VĂN HÓA
và GIÁO DỤC
GS Nguyễn
Mạnh Bích - Paris
Bước vào thiên niên kỷ thứ
ba, xã hội loài người sống như thế nào ? Có ba biến cố nổi bật nhất : sau khi
đã tạm khống chế được dịch bò điên cừu run đã gây kinh hoàng trong một thời
gian cho việc tiêu thụ thực phẩm, giới y khoa lại phải điên đầu trong việc tìm
thuốc chữa dịch cúm SARS. Hiện nay, nhiều bệnh nan y cũ và mới vẫn hoành hành
dữ dội, trong ấy phải xem bệnh SIDA là nghiêm trọng nhất. Nhân loại sống trong
một nỗi lo sợ triền miên bị nhiễm độc bất ngờ.
Bên cạnh cái tai ương «
không tự nhiên » này, con người đang lao đầu vào một cuộc chiến tranh diệt
chủng khủng khiếp. Phía sau những cuộc nội chiến ở các nước Phi châu, Nam Mỹ,
cuộc chiến tranh ở Afganistan, ở Irak có thể là bề ngoài của một cuộc thế chiến
thứ ba. Toàn cầu đang bị hăm dọa bởi một loại chiến tranh ảnh hưởng giữa nền
văn minh « sản xuất tối đa để tiêu thụ tối đa » của các nước giàu có tự mệnh
danh là tiến bộ và nền văn minh « bảo vệ đạo lý hồi giáo » của các nước bị xem
là lạc hậu. Căn bản là cuộc chiến tranh giữa kẻ nghèo và người giàu. Cán cân
lực lượng quá chênh lệch giữa hai bên buộc lòng kẻ nghèo phải xử dụng thứ khí
giới « phản tiến bộ » : khủng bố phá hoại. Đó là một loại sida khác !
Nhìn chung, nhân loại hiện
nay đang sống một giai đoạn suy đồi quá ư đen tối, đang trải qua một thời kỳ
khủng hoảng tinh thần nghiêm trọng. Đấy không phải là một thứ hệ luận theo duy
vật biện chứng. Tinh thần bạo động có mặt trong lời nói, trong các phim truyện,
trong các trò chơi, giữa học đường, bệnh xúc phạm tiết hạnh với những vụ hiếp
dâm trẻ em, loạn luân, bức hiếp con cái, kể luôn cả lòng tự hào mù quáng về
quyền năng siêu đẳng của khoa học dẫn đến những cuộc thực nghiệm clonage v.v.
tất cả những sự việc ấy là hậu quả của sự lạc hướng tâm linh đã manh nha từ mấy
thế kỷ nay. Có nghĩa là con người, vào thiên niên kỷ thứ ba này đang lao đầu
vào một cuộc chạy đuổi không định hướng và không lối về. Con người không còn
nhớ, không còn biết mình là ai, sống để làm gì !
Nhìn kỹ hơn vào tâm trạng ấy
ở Pháp, ở Âu châu, ở Hoa kỳ làm tiêu biểu, ta thấy gì ? Đa số thanh niên bảo
vệ, tôn thờ một cuộc sống vật dục xô bồ, hời hợt, có nhiều xảo trá trong cách
xử dụng tinh thần dân chủ và quyền tự do. Không cần nghĩ đến ngày mai, phải
tiêu thụ cật lực, toàn diện, cả vật chất lẫn tinh thần, đấy là mẫu người hiện
đại, mẫu người « in ». Lo nghĩ đến hậu quả của cuộc sống không định hướng, trân
trọng tinh thần vị nhân bản là tư cách lạc hậu của hạng người « out ». Đã là
con người của thiên niên kỷ thứ ba thì phải biết sống thoải mái, tự do, không
tự ràng buộc vào bất cứ thông lệ, phép tắc, cổ tục nào và phải dùng toàn lực để
tiêu xài, hưởng thụ. Tiêu xài cật lực dù sẽ đi đến tự hủy diệt, hưởng thụ tối
đa dù phải đi đến những hành động phi luân, phạm pháp !
Rất may là còn có một thiểu
số không chọn lựa lối sống kỳ quái ấy. Về phần cộng đồng người Việt ở hải
ngoại, họ bị tinh thần ấy, tâm lý ấy ô nhiễm không ? Thế hệ sinh sau 75 trong
nước tiếp nhận lối sống mới ấy như thế nào ?
