càn khôn, nên trước hết thừ đặt phép tắc nơi khuê phòng
để làm khuôn mẫu cho muôn phương.
Theo Thuấn Điển sách Thượng Thanh: “ Đô du hu phất “:
Đô du là tán thành, hu phất là phản đối. Trong triều vua Nghiêu
Thuấn khi bàn việc chính sự dùng từ này.
Theo Sử Ký, Ngũ Đế Bản Kỷ Thuấn khi còn hàn vi cày
ở núi Lịch Sơn, đánh cá đầm Lôi Trạch ở Sơn Đông. Thuấn là người
tốt nên ở đâu mọi người đều quần tụ đến đấy.
Tương đắc triều đình vua thánh tôi.
Chẳng làm ngư lão chốn đầm Lôi.
Thân trai muộn vợ quen cư ngụ,
Phận gái con vua há kén người.
Đôi gái chẳng vì gương kính vỡ,
Thân trai ba chục vẫn còn trai.
Thánh nhân muốn định càn khôn lại,
Đặt phép phòng khuê để thử tài.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Kỳ nhị THƯ KHỞI NHI NỮ LY GIÁNG
Tế hội đô du hu phất đường,
Khởi ưng Lôi Trạch lão ngư đường.
Quan phu nguyên dĩ thành cư tụ,
Đế nữ hà tu hạ tức chương.
Khả tích nhất song phi phá kính,
An tri tam thập quả cô dương.
Thánh nhân yếu dịch kiền khôn vị,
Thiên thí hình vu thức vạn phương.
41 Bài ba CẢM TƯỞNG VỀ QUẼ ĐẾ ẤT GẢ EM GÁI TRONG
KINH DỊCH
Hoà khí chan chứa đầy nhà lớn, đây chỉ
triều đình. Ấm cúng nồng nàn chẳng phải chỉ do tình
nghĩa anh em. Em gái vua cớ chi can dự vào hình tượng Kinh Dịch.
Phép tắc đế chế việc gì gả em xuống cho dân thường. Vì con em
vua chúa phần nhiều hợm hĩnh kiêu căng, ỷ vào địa vị tôn quý. Nên
khiến họ tự hạ bớt tôn quý để phục tùng chồng. Thánh nhân đã tỏ
rõ cái tôn chỉ : thân với người hiền. Muốn đại cát phải từ lòng
trung chính mà lên.
Kinh Dịch dùng quẽ này để tượng trưng cho
đức nhún nhường của những kẻ tôn quý như vua chúa. Kinh Dịch quẽ
Thái hào lục ngũ : “Đế Ất quy muội di chỉ nguyên cát”. Đế Ất
gã em gái đã có phúc, đủ phận phúc. Rất tốt là do trung chính từ tâm niệm.
Lệ hoa đường chữ trong bài thơ Thường Lệ, Tiểu Nhã
trong Kinh Thi nói về tình nghĩa anh em.
Mao chinh tượng trong quẻ Thái : “Bạt mao như dị kỳ
vương chính cát, nhổ cỏ tranh lấy cả vòng đi rất tốt. Theo
Trình Di : Thời đa thái thì để chí ở sự tiến lên, người quân tử
tiến lên tất cùng bạn bè dắt díu nhau lên như rể cỏ tranh. Vua quân
tử được yên thì người hiền khắp thiên hạ, quy tụ ở triều đình
đồng tâm hiệp lực làm nên cuộc hạnh thái cả thiên hạ.
Hoà khí tràn trề chung một nhà,
Anh em nồng ấm mẹ cha ra.
Em vua sao dự vào hình tượng,
Phép đế sao không gả thế gia.
Hợm hĩnh kiêu căng nhà quý tộc,
Hạ mình tôn kính theo chồng là,
Thân người hiền thánh nhân tôn chì,
Nguyên cát theo đường trung chính ta.
Kỳ tam DỊCH KHỞI ĐẾ ẤT QUY MUỘI
Hoà khí phân vân mãn thái đường,
Nùng hương phỉ trực lệ hoa đường,
Vương cơ hà dự mao chinh tượng,
Đế chế thiên đa hạ giá chương.
Hỗ xỉ đại đô bằng tạ súng,
Giáng tôn yếu xử thuận tòng dương.
