Nạn Đói Năm Ất Dậu
60 Năm Về Trước
TS Lê Đình Cai
Sáu mươi năm đã
trôi qua kể từ nạn đói khủng khiếp của năm Ất Dậu (1945) ấy mà bây giờ
nhắc lại nhiều người trong cuộc vẫn còn bàng hoàng khiếp đảm. Những
người miền Bắc đã kinh qua nạn đói ấy bây giờ có người vẫn còn sống và
họ là những chứng nhân cho biến cố bi thảm này. Trong số đó, có những
người đang tiếp tục làm kiếp tha hương trên đất lạ; nhưng mùa Xuân đói
kém của năm Ất Dậu năm xưa ấy vẫn là nỗi ám ảnh bi thảm khó xóa nhòa
trong tâm khảm dù đã 60 năm chuyển dịch của trời đất và dù họ cùng gia
đình con cháu ngày nay đang có cuộc sống vật chất quá no đủ ở xứ người.
Vậy nguyên do
nào đưa tới nạn đói bi thảm của năm Ất Dậu (1945) cách 60 năm về trước?
Trở lại bối
cảnh chính trị của đất nước ta vào những năm cuối của cuộc đệ nhị thế
chiến để truy tìm nguyên nhân của thảm trạng này.
1. Quân Nhật
kiểm soát Đông Dương
Trong khi quân
Đức quốc xã tiến chiếm kinh đô Paris của Pháp (14/06/1940) thì quân
Nhật ở Á Châu cũng đã tiến chiếm vùng Quảng Đông của Trung Hoa. Với
thắng lợi này của phe Trục (gồm Đức, Ý, Nhật), Nhật đã gởi tối hậu thư
ngày 18/06/1940 cho Toàn Quyền Catroux đòi kiểm soát hai đường xe lửa
Hải Phòng-Vân Nam và Hà Nội-Lạng Sơn để ngăn không cho Pháp vận tải,
tiếp tế xăng dầu, vũ khí cho quân đội của Tưởng Giới Thạch. Toàn quyền
Catroux phải nhượng bộ và sau đó đã bị Đô Đốc Decoux, tư lệnh hải quân
Pháp ở Viễn Đông lúc bấy giờ lên thay thế.
Với hiệp ước ký ngày 30/08/1940 tại Tokyo giữa
Pháp và Nhật thì uy quyền của Pháp ở Đông Dương bắt đầu sút giảm, và
ảnh hưởng của Nhật ngày càng lấn lướt. Và với hiệp ước 08/12/1941 (sau
khi oanh tạc Trân Châu Cảng), Nhật đã ép chính phủ Pétain của Pháp đi
đến nhiều nhượng bộ về quân sự và quân đội Nhật được quyền đóng quân
từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu với quân số buổi đầu từ 6.000 người nay
tăng thành 35.000 người
[1].
Và đặc biệt,
Nhật lại có một vị Đại Sứ, ông Yoshizawa, bên cạnh Toàn quyền Đông
Dương, điều từ trước đến nay chưa bao giờ có. Như vậy tình thế Đông
Dương cho đến khi Nhật đầu hàng (15/08/1945), ngoài ông chủ cũ là
người Pháp, nay thêm một ông chủ mới cao hơn là người Nhật. Dân Việt
bây giờ lại sống trong cảnh “một cổ hai tròng”.
2. Bối cảnh
kinh tế trước khi nạn đói xảy ra
Ngày
06/05/1941, Pháp lại phải ký với Nhật về một thỏa ước thương mại trong
đó có hai khoản chính yếu sau:
- Người Nhật và
các công ty Nhật được làm một số nghề, được khai thác hầm mỏ, đất đai,
được kinh doanh về thủy điện...
- Các hàng hóa nhập cảng vào Đông Dương được
hưởng quy chế tối huệ quốc, một số mặt hàng được hưởng hối suất nhẹ.
Theo thỏa ước này, Việt Nam bị ép buộc phải sản xuất một số mặt hàng
theo yêu cầu của Nhật để đổi lấy hàng kỹ nghệ của họ. Việt Nam buộc
phải cung cấp cho quân đội Nhật Bản đồn trú trên lãnh thổ của mình một
số lượng gạo khổng lồ được ấn đinh: 700.000 tấn năm 1941, 1 triệu 50
ngàn tấn năm 1942, 950.000 tấn năm 1943 và 900.000 tấn năm 1944
[2].