Điều đáng mừng vô cùng là
căn bệnh thời đại ấy không tác hại nhiều lắm đối với người Việt nói chung. Cộng
đồng người Việt ly hương, ở hải ngoại, nhờ sức sống mãnh liệt đã hội nhập tốt
đẹp ở hầu hết các nước tiếp cư. Nếp sống trù phú giúp họ nuôi dưỡng con cháu
theo tiêu chuẩn các nước tiến bộ, giúp chúng thành đạt mỹ mãn trên dường học
vấn. Tất cả nỗ lực hầu như được tập trung vào sự thành công của việc hội nhập
nên, nhìn chung, số người Việt ở hải ngoại - hiện nay - bị nhiễm độc không đáng
kể. Nhưng ngược lại, họ mắc phải một căn bệnh khác, không hiểm nghèo cho mạng
sống nhưng tác hại rất lớn cho tương lai: bệnh nghi ngờ giá trị của nền văn hóa
Việt nam. Đấy là một điều đáng lo nghĩ được đem bàn trong bài này.
Ở trong nước, số thanh niên
ở các vùng thành thị mắc bệnh thời đại (sida và sống buông thả) lên đến một tỷ
lệ khá cao. Trong khi phần đông số dân Việt nam sống với một số thu nhập hằng
năm rất thấp (60$ mỗi tháng như dân của 65 nước nghèo trên thế giới) thì một số
« con ông cháu cha trung ương đảng » và một số « đứng ngoài hệ thống sinh hoạt
bình thường », nhờ móc nối làm ăn với các giới chức gian manh của chế độ, có
một cuộc sống xa hoa dị thường. Họ bị nhiễm độc rất nặng và đấy là cái ung nhọt
tác hại sâu rộng lên sức sống vật thể, tinh thần của dân Việt nam. Đấy là những
thành phần sẽ tự hủy diệt có thể gây khó khăn cho công cuộc « dựng nước, bảo vệ
Tổ Quốc Việt nam » của những người có tâm huyết trong nước. Đặc biệt, của thế
hệ sinh sau 75 đang muốn tạo một chỗ đứng vinh dự trong cộng đồng thế giới.
*
*
* *
Những nhận định trên đây chỉ
có tính cách phiến diện. Sự thật, trong thế « toàn cầu hóa » hiện nay, trong
thập niên 90 vừa qua, toàn thể cộng đồng người Việt muốn đặt rõ vấn đề nhận
thức danh vị của mình và của đất nước Việt Nam. Do đấy, người Việt sống một tâm
trạng băn khoăn ray rứt khi nghĩ đến tương lai của chính mình và của đất nước.
Một phong trào dựng nước, cứu nước, giúp dân, cứu dân tộc, bảo vệ Tổ Quốc được
nẩy mầm và cụ thể hóa bằng tinh thần « trở về nguồn ». Trong chiều hướng này,
hạng thức giả và thế hệ trẻ trong nước đang tìm cách khuấy động một cuộc tranh
đấu cho Dân chủ, Tự do để tự cứu và giúp dân tộc, đất nước. Họ cần có sự tiếp
hơi, giúp sức của đồng bào ở hải ngoại. Về phía người Việt ở hải ngoại, sau hơn
một phần tư thế kỷ ly hương, ý thức « trở về nguồn » cũng đang rõ nét dần dần.
Nhưng trào lưu này tuy càng ngày càng rộng lớn, mạnh mẽ vẫn chưa gặt hái được
nhiều kết quả đáng kể. Vì hai lẽ :
- giới cầm quyền cộng sản,
mù quáng và ngoan cố, dùng đủ mọi thủ đoạn đàn áp, cưỡng bức, xuyên tạc, dối
trá để ngăn chặn trào lưu rộng lớn này. Họ chưa hiểu rằng việc dựng nước, cứu
dân tộc là phương thức độc nhất để họ tự giải cứu, để tránh một cuộc đổ vỡ rất
nguy hại có thể xẩy ra.
- về phía đồng bào ở hải
ngoại, việc tiếp dẫn hơi sức cho cuộc tranh đấu hợp lý hợp tình của giới trẻ
không đủ mạnh mẽ vì họ chưa hiểu được sự cần thiết và cấp bách của vấn đề này :
trong hiện tại, dân tộc Việt Nam là gì, những người Việt ở hải ngoại đang sống
lưu vong là ai ? Tương lai của Đất Nước Việt Nam sẽ như thế nào?