Thánh nhân xiển phát thân hiền chỉ,
Nguyên cát trung hành nhận thử phương.
42.
Bài 4 KINH XUÂN THU
KHỞI ĐẦU : KHƯƠNG THỊ HỘI TỀ
HẦU
Kinh Xuân Thu: “ Năm Trang Công thứ 5 , mùa đông tháng 12
Khương Thị vầ hội với Tề Hầu ở đất Cáo, Khương Thị là vợ Lỗ Hoàn
Công, em gái Tề Tương Công. Tức năm Hoàn Công 18, Khương Thị theo
Hoàn Công sang nước Tề. Hoàn Công mất ở Tề. Khương thị bèn thông dâm
với anh ruột là Tề Tương Công “.
Nực cười thay về thăm anh hoá ra chuyện
động phòng. Yến hỉ đường nơi động phòng hoa chúc đây châm biếm nơi
Khương Thị thông dâm với anh. Cuộc ngao du thành ra chuyện dâm bôn. Thước
thuần đường, Kinh thi thơ Dung phong : “Thuần chi bôn bôn, Thước chi bôn
bôn, Nhân chi vô cương, ngã chi vi huynh. “(Chim thuần song song, Chim thước
song song, Người này bất lương, Ta gọi là anh.) Chim thuần chim thước
khi bay đều có đôi, Ngoan là con người bất lương mà ta phải gọi là
anh. Thơ này do nước Tề thất Tuyên Công mới mất , vợ Tuyên Công là
Tuyên Khương và là mẹ Huệ Công, thông dâm với tên Ngoan là con riêng của
Tuyên Công, nhân đó làm thơ đả kích. Gã gian phu thêm vợ lẽ như đã kể
trong thơ Y Ta, Kinh Thi. Ả dâm phụ làm gì biết thẹn với câu thơ Tệ
Cẩu thơ Tề phong, Kinh Thi chê Khương Thị. Loài chuột lớn có bao giờ
biết lễ nghĩa đâu ? Thơ Dung phong Kinh Thi : “Tướng thử hữu thể,
Nhân chi vô cơ, Hổ bất xuyến tử”. (Con chuột lớn còn có hình thể, Con
người mà không biết lễ nghĩa, sao không sớm chết đi. ) Con cáo khỏe
vốn chẳng chịu được cảnh thiếu xuân tình. Thơ Nam Sơn, Kinh Thi nói
loài cáo rất dâm. Nước Tề chê Khương Thị và Tề Tương Công anh em thông
dâm như loài cáo. Thánh hiền cố gắng nói rõ cái ý sâu xa. Băng giá
đến phải chọn giầy bện bằng cỏ
cát mà đi. Hài sơ lục, quẽ Khôn, Kinh Dịch: “Lý sương kiến băng chí.”
Giầy đi sương khi băng giá đến. Ngụy phong Kinh Thi: “Củ củ cát lũ,
khả dĩ lý sương.” Dép vải dày dăn
có thể đi sương. Ý nói việc gì cũng phải thận trọng.
Cười đến thăm anh hóa động phòng,
Ngao du mà hoá chuyện dâm bôn.
Gian phu thêm vợ Y Ta chép,
Đâm phụ thẹn gì Tệ Cẩu chương.
Chuột lớn biết chi là lễ nghĩa,
Cáo chồn chẳng chịu cảnh xuân không,
Thánh nhân nói rõ sâu xa ý,
Băng giá chọn giầy cỏ cát mang.
Kỳ tứ XUÂN THU KHỞI KHƯƠNG THỊ HỘI TỀ HẦU
Tiếu sát quy ninh yến hỉ đường,
Du ngao phiên tác thước thuần đường.
Ngoan phu đa đắc Y Ta thiếp,
Đảng phụ ninh tâm Tệ Cẩu chương,
Thạc thử hà tằng tri hữu lễ,
Hùng hồ nguyên bất nại vô đương.
Thánh nhân khiết khẩn minh vi chỉ,
Băng chí suy tòng cát lũ phương.
43 Cảm tưởng về câu trong thiên Nội Tắc Kinh Lễ
: “ Vợ thiếp tuy già, nhưng nếu tuổi chưa quá 50 ắt phải được
dự năm ngày một lần ngự.”