Một mặt họ đời hỏi cung ứng một lượng gạo lớn lao hàng năm như thế,
mặt khác họ lại buộc phải phá bỏ đất trồng lúa, trồng bắp để trồng đay,
trồng gai phục v ụ cho nhu cầu chiến tranh của họ. Đây là một trong số
những yếu tố dẫn đến nạn đói năm Ất Dậu (1945) khởi đi từ mùa Đông
1944 đến tháng 5/1945.
Năm 1944, vì bị áp lực của Nhật, chính quyền
Pháp tại Đông Dương đã ép giá nông dân Việt, chỉ trả 25 đồng cho một
tạ lúa trong khi giá thị trường trước đây là 200 đồng và giá vốn là 80
đồng. Tạp chí Thanh Nghị số ra ngày 26/02/1944 có kể lại tình cảnh bi
thảm của dân quê Bác Kỳ lúc bấy giờ:”Ở Trung Châu Bắc Kỳ, dân nghèo
năm thì mười họa mới được ăn một miếng thịt, cả đến giai cấp trung lưu,
trung bình 20 gr một ngày, (trong khi) theo viện Pasteur thì phải cần
có 55 gr thịt một ngày (mới đủ). Dân ở nông thôn đại đa số là bần nông
thì chỉ dùng những dụng cụ bằng gỗ, rất ít có dụng cụ cơ khí, ngoài ra
không có vốn liếng gì cả. Ở Bắc Kỳ từ tháng 4 đến tháng 10, nông dân
chỉ còn được 10% hoa lợi. Nông dân đói ăn, mặc rét, kệ thây, thuế đã”.[3]
Khi Nhật chưa
đến Đông Dương, Việt Nam chỉ đóng có 44.308.000 đồng thuế năm 1939 đến
năm 1944, tiền thuế tăng hơn gấp đôi (98.072.000 đồng). Dưới áp lực
của người Nhật, chính quyền Pháp tại Đông Dương ép dân Việt phải bán
3/4 số thóc thu hoạch được, nhiều trường hợp không đủ số thóc quy định,
người dân phải mua ngoài bù vào với giá 200 đồng một tạ.
Dân sống trong
cảnh một cổ hai tròng (Pháp – Nhật), nên đời sống ngày càng khốn đốn,
sản xuất gặp những năm mất mùa, không đủ ăn, lại đóng thuế quá cao nên
người dân không còn gì để ăn cả. Trong “Việt Nam: A long History”
xuất bản tại Hà Nội, 1987, Ông Nguyễn Khắc Viện cũng đã đề cập đến sự
tàn tệ của người Nhật khi thúc ép chính quyền Pháp ở Đông Dương cung
ứng chi phí chiến tranh cho họ, ngoài sự tận thu thóc lúa và bóc lột
đến tận xương tủy của người dân khốn khổ.
Để cung ứng chi phí chiến tranh cho quân đội
Nhật, chính quyền Pháp tại Đông Dương đã phải ấn hành số tiền tệ cần
thiết lên đến 723 triệu đồng (cho tới năm 1943), gấp 7 lần ngân sách
Đông Dương của năm 1939 và đến 1944 lên đến 1 tỉ 52 triệu đồng. Vì vậy
vật giá tăngcao chưa từng thấy trước đó. Dân nghèo nông thôn gánh đủ
hậu quả này. Gánh nặng lớn lao nhất vẫn là cung cấp gạo. Ngay ở vùng
Bắc Bộ, nơi đang thiếu ăn trầm trọng, thế mà đã phải cung cấp cho Nhật
130.205 tấn (1943) và 186.130 tấn (1944). Bất kể vụ mùa tốt hay xấu,
dân quê cũng phải đóng số lượng gạo đã được phân bổ theo đất trồng
trọt với giá 19 đồng cho một tạ lúa; trong trường hợp mất mùa, người
dân đã phải mua gạo, theo giá thị trường đến gấp ba (54 đồng cho một
tạ gạo)
[4].
Người nông dân đã không thể nào kiếm đủ ăn cho bản thân chứ chưa nói
là cho gia đình. Chính sách tận thu nông sản nghiệt ngã này đã đẩy
người dân vào nạn đói không thể nào tránh khỏi.