Vậy đâu là nguyên nhân của
sự hờ hững, dè dặt ấy?
Trên căn bản của một sự
nghiệm xét đứng đắn, với một tình thần trách nhiệm, không mặc cảm, không vị kỷ,
chúng ta hãy xét kỹ hai vấn đề then chốt hướng dẫn cuộc sống xã hội của
Con-Người : đấy là VĂN HÓA và GIÁO DỤC. Riêng đối với người Việt Nam, đấy là
hai vấn đề quyết định vận mệnh của 80 triệu con người đang bị xô đẩy vào một
trạng huống lịch sử bi phẫn rất đáng lo ngại và sống một tâm trạng hoang mang
rất cần phải giải quyết. Đã đến lúc, chúng ta phải nhìn thẳng mặt « sự thật » :
chúng ta đã và phải làm gì để tạo được phúc lợi vật chất, tinh thần cho chúng
ta, cho thế hệ đến sau ?
I- Nhận định
- Nước Việt Nam vẫn có mặt
trên bản đồ toàn cầu, đã thoát khỏi cảnh chiến tranh, đang tìm đến con đường
hạnh phúc tự do nhưng Việt Nam là vùng đất gây nhiều lo ngại cho sự an bình của
miền Đông Nam Á, nhưng đó là miền đất của những người dân không được sống an
bình. Người dân của một nước phải sống dưới một chế độ đảng trị, công an trị
không thể sống an bình. Người dân của một nước khi phải sống tha hương mà phải
chọn lựa tình trạng lưu vong cũng không thể sống an bình được. Tình trạng này
là nguyên nhân tạo thành cái tâm trạng ray rứt, buồn tủi cho những người Việt
còn thấy « mình là người Việt ». Tất nhiên nếu chúng ta là những người ấy,
chúng ta cần phải tìm cách tự giải thoát khỏi tâm trạng ấy để tránh khỏi rơi
vào một sự khủng hoảng tinh thần không phải là không nguy hại. Việc xét nghiệm
tâm trạng của người Việt trong hoàn cảnh hiện tại là một điều cần thiết, là một
bổn phận đối với những ai đứng vào hàng ngũ của những người biết suy nghĩ, muốn
tìm, muốn tạo một ý nghĩa xác thực cho cuộc đời của mình, muốn xác định một
trách nhiệm đối với Đất Nước của mình.
Cũng nên khẳng định ngay
rằng nó - việc xét nghiệm ấy - phải được xem là phần ưu tiên của chúng ta. Sở
dĩ chúng ta phải chấp nhận việc làm này như là một bổn phận vì chúng ta là
những kẻ ly hương, là những người đang sống ở ngoài Đất Nước Việt Nam nhưng không
chấp nhận tình trạng lưu vong. Hơn nữa, chúng ta được cái ưu thế nắm quyền tự
do tư tưởng, tự do ngôn luận mà đồng bào trong nước đã bị tước đoạt. Đã là
những người tự do thì chúng ta bắt buộc phải xử dụng cái quyền căn bản cao quí
ấy của Con-Người vì những suy nghĩ, những phẩm định, những chương trình, những
phương thức của mỗi người trong chúng ta không bị kềm kẹp, uốn nắn, đặt vào một
cái khuôn cứng rắn nào cả.
Nói như vậy để tìm cách nói
chuyện với hạng người đang sống cảnh ly hương nhưng không xem đấy là một cuộc
lưu vong, nghĩa là không biết, không hiểu thế nào là yêu nước, yêu Tổ quốc. Chữ
lưu vong đối với một số người này có một ý nghĩa rất mờ nhạt vì họ xem sự định
cư của họ ở xứ người, từ hơn nửa thế kỷ nay là một sự may mắn, là một thứ hạnh
phúc, may mắn vì họ được thoát khỏi cảnh ly loạn và sống an bình ở xứ người, hạnh
phúc vì không phải sống trong cuộc chiến tranh tương tàn khốc liệt đã gây ra
cảnh quốc phá gia vong hiện nay. Đối với họ không có vấn đề lưu vong cho nên
không lúc nào họ đặt vấn đề « yêu nước Việt Nam ». Đối với một số khác trong
hạng người này thì cuộc xa lìa xứ sở quê hương mà họ vừa phải làm
là một cuộc tránh né những khó khăn đã đổ ập lên đầu họ từ khi Việt Cọng áp đặt
chính thể độc tài đảng trị lên đất nước Việt Nam và hai chữ ly hương, đối với
họ là được ra nước ngoài, là thoát nạn, là tìm được nơi sống thoải mái, là được
hưởng một cuộc đời có nhiều bảo đảm vật chất, thoải mái tinh thần. Ly hương đối
với họ không bao giờ là một sự cay đắng phải « ăn nhờ ở đậu », là một sự buồn
tủi phải sống với danh vị « công dân hạng nhì ». Ly hương đối với hạng người
rất đông đảo này là một cuộc sống bình an, đầy đủ tiện nghi vật chất, là thành
công trong việc hội nhập vào cái xã hội mới đã dung dưỡng họ. Cho nên đối với
họ, không có vấn đề lưu vong. Và cũng không cần đặt vấn đề yêu nước Việt Nam và thân
phận của họ.