Nhan sắc đã tàn đâu dám mong được hầu
trong tẩm đường. Nhưng nhờ làn gió lành thổi dậy đoá hoa rụng bên
đường. Tạm vui với người áo trắng chẳng phải vì tham sắc. Người áo
trắng chỉ người vợ hiền từ thửa hàn vi do từ thơ Xuất kỳ Đông môn.
Màn rách còn cất giữ, vật dùng đã lâu trở thành thân thiết. Kinh Lễ
thiên Đàn Cung : “Tệ duy bất khí”, màn rách không vứt bỏ. Trai biển
nẩy hạt châu do sống lâu năm. Ruộng lam trồng được cây ngọc từ độ đang
xuăn. Lam điền tên quả núi ớ huyện Lam Điền, tỉnh Thiếm Tây, theo Hán
Thư núi này có nhiều ngọc đẹp. Thánh nhân nhắc đến chỗ khó thi
hành. Chì rõ cách dùng cày nghĩa để làm ruộng tình.
Nhan sắc tàn không hầu tẩm đường,
Nhờ làn gió mát thổi hoa tàn.
Tạm vui áo trắng không tham sắc,
Màn rách cảnh già hoá thiết thân.
Trai biển nẩy châu do tuổi lão,
Lam điền cây ngọc tự xuân dương.
Thánh nhân nhắc chuyện làm khi khó,
Cày nghĩa ruộng tình chỉ cách mang.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Kỳ ngũ
LỄ NỘI TẮC KHỞI : THIẾP TUY LÃO NIÊN VỊ NGŨ THẬP
TẤT DỰ NGŨ NHẬT CHI NGỰ
Cảm vọng điêu nhan xí tẩm đường,
Khải phong suy khởi lạc hoa đường.
Cảo y liêu lạc phi tham sắc,
Tệ trướng do tàn khởi quý chương.
Hải bạng sinh châu duyên tế lão,
Lam điền sản ngọc vị xuân dương.
Thánh nhân để khởi nan hành xứ
Minh thị tinh điền nghĩa nậu phương.
44 THU VỀ
Nguyên dẫn : Thu
cao, sương lạnh xót người đồng bệnh, vì tinh thần giao cảm, bất giác
đồng thanh tương ứng. Chúa thu cũng nên biết đến ân tình của chúng ta.
Tuy cúc vẫn còn, lẽ nào lại không giữ thu lại được. Sắp đón đông
tới, chợt tiếp thu về. Tấm thân ốm yếu nương tựa lều tranh, nếu đem
được thu tới bên giường bệnh chắc sẽ khỏe ra. Thiết tưởng mong thu sẽ
vì người yêu thu mà nhắn gửi tình. Vậy nên họa 5 bài để tỏ nghĩa
đồng tâm, mong được xem tới, sẽ làm vinh hạnh.
Bài 1. Thu về lại đến nhà chơi đàn. Song không thạo gảy
khúc phượng múa bên hồ. Ông Bành Trạch gảy đàn không dây mà vẫn vui.
Đào Tiềm khi về điền viên thường vỗ đàn mà hát tỏ ý chí mình.
Thầy Tăng Điểm gảy đàn chầm chậm vì muốn dấu chí hướng tốt đẹp.
Gió Nam không nổi, không vội vặn căng dây trục. Trời phía đông thu
lại, ánh nắng tỉnh lặng. Xét đạo lý suy ra từ chuyện cầm hạc .Phong
cách người làm quan đi xa mang theo cây đàn và con chim hạc làm bạn.
Khi hạc cất tiếng kêu là lúc đùa giỡn với đàn. Thơ Hạc minh, Tiểu
Nhã Kinh Thi : Minh cao, Hạc cất tiếng kêu.
Thu về lại đến chốn cầm đường,
Chẳng thạo gảy cung vũ phượng đường.
Bành Trạch ôm đàn vui tiếng vỗ,
Tăng Gia gảy chậm chí lưu chương.
Gió Nam không vội căng dây trục,
Cốc Chấn hương thu trời lặng trong.
Cầm hạc tiêu dao quan chốn vắng.
Tiếng thanh vang vọng hạc kêu đàn.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt :
THU HỒI
Kỳ nhất
Thu hồi trùng tiếp đáo cầm đường,
Khước bất am khiêu vũ phụng đường.