Để phục vụ cho
nhu cầu chiến tranh, Nhật đã bắt nông dân phá bỏ ruộng lúa để trồng
đay trên một số diện tích rất lớn. Năm 1944, khi người Mỹ ném bom ngan
cản việc chuyên chở than đá về Sài Gòn, người Pháp và Nhật đã cho lệnh
sử dụng gạo và bắp (ngô) như là nguyên liệu để chạy máy. Họ tận thu
thóc, ngô cho mục tiêu này. Đây lại là lý do nữa dẫn tới nạn đói khủng
khiếp năm Ất Dậu (gạo ở miền Nam không chở ra Bắc được vì không có
nhiên liệu để vận chuyển xe cộ, tàu bè...)
Trong khi các dấu hiệu đói kém đã dần dần hiện
rõ, thì năm 1941, Nhật đòi 700.000 tấn gạo, Pháp chỉ cung cấp được
585.000 tấn. Năm 1942, Nhật đòi 1 triệu 74 ngàn tấn, nhưng Đông Dương
chỉ cung cấp được 973.908 tấn. Năm 1943, Nhật đòi 1 triệu 125 ngàn 904
tấn, Pháp chỉ nộp được 1 triệu 23 ngàn 471 tấn. Năm 1944, dù mất mùa
nặng, ngũ cốc khan hiếm, Nhật vẫn đòi 900.000 tấn, Pháp chỉ cung cấp
được gần 500 ngàn tấn mà thôi.
[5]
Ngoài gạo ra, Nhật đòi cung cấp thêm bắp (ngô)
để nuôi ngựa. Năm 1942, Pháp phải cung cấp 124.923 tấn ngô. Năm 1943,
cấp thêm 98.700 tấn. Năm 1944 vì số ruộng trồng ngô bị phá nhiều nên
chỉ cung cấp được cho Nhật 18.263 tấn, và đầu 1945 là 12.134 tấn.[6]
3. Nạn đói năm
Ất Dậu (1945) xảy ra
Nghiêm Xuân Yêm đã viết: ”Những năm bình
thường, dân nghèo đói quanh năm, một ngày chỉ một bữa cơm độn khoai,
(con một bữa cháo). Hết việc ruộng đi làm mướn thất thường, quanh năm
công nợ, nai lưng gỡ nợ, gỡ nợ rồi lại mắc” [7].
Giáo sư Cao Thế
Dung dẫn lại tài liệu của Decoux, “A la Barre de l’Indochine”
kể rằng: “Nạn đói Ất Dậu bắt đầu vào mùa Đông 1944 kéo dài cho đến
tháng 5/1945. Ở Trung Châu Bắc Việt, gà vịt lợn biến mất, dần dần biến
mất cả chó, có những xóm không còn một con vật nào. Các tiểu nông đi
đến chỗ tuyệt vọng. Ruộng nương trâu bò phải bán đứt hay bán đợ. Lúa
phải bán non, đồ đặc phải cấm cố. Làng Thượng Cẩm, phủ Thái Ninh, Thái
Bình có 900 suất đinh vào năm 1944, ngày
27/05/1945 chết
hết còn 400. Nam phụ lão ấu trong làng Thượng Cẩm Thái Bình là 4000
người chết đi còn lại 2000 người
“
[8].
Một tác giả
người Pháp đã kể lại trong “Témoignages et documents français
relatifs a la Colonisation française au Vietnam” cái cảnh tượng
thê thảm của nạn đói năm Ất Dậu đó như sau:”Họ đi thành rặng dài
bất tận...toàn thân lõa lồ, gầy guộc, trơ xương ra, run rẩy...Thỉnh
thoảng, họ dừng lại để vuốt mắt cho một người trong bọn họ ngả xuống
và không bao giờ thức dậy được nữa... Nhìn những hình người xấu hơn
con vật xấu nhất, nhìn thấy những xác chết co quắp cạnh đường chỉ có
một vài nhánh rơm vừa làm quần áo, vừa làm vải liệm, người ta thật lấy
làm xấu hổ cho cái kiếp con người”
Sau Tết Ất Dậu (1945), khoảng tháng 3, nạn đói
ngày càng gia tăng và con số người chết có lúc lên cả hai vạn người
một ngày. Trong lúc đó lừa ngựa của Nhật vẫn được nuôi ăn đầy đủ bằng
bắp và gạo thu được từ trước và được chất đầy trong các kho lương thực
dọc theo quốc lộ 1, nhưng người Nhật vẫn không cho mở các kho gạo ra
để cứu trợ. Cho đến tháng 5/1945, có làng như làng Thượng Cẩm, phủ
Thái Ninh, tỉnh Thái Bình, dân số ước chừng 4000 người thì chết hết
2000 như đã nói ở trên. Và sau đây là những con số đáng ghi nhớ. Dân
số Thái Bình 700.200 người, chết đói khoảng trên 260.000. Nam Định là
một vựa thóc, dân số khoảng 680.000, chết đói 229.650 người. Ninh Bình
dân số 200.000, chết đói 37.936 người. Hà Nam, dân số khoảng 400.000,
chết đói 50.383 người.[9]
Theo tổng kết của viên Toàn Quyền Decoux thì trận đói năm Ất Dậu
(1945) đã khiến khoảng 1 triệu người chết, nhưng thực tế chắc con số
này cao hơn nhiều.