Cũng có thể hạng người này
vẫn nghĩ đến Đất Nước Việt Nam nhưng họ « làm » những chuyến về thăm
quê hương để tìm lại hương vị của những thức ăn Việt Nam đã được nếm ngày
còn thơ ấu, « làm » những cuộc tham quan xứ sở Việt Nam như những du khách hiếu
kỳ. Cũng có thể họ tỏ lòng yêu nước bằng cách tỏ lòng xót xa những người thân
thuộc đang sống trong cảnh thiếu thốn, cơ cực, hay tìm cách giúp đỡ đồng bào
khi có thiên tai, hay đóng góp công của cho các tổ chức từ thiện, các cơ quan
nhân đạo. Làm như vậy họ cảm thấy yên lòng lắm rồi; đôi khi họ còn tỏ ra rất
hãnh diện với kiểu yêu nước cụ thể này nhưng họ không hề biết đến đời sống, tâm
trạng thực sự của người dân Việt đồng bào của họ.
Kiểu yêu nước này không được
hạng người có những tư tưởng sâu sắc hơn về Đất Nước, Dân Tộc, Tổ Quốc Việt Nam hưởng ứng.
Trong tâm trí của một số người Việt ở hải ngoại thực sự ưu ái Đất Nước, có một
thời kỳ hai chữ « yêu nước » mang một ý nghĩa nếu không xấu xa thì cũng lố
bịch. Họ không thể chấp nhận sự gán ghép hai chữ cao quí thiêng liêng « yêu
nước » vào những danh hiệu do Cách mạng Việt Cọng đặt ra sau này : Trí thức yêu
nước, Phật giáo yêu nước, Công giáo yêu nước v.v. Đối với họ, tình yêu thiêng
liêng đối với Tổ Quốc Giang sơn không ai có quyền đem ra cưỡng hiếp để dùng làm
chiêu bài cho manh tâm lừa bịp dân chúng như chính quyền cộng sản đã làm. Đối
với thành phần thứ ba này, tinh thần yêu nước phải cao quí hơn vì nó đồng
nghĩa với Tình yêu Dân tộc, Tình yêu Tổ Quốc. Nhiều - rất nhiều, quá nhiều ! -
tổ chức, hội đoàn, hiệp hội, phong trào đã thành hình, kết nạp rất nhiều « đồng
chí » với mục đích hoạch định những phương thức để cụ-thể-hóa lòng yêu nước,
nói trắng ra là « làm một cái gì » có thể tạo phúc lợi cho dân tộc, cho đất
nước Việt Nam. Đã có những phong trào phục quốc, đã có những tổ chức « chuyển
lửa về Quê hương », đã có vô số phương thức bài Cọng, chống Cọng, đấu tranh dân
chủ, tự do cho người dân Việt trong nước được đưa ra. Nhưng, hầu như trong tâm
trí của mọi người, ý niệm yêu nước rất mơ hồ, những chữ Dân tộc, Tổ quốc không
có một ấn tượng chính xác, rõ rệt lắm, vì vậy, những nguyên tắc căn bản của họ
cách biệt nhau và lập trường này thường chống lập trường kia : người chống cọng
cực đoan không hiểu được người có tinh thần hòa hợp, người có khuynh hướng ôn
hòa cũng mỉa mai nghi ngờ những người có tinh thần hòa giải. Việc « đến với
nhau, ngồi lại với nhau » để làm một cái gì cho phúc lợi của Đất Nước, Tổ Quốc
Việt Nam
luôn luôn bị những định kiến, tinh thần cố chấp ngăn cản. Rốt cuộc, tinh thần
yêu nước bị lãng quên, mục đích cao quí « phải làm một cái gì cho Đất Nước » bị
xuyên tạc, bị nghi ngờ và đã có không biết bao nhiêu công cuộc bị tan rã.