Bành Trạch vô huyền hoàn tự thú,
Tăng Gia hi cổ vị lưu chương.
Tốn phong bất quả hưu giao trụ,
Chấn cốc phương thu hảo tĩnh dương.
Tựu hạc suy cầm quan đạo lý,
Minh cao thời hậu lộng đàn phương.
45. Bài 2
Thu về lại tiếp đón đến nhà chơi cờ.
Song chẳng thạo suy nước cờ tượng mã. Trong cuộc dễ mê cần dừng nửa
chừng. Quẻ Cấn trong Kinh Dịch : “Cấn kỳ bối.” Dừng ngay trên lưng,
đừng nửa chừng chỉ sự tỉnh táo khi đánh cờ. Thắt túi không lỗi, ấy
là khéo khôn. Người xưa thường mang tiền trong thắt lưng. Ông tiều để
mục cán búa trải đã ngàn năm. Sách Thất Dị Ký : “Vương Chất vào
rừng đốn cũi, thấy hai đứa trẻ đánh cờ, bèn chống búa đứng
xem, tan cờ cán búa đã mục”. Quan Trạng dùi thủng lọng chỉ nước cờ
bằng điểm nắng. Vũ Huyên làng Mộ Trạch, Đường An tỉnh Hải Dương tay
giỏi cờ. Tương truyền sứ Tống sang nước ta đánh cờ với vua. Vũ Huyên
làm người cầm lộng che cuộc chơi giữa sân nắng. Ông dùi lộng một lỗ
nắng rọi lên bàn cờ, khi gặp nước cờ hay ông chỉ nước cho vua thắng.,
vua phong ông là Trạng Cờ. Nhọc lòng sao bằng cứ để lòng không nhọc.
Lặng thinh cũng biết được hội gió mây biến hóa.
Thu về lại đến chốn kỳ đường,
Chẳng thạo cuộc chơi mã tượng đường.
Trong cuộc dễ mê dừng nửa cuộc,
Thắt nang không lỗi ấy là khôn,
Ông tiều cán mục cờ theo nước,
Quan Trạng lộng soi nắng điểm bàn.
Lòng nhọc sao bằng không nhọc sức,
Lặng thinh biết được gió mây sang.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Kỳ nhị
Trùng hồi trùng tiếp đáo kỳ đường,
Khước bất am suy tượng mã đường,
Đương cục dị mê tu cấn bối,
Quát nang vô cửu thị khôn chương.
Lạn kha tiểu tẩu can thiên tuế,
Toản cái khôi nguyên kỷ điểm dương.
Tâm phí hà như tâm bất phí,
Phong vân tĩnh hội biến thông phương.
46 . Thu về lại đến với nhà làm thơ. Song không khéo niêm
luật thơ Đường. Khó tìm thấy khúc ngâm Lương phủ nơi Ngọa Long cương
của Khổng Minh. Chỉ biết có chữ chu hành trong thơ Lộc minh, Kinh Thi :
“ Nhân chi hiếu ngã, thị ngã chu hành”. Người khách yêu ta, chỉ ta
đường lớn. Khí phách Ly tao cùa Khuất Nguyên còn nơi hoa lan.
Khuất Nguyên khuyên ngăn vua Sở không được bị ruồng bỏ, đến sông Mịch La, cài hoa lan để tỏ chí
mình trong sạch. Sáng tác khúc Ly Tao. 9 bài ca có bài Tương Quân và trầm mình xuống sông Mịch La vì không muốn thấy nước Sở mất. Tiếng ngâm
thơ hồn Trương Hát còn vang vọng Quế Dương, Lý Thường Kiệt đánh Tống
lập phòng tuyến sông Cầu tại Quế Dương, cạnh đền Trương Hống, Trương
Hát. Để khích lòng quân sĩ ông cho lên đồng, hồn Trương Hát nhập
đồng vào ngâm thơ: “Nam quốc
sơn hà nam đế cư. Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư. Như hà nghịch
lỗ lai xâm phạm. Nhữ đẳng thành kham thủ bại hư”. Sông núi nước Nam
vua Nam ở. Rành rành định phận ở sách trời. Nếu như lũ giặc bây xâm
phạm. Chúng bây sẽ bị đánh tơi bời.
Bài 3
Thu về lại đến chốn thi đường,
Nhưng chẳng khéo nên niêm luật đường.