Qua phần trình
bày các tài liệu như trên đây thì lý do để giải thích hợp lý cho trận
đói năm Ất Dậu, ngoài lý do thiên tai, hạn hán, mất mùa, là chính sách
tàn ác của quân đội Nhật cho lệnh thu mua lúa gạo, ngô (bắp) tích trữ;
phần khác cho lệnh phá bỏ những cánh đồng trồng lúa, ngũ cốc để trồng
đay phục vụ cho nhu cầu chiến tranh khi phe trục Đức-Ý-Nhật đang làm
mưa làm gió trên toàn thế giới trong trận đệ nhị thế chiến. Dĩ nhiên,
người ta không quên kể đến lý do trong Nam không tiếp tế gì cho miền
Bắc được vì các mõ than để chạy xe tàu đã bị bom Hoa Kỳ đánh phá dữ
dội và một số lượng gạo, ngô đã bị chính quyền Pháp chế biến thành
nhiên liệu phục vụ cho vận chuyển trong Nam. Và cũng phải kể thêm nạn
đầu cơ tích trữ lúa gạo của các thương buôn người Hoa, thành phần nắm
chủ lực về kinh tế từ nông thôn ra đến thành thị và từ cả miền Nam ra
đến miền Bắc, khiến người nông dân ngày càng kiệt quệ không sản xuất
được mà cũng không có tiền để mua thực phẩm.
Cốt lõi của thảm cảnh năm Ất Dậu vẫn là chính
sách tàn ác vô nhân đạo của người Nhật khi họ tràn vào xâm lăng Trung
Hoa và Đông Nam Á. Họ biết dân Bắc Việt đang đói kém ghê gớm, họ biết
mỗi ngày có đến cả hàng ngàn người chết đói nhưng họ vẫn không mở kho
lương thực nào để cứu đói cả và theo sự thú nhận của một viên chức
Nhật quản lý lúa gạo sau khi Nhật đảo chánh (09/03/1945) thì “gạo vẫn
được chất cao như núi trong các kho vựa của Nhật”
[10].
Thật quả đây là một tội ác chiến tranh của người Nhật trong đệ nhị thế
chiến mà chính họ khó gột bỏi hình ảnh xấu xa này trước công luận thế
giới và trước lương tâm nhân loại.
Lê Đình Cai
(viết để ghi
nhớ những nỗi đau của dân tộc Việt).
[1]
Lữ Giang, “Những bí ẩn lịch sử đằng sau cuộc chiến Việt
Nam”,
California, Hoa Kỳ, 1998, tr.159.
[2]
Lữ Giang, sđd, tr.158
[3]
Cao Thế Dung, “Việt
Nam huyết lệ sử”,
Hoa Kỳ, nxb Đồng Hướng, 1996, tr. 719
[4]
Nguyễn Khắc Viện, “Việt
Nam: A
long History”
xuất bản tại Hà Nội, 1987, tr 241
[5]
J.Gauthier, “ L’Indochine au travail dans la Paix Francaise”,
Paris, 1947, tr. 283.
[6]
Annuaire statistique de l’ Indochine, 1939 – 1946, tr. 166,
được dẫn lại trong Cao Thế Dung, sđd, tr.728).
[7]
Nghiêm Xuân Yêm,”Cảnh nghèo ở thôn quê” đăng trong tạp
chí Thanh Nghị số 47 ra ngày 16/10/1943:
[8]
Cao Thế Dung , sđd, tr.723
[9]
Tập san “Nghiên Cứu Lịch Sử” số 4, 1990, tr.50 – 56; Cao
Thế Dung, sđd, tr.728
[10]
Xem “Nghiên Cứu Lịch Sử”, số 4, 1990, tr.50 – 56