Đối với một số thức giả
trong nước, « tình trạng yêu nước » cũng không sáng sủa hơn bao nhiêu : « yêu
nước » trước kia, là nợ nước, là bảo vệ cái nơi gọi là « nam quốc sơn hà » của
« nam đế cư ». Yêu nước là trả một món nợ, được no cơm ấm áo nhờ ơn mưa móc của
Vua và triều thần. Khởi thủy, đấy là việc cứu nước, chống ngoại xâm qua
các triều đại độc lập Lê, Trần, Nguyễn. Về sau, trong thời kỳ Pháp đô hộ, yêu
nước là chống lại chính quyền ngoại bang thực dân, là giải thoát đất nước, dân
tộc khỏi vòng nô lệ. Yêu nước - được gọi là ái quốc - vẫn còn là việc làm dành
riêng cho giới nho sĩ trung quân thuộc giai cấp cầm quyền và một số chí sĩ cách
mạng có tinh thần quốc gia. Tiếp theo đấy, sau khi những thành phần yêu nước «
quốc gia » đã bị loại trừ, trong ba mươi năm chiến tranh đánh Pháp, đuổi Mỹ thì
yêu nước đối với những người cầm quyền mới là yêu lý tưởng cộng sản với quyết
tâm thiết lập chính quyền vô sản. Yêu nước ngày nay, khi Đất nước Việt Nam đã thoát
khỏi cảnh chiến tranh, đối với đa số thức giả trong nước, nói chung là sự tỉnh
ngộ. Đảng và Nhà Nước Cộng sản dùng chánh sách công an trị để bảo vệ địa vị của
một nhóm người muốn vinh thân phì gia kiểu mới, không đếm xỉa gì đến quyền lợi
của những người đã góp công vào « sự nghiệp cách mạng ». Những người này là
những người đã suốt đời chiến đấu với lý tưởng tốt đẹp « vì dân vì nước » nhưng
hiện nay, khi cách mạng thành công rồi thì họ bị Đảng lừa dối, trù dập. Họ phải
tỉnh ngộ để tự cứu. Sự tỉnh ngộ xui dục số thức giả này quyết tâm đòi hỏi tự
do, dân chủ, chủ yếu là phá tan chính sách đảng trị đàn áp, bóp nghẹt tự do,
ngôn luận của chính quyền. Thật ra, bàn về phúc lợi của người dân, của Đất Nước
chưa phải là mối bận tâm hàng đầu của họ. Đặt rõ vấn đề giá trị của nước Việt Nam, của con
người Việt, vấn đề vị thế của nước Việt trong khuôn khổ toàn cầu hóa hiện đại
chưa phải là mục tiêu tranh đấu của họ. Không lúc nào họ thật lòng đặt rõ vấn
đề « yêu nước » như một nhu cầu cấp bách hiện nay để cùng với đồng bào của họ -
ở ngoài nước cho nên có nhiều lợi thế hơn - tiếp tay nhau trong
công cuộc tái lập sự phồn vinh cho đất nước, xây dựng tinh thần dân tộc để người
Việt khỏi có mặc cảm thua kém bên cạnh các sắc dân của các nước láng giềng và
trên thế giới. Tâm trí bị ám ảnh bởi sự « muốn nổi loạn » làm cho giới thức
thời trong nước không đặt rõ, đúng cách vấn đề yêu nước được.
Như vậy, cuộc tự vấn lương
tâm này sẽ dẫn chúng ta đến kết luận : lòng yêu nước là phải biết bảo vệ
đất nước, là phải có lòng tự hào về nòi giống, nói cách khác, rõ hơn là phải
hết lòng tôn vinh Tổ Quốc Việt Nam.