Lương Phủ khó tìm Long Ngoạ khúc,
Chu Hành chỉ hát Lộc Minh chương,
Khuất Nguyên khí phách miền lan nhược,
Trương Hát còn ngâm khúc Quế Dương.
Gió lạnh không cần kinh dạ Đẩu,
Ôn hoà đôn hậu ấy hoà phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Kỳ tam
Thu hồi trùng tiếp đáo thi đường,
Khước bất công suy vận luật đường.
Lương Phủ nan khuy Long Ngọa khúc,
Chu hành cẩn thúc Lộc Minh chương,.
Tương Nguyên tao khách anh lan nhược,
Trương Hát ngâm hồn trệ Quế Dương,
Bất dụng phong hàn kinh dạ Đẩu,
Đôn nhu ôn hậu kiến hoà phương.
47. Bài 4. Lại đón thu về tới nơi nhà vẽ. Song chửa biết
đường tô nét đỏ xanh. Đành tạm treo bức tranh hoa cúc của Đào Tiềm.
Đào Tiềm tri huyện Bành Trạch từ quan về trồng hoa cúc. Vì khó
tìm ra cây biếc chốn đào nguyên của Nguyễn Triệu. Lưu Thần và Nguyễn Triệu đời Hán vào núi Thiên
Thai hái thuốc lạc vào chốn thiên thai gặp hai nàng tiên kết duyên làm
vợ chồng, sau về quê cũ thời gian trôi qua đã mấy đời người
không ai còn biết đến. Không vẽ được vẽ đẹp của hoa trên tuyết. Cố
vẽ ánh sáng dịu của nắng trong sương. Từ nền trắng nghĩ ra đề tài
để vẽ. Tranh Diêm Vương trong các chùa đời Đường không đáng học theo.
Lại đón thu về chốn họa đường,
Song chưa biết vẽ nét đan thanh.
Đào Tiềm treo bức tranh hoàng cúc,
Nguyễn Triệu khó tìm cây biếc xanh.
Chẳng vẽ được hoa trên tuyết trắng,
Cố công vẽ nắng dưới sương trong.
Thử tìm cảnh vẽ trên nền trắng.
Diêm cảnh đời Đường chẳng muốn trông.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Kỳ tứ
Trùng tiếp thu hồi đáo họa đường,
Đan thanh vi hội tố điêu đường,
Hoàng hoa liêu quải Đào Tiềm trục,
Bích thụ nan tầm Nguyễn Triệu chương.
Duy đã bất miêu hoa thượng tuyết,
Tư quang yểu hội kính trung chương.
Thả tòng hậu đố suy nghiên đáo,
Đưởng quán Diêm đồ khởi túc phương.
48 Bài 5. Lại đến nhà uống rượu đón thu về. Chén
bằng ngọc tía rót đầy nhưng tửu lượng kém. Không đua tranh với điệu
múa uyển chuyển gái nước Vệ. Theo Tứ Lăng Ngọc Đài Tân Vinh : ‘Gái
nước Vệ thời Chiến Quốc nổi tiếng có bàn tay nhỏ xinh xắn, múa hay hát
giỏi. Đây chỉ không tranh đua với người có tửu lượng cao. Thường tự
khuyên mình bằng cêu thơ của Nghiêu Phu đời Tống: “Ẩm tửu mạc giao
thành lạc đính, Khán hoa thân vật đáo ly phi “ “Uống rượu chớ nên say
bí tỉ, Xem hoa chớ đợi lúc tàn phai.” Tạm rót chén thái hòa, điều
độ tiêu khiển ngày nhàn hạ. Đâu dám đem rượu tiên rượu thánh
buộc vào ánh dương, Ý nói đên Lý Bạch say trước mặt vua Đường Minh
Hoàng. Chớ uống đến loạn phải biết lúc dừng. Bởi trăng trên cây ngô
đồng, gió thổi qua bờ liễu luôn luôn gợi hứng. Thơ Nhàn ngâm Thiệu Tử
: “Nguyệt đáo ngô đồng thượng. Phong lai dương liễu biên. Viên thân
nhân phục tỉnh. Thử cảnh cộng thùy ngôn.” Trăng lên ngọn
ngô đồng, Gió lay cành dương liễu. Nhà ngỏ său nhàn hạ. Cảnh biết tỏ
cùng ai ?
Chẳng tiếp đón thu chốn tửu đường,
Tử hà đầy chén chóng say men.
Không tranh Vệ quốc tài ca múa.
Ngâm khúc Nghiêu Phu tự giữ thân.
Tạm chén thái hòa ngày rỗi rãnh,
Dám đâu rượu thánh buộc vầng dương.
Biết dừng chẳng uống say lời loạn,
Trăng ngô gió liễu hứng trời trong.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Kỳ ngũ
Trùng tiếp thu hồi đáo tửu đường,
Phù chung lượng hiệp tử hà đường.
Bất tranh Vệ auốc phiên thiên vũ,
Hằng giới Nghiêu Phu lạc đính chương.
Lược chước thái hòa tiêu hạ nhật,
Cảm tương tiên thánh hệ phi dương.
Âm vô cặp loạn tu tri chỉ,
Ngô nguyệt dương phong trạo khánh dương.
49 ĐỌC BÀI THƠ TÂM ĐẮC CỦA PHAN HẦU VUI MỪNG LÀM THƠ
Nguyên dẫn : Lần trước bàn về ba điều tương đắc,
suy nghĩ cho kỷ, đều thuộc về cái tâm, đúng như tiên nho khi bàn
về thơ nói rằng : Thơ là do cảm
xúc từ tính, xuất phát từ tình và được chi phối bởi tâm. Nếu không
phải là người thông hiểu về thơ thì không thể nói chuyện ấy được.
Song ba điều tương đắc đó, chỉ thấy được khi đạo lý được thể hiện.
Còn như chỗ hoà hợp về tinh thần thì lại chính là chỗ tương đắc
của hai ta. Đại để đó là những thú vào chỗ nào cũng có thể tự
đắc được, những thứ đó có thể lĩnh hội bằng ý mà không thể truyền
dạt bằng lời. Song những điểu tự đắc đó chỉ lẳng lặng mà biết,
chứ không thể viết ra được. Vậy xin làm bài thơ “Đại hữu đắc “ để
ghi lại niềm vui về học vấn, đạo đức của chúng ta. Kính nối
vần trước, chỉ mong sửa giúp.
Tam đắc là : tính, tình, tâm.
Cùng thi đỗ, cùng làm quan, lại là chỗ
thông gia. Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích cùng đỗ Tiến sĩ đời Lê, củng
làm quan thời vua Lê chúa Trịnh, thời Tăy Sơn, Phan huy Ích còn là em
rể . Tình bạn chi lan thơm phức sum họp một nhà. Như Lỗ, Vệ vốn do
cùng mùi vị thơm tho. Lỗ, Vệ đều dòng dõi nhà Chu. Lỗ dòng Chu Công
Đán, Vệ dòng Thiệu Công Thích. Tựa Thẩm, Lưu há phải đọ tài
văn vẻ. Thẩm Thuyên Kỳ và Lưu Vũ Tích là hai nhà thơ đời Đường phong
cách khác nhau, mỗi người đều hay. Không có lòng nào đua tài thơ phú
với Đỗ Công Bộ. Đỗ Phủ nhà thơ
lớn đời Đường, từng giữ chức Công Bộ Viên ngoại lang.. Chỉ có lời
hẹn ước họp bạn già ở Lạc Dương. Văn Ngạn Bác đời Tống về già có
lập Hội Kỳ Anh ở Lạc Dương để tiêu dao. Cần biết chỗ tương đắc cúa
bọn ta. Luôn luôn cố gắng đạt hiệu quả.
Phận cùng khoa hoạn chỗ thông gia,
Thơm phức chi lan cùng một nhà.
Lổ, Vệ gốc từ cùng xứ vị.
Thẩm, Lưu văn chẳng đọ tài ba.
Vô tâm Công Bộ văn không sánh,
Cùng hẹn Lạc Dương họp bạn già.
Tương đắc biết lòng ta với bạn,
Gắng công, nên việc tránh sa đà.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
PHỤNG ĐỘC PHAN HẦU TÂM ĐẮC CHI TÁC HỈ NHI THÀNH
Phận liên khoa hoạn nghị gia đường,
Chi phúc lan phương tụy nhất đường,
Lỗ, Vệ do lai đồng xứ vị,
Thấm, Lưu khởi tất tấu ba chương.