Và Tổ Quốc là gì ? Không ai
phủ nhận được nghĩa từ nguyên của hai chữ này. Tổ quốc hay patria cũng đều có
cái nghĩa chính xác khẳng định : đấy là mảnh đất (quốc) do ông cha (tổ tiên) để
lại, là nơi một giống người đã sinh sống, đã có một lịch sử, đã tạo cho nhau
một lối sống với những tập tục, những đạo lý riêng biệt. Vì vậy, dù sinh sống ở
đâu, ngoài mảnh đất ấy, con người vẫn nghĩ đến Tổ quốc của mình để được yên
lòng : « Tôi sống ở đất nước, xứ sở của anh nhưng tôi có tổ quốc của tôi ».
Không có mối đau thương nào lớn bằng tâm trạng thua kém của những kẻ bị liệt
vào hạng « vô tổ quốc ». Những người Việt lưu vong khi mượn lời của Gustave
Flaubert, của Ciceron để quả quyết rằng « tổ quốc là nơi mình sinh sống an
lành, ubi bene ibi patria » chỉ tìm cách tự lừa dối, che dấu một sự chán nản,
một mối bất lực trong ý muốn « trở về nguồn », giữa cảnh thất thế sa cơ của họ
ở xứ người, mặc dù trong thâm tâm, họ chưa bao giờ chấp nhận chủ trương vô gia
đình, vô tổ quốc của những người cộng sản tranh đấu cho một thế giới đại đồng …
không-tưởng.
Vậy xin khẳng định : yêu Tổ
quốc, là thiết tha với cái linh hồn của mảnh đất của ông cha đã gầy dựng, bồi
đắp cho mình, của nơi mình đã chào đời, đã lớn lên, nơi đã tạo mình thành một
con người với cách cảm nhận vui buồn yêu ghét riêng biệt ; yêu Tố Quốc là yêu
cái nguồn gốc, giòng giống của mình, là biết tự hào với « con người thật của
mình ». Yêu nước, yêu Tổ Quốc còn có cái ý nghĩa giản dị là yêu thứ ngôn ngữ mẹ
dùng để ru ta từ lúc nằm nôi, là không ngượng với màu da không trắng, là không
buồn vì cái mũi không lõ, là hãnh diện với mái tóc không dợn sóng, là yêu cả
hương vị của hạt cơm, của nước mắm, nhất là thấy cần bảo vệ cái niềm vui khi có
những người ngoại quốc mê thích đất nước Việt, con người Việt.
II - Vấn đề văn hóa-
Đến đây, xin mời các Bạn
bước sang chủ đề của bài viết này : Tại sao chúng ta phải đặt rõ vấn đề yêu
nước, yêu Tổ Quốc ? Đấy là cách giản dị nhất để xác định lại giá trị của nền
VĂN HÓA chính thống Việt Nam.
Chúng ta phải tự hào với nền văn hóa của ta thì chúng ta mới hết lòng yêu nước,
mới thiết tha đến mảnh đất quê hương, mới nghĩ đến phúc lợi của người dân Việt.
Chúng ta phải yêu nước, yêu Tổ Quốc Việt Nam vì tất cả những thứ ấy là của
ta, vì nhờ có những thứ ấy mà ta mới thật là ta. Vì là của ta cho nên phải
hiểu, phải biết tính cách chính thống của Văn hóa Việt Nam. Văn hóa
Việt Nam được xem là chính thống khi nó xác định được những nét đặc thù của nó,
khi nó được dùng để xác định con người Việt Nam, con người Việt Nam với những
cái xấu xí, với những cao quí của nó.