Vô tâm thi phả tranh Công Bộ,
Hữu ước kỳ du hội Lạc Dương.
Yếu thức ngô đồng tiêu đắc xứ,
Nghiên thành vì vĩ giới mê phương.
50, Nguyên dẫn : Vừa qua phụng mệnh triều đình, về
triều thay phiên thứ nhất. Nghiền ngẫm cho kỷ việc đi đứng vì đã có
định sẵn. Vâng theo chiếu thư mà làm đúng nghĩa vụ. Nhân đó làm một
bài thơ Thuật hoài họa đúng vần trước, mong ông sửa giúp.
Tờ sắc từ triều đình ban ra, phụng mệnh bước vào
triều. Màu mực mới như pha lê, óng ánh hương thơm. Có lệnh vảo chầu
vua Cảnh Thịnh vội bước đến nhà tuyên thất nơi các Đông Các học
sĩ cố vấn vua. Ra quan ải tiếp sứ nhà Thanh đều bình yên việc bang
giao tốt, hợp với sắc thư triều
đình. Muốn không có bệnh tật chính nên tìm đạo quẽ Phục. Kinh Dịch :
quái từ quẽ Phục : “Xuất nhập vô tật “, ra vào không bệnh tật. Có
lòng tin thành thật gặp hào dương quẽ Kiền thì lợi. Kinh Dịch :
quẽ Kiền, 6 hào dương, hào cữu nhị (92) nói
“Hiện long tại điền. Lợi kiến đại nhân” Rồng hiện trên ruộng,
thấy bậc đại nhân thì lợi. Nói việc vào chầu vua là tốt. Mừng ông
được thăng mười cấp ứng với điều hay. Tranh luận về bờ cõi nên tìm
cách biện luận thật hay.
Một sắc triều ban đến điện đường,
Pha lê mực mới ánh hương thơm.
Về triều nhập lệnh nhà Tuyên Thất,
Ra ải bình an thơ vãn chương,
Vô bệnh chính tìm nơi quẽ Phục,
Lòng tin thành thật thấy Càn dương.
Mừng thăng mười cấp điều hay đến,
Biên giới phân minh giỏi luận bàn.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Nhất chỉ khu trung khủng thưởng đường.
Pha lâ tân mặc cánh phương đường.
Nhập triều hữu mệnh xu tuyên thất,
Xuất tái hàm khang hiệp vãn chương.
Vô tật chính nghi tầm phục đạo.
Hữu phu thành lợi kiến càn dương.
Hỉ công thập cập phù gia triệu.
Mã bạch đề phong hão biện phương.
Cúc Thu Bách Vịnh có lẽ là tập thơ cuối
cùng của Ngô Thì Nhậm. Qua những bài thơ chúng ta đoán biết
: Những ngày cuối cùng triều
Tây Sơn hai ông được vua Cảnh Thịnh triệu về triều. Phan Huy Ích lo
việc bàn định tranh luận về biên cương với sứ nhà Thanh. Năm 1802 khi
Gia Long đánh Phú Xuân thất thủ hai ông không theo kịp vua Cảnh
Thịnh chạy ra Bắc bị bắt, bị đóng
gông giải theo đoàn quân Gia Long ra Bắc truy đuổi vua Cảnh Thịnh.
Nguyễn Nể đưa Nguyễn Thiếp từ Nghệ An, lo việc xây dựng Phượng Hoàng
Trung Đô mới tới. Gia Long cho gọi ra. Nguyễn Nể dâng sớ. Gia Long
tha cho đi theo từ Phú Xuân đến Bắc Thành, lo việc bang giao nhà Thanh,
Nguyễn Thiếp được tha cho về quê quán La Sơn Hà Tĩnh. Gia Long ra Bắc
đến huyện Phù Dung trấn Sơn Nam Thượng thì Nguyễn Du từ Quỳnh Hải.
Thái Bình dẫn học trò, tráng đinh đem bò ngựa lương thực ra dâng sớ
tiếp đón, Gia Long phong ngay làm tri huyện Phù Dung. Sự kiện này
giống như Phi Tử thời Chiến Quốc dâng ngựa cho vua Chu Hiiếu Vương được
phong đất Phụ Dung, nên Nguyễn Du có danh hiệu là Phi Tử. Nguyễn Hành
trong bài Đi săn có nhắc đến danh hiệu này. Ngô Thì Vị (1774-1821), em út
Ngô Thì Nhậm không rõ ra gặp vua Gia Long lúc nào mà được phong Hiệp
Trấn Lạng Sơn. Kỳ thi cuối cùng thời Lê Trịnh ông mới 9 tuổi,
Có lẽ Gia Long đặc cách tổ
chức bốn kỳ thi sát hạch Ngô Thì
Vị đều đỗ đầu, nên Nguyễn Du trong một bài thơ gọi ông là Ngô Tứ
Nguyên. Ngô Thì Vị làm Phó Sứ sang nhà Thanh năm 1807. Khi Nguyễn Du mất năm 1820 chưa kịp
đi sứ, Ngô Thì Vị được cử làm Chánh sứ
đi thay. Ngô Vị đi sứ về đến Quảng Tây thì mất năm 47 tuổi.
Triều Gia Long, Nguyễn Du và Ngô Vị
được vua trọng đãi, danh tiếng ngang nhau. Con Phan Huy Ích là Phan Huy Thực
(1778-1844), Phan Huy Chú(1782-1840), cháu Phan Huy Vịnh(1800-1870) đều
được vua triều Nguyễn trọng
đãi đi sứ. Kho tàng di sản văn
học hai họ Ngô và Phan thật là đồ
sộ, là những bộ Bách Khoa tự
điển, một kho tàng quí giá khi muốn
tìm hiểu về nước ta thời quân chủ.
Khi vua Gia Long từ Bắc về Phú Xuân,
đem theo vua Cảnh Thịnh cùng 300 tướng lĩnh hành hình. Ngô Thì Nhậm
và Phan Huy Ích được tha được hỏi việc bang giao dưới quyền Tổng Trấn Bắc Thành Nguyễn
Văn Thành, chẳng may Ngô Thì
Nhiệm gặp Đặng Trần Thường người
cùng làng có mối thù riêng. Thường theo Gia Long làm đến Binh Bộ
Thượng Thư. Thường đem Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Gia Phan ra
đánh đòn tại Văn Miếu. Gặp Ngô Thì Nhậm, Thường ra câu đối .” Ai
công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai ai dễ biết ai ?” Ngô Thì
Nhậm đáp lại : “Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu gập thời thế thế
thời phái thế.” Thường căm giận cho người đánh nặng, sau
trận đòn thù ông từ trần năm 1803. Nhưng số phận Đặng Trần Thường
cũng không lâu dài, năm 1816 ông bị kết tội phong thần cho tướng
nhà Trịnh Hoàng Ngũ Phúc là tướng nhà Trịnh đem quân đi đánh sụp
Chúa Nguyễn năm 1885, và tội tham nhũng ẩn lậu ao ruộng. Thường bị
xử tội thắt cổ.
Một trăm bài thơ Bách Thu Cúc Vịnh của
Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích là một tập thơ kiệt tác trong kho tàng
văn học chữ Hán Việt Nam. Qua tập thơ chúng ta có cái nhìn khác hơn,
thú vị về Tứ Thư Ngũ Kinh của ngưởi xưa biết những điển tích
thi ca phong phú văn học cổ điển. Qua tập thơ chúng ta biết được tâm
sự hai danh nhân cuối triều Tây Sơn:
qua những trao đổi thú vị về tình yêu, tình bạn, đạo vợ
chồng, nhớ tới vua Quang Trung. bài thơ viết nhân ngày sinh nhật cha
thật cảm động. Mượn chuyện công chúa Hồ Dương chị vua Hán Quang
Vũ được vua gã chồng cho quan Đại Phu Tống Hoàng, xui ông bỏ vợ cũ
lúc hàn vi để cưới công chúa nhưng Tống Hoàng từ chối, hai ông viết
nên tâm sự nàng Hồ Dương bằng những bài thơ tuyệt đẹp. Bài 23 tả cô gái ngồi dệt nhưng tưởng
nhớ đến người yêu nên dệt vụng về, cô chỉ nghĩ đến : “Mong cửa
nhà chàng treo chỉ thắm, Để may áo cưới rộng thu sang.”
PHẠM TRỌNG CHÁNH
Paris 2-4-2018