Cũng xin đặt nguyên tắc
trước: Việc xác định giá trị văn hóa Việt nam không nên, không cần trải qua
những tranh luận về nguồn gốc con Rồng cháu Tiên, về giống dân Giao Chỉ, về
huyền sử Hùng Vương. Dù cho gốc gác dân Việt Nam là người Tàu, dù cho văn minh
Việt Nam là văn minh lai căn Tàu, dù cho đạo lý Việt Nam là sản phẩm của tinh
thần tam giáo đồng nguyên, dù cho văn hóa Việt Nam chịu ảnh hưởng văn minh Tàu
đến 70%, hay bị Âu Tây hóa rất sâu đậm, con người chính thống Việt Nam cũng đã
và vẫn biết bảo vệ, bồi dưỡng, kiến tạo một nền văn hóa Việt Nam với những nét
đặc thù của nó. Dân tộc Việt Nam thạo việc trồng lúa, thích ăn cơm, biết dùng
đũa, có lối phục sức riêng, có tiếng nói riêng, có những nguyên tắc thẩm mỹ,
hướng thiện riêng, rất hãnh diện với « đạo » tôn thờ Tổ tiên, không có mặc cảm
gì với « thói » kỳ thị chủng tộc của mình (nặng nề hơn bất cứ giống dân nào thế
giới ! ). Ngoài ra, phải nhắc đến cái lợi khí này của dân tộc Việt Nam : tất cả những luồng văn hóa du nhập vào
nước ta đều được biến cải cho hợp với tâm lý, tâm linh Việt Nam, đều được
Việt hóa. Và chúng ta không nên, không được nghĩ rằng vì vậy mà văn hóa Việt Nam dở, không
đáng để cho ta trân trọng, tôn vinh. Chẳng lẽ vì văn hóa chính thống của mình
có những cái dở - văn hóa nào chẳng vậy ? - , chẳng lẽ vì con người chính gốc
của mình có những cái xấu xí - văn minh nào cũng vậy - cho nên mình phải bài
bác nó hoặc phủ nhận giá trị của nó ? Chẳng lẽ vì mình đã may mắn « học » được
những cái hay cái tốt của nền văn hóa Âu Mỹ, chẳng lẽ vì nền văn hóa Việt Nam
ấy bị xuyên tạc, bị uốn nắn lại cho hợp với chủ thuyết cộng sản không tưởng cho
nên mình phải tiếp sức nhau, thẳng tay hủy diệt nó ?
Xin trở về với định nghĩa
của « văn hóa » : văn hóa là toàn bộ sự hiểu biết của con-người tích lũy được
trong thời gian sinh hoạt hằng ngày, đúc kết lại thành các giá trị và chuẩn mực
xã hội. Nói cách khác văn hóa là hệ giá trị xã hội gồm có lịch sử và di sản
tinh thần của một dân tộc, của một xã hội. Nó phải được xem là hồn dân tộc, dân
tộc với những nét đặc thù, với cái xấu xí, cái tốt đẹp riêng biệt của nó. Cho
nên, xác định rằng người Việt có một nền văn hóa chính thống là để hòa giải với
Tổ Quốc, với chính mình. Trân trọng văn hóa của mình, tôn vinh văn hóa của mình
không có gì là bất thường là lố bịch cả. Trái lại chúng ta phải trân trọng nó
bằng cách tô điểm, bồi đắp, chấn chỉnh nó để tỏ lòng tự hào dân tộc, để ăn năn
về cái tội không biết đến Tổ Quốc, để hối cải về cái lỗi không biết yêu đất
nước của mình. Trân trọng nền văn hóa chính thống Việt Nam, yêu Tổ Quốc, giống
nòi là một bổn phận hàng đầu, là căn bản của mọi tư tưởng liên quan đến sự sống
còn của dân tộc Việt Nam, là vấn đề then chốt trong công cuộc dựng nước Việt
Nam phù hợp với cái thế toàn-cầu-hóa hiện nay.
Trên căn bản sự luận bàn
này, chúng ta hãy bình tĩnh, sáng suốt nghiệm xét ảnh hưởng sâu rộng của nền
văn hóa Âu Mỹ đối với lớp trí thức Việt Nam ở hải ngoại. Bên Pháp, hạng «
trí thức » này, nói một cách rộng rãi, gồm có những người lính thợ (ONS) đã hội
nhập được với xã hội Pháp và những sinh viên đi du học, kể luôn cả những loại
công chức ở Miền Nam Việt nam đã định cư ở nước này từ những thập niên 40, 50,
là những người trực tiếp cảm nhận văn hóa Âu Tây. Hậu quả của việc tiếp thu nền
văn hóa Pháp và Âu Tây của họ, ngoài những kiến thức khoa học kỹ thuật để dùng
vào việc tạo dựng một chỗ đứng tốt trong xã hội, họ đã biết thế nào là bình
đẳng, tự do, dân chủ. Những món ăn tinh thần mới này được nhấm nháp giữa giới
sinh viên, với một trí thức khuynh tả. Và họ rất tự hào với danh vị « trí
thức tiến bộ ». Để làm gì cho Đất Nước, cho Tổ Quốc ? Toàn bộ những giá trị của
nền văn hóa chính thống Việt Nam
- mà phần lớn không được học, không nắm vững ý nghĩa của nó - bị họ nghi ngờ,
bài bác, chế riễu. Lòng yêu nước của họ chỉ được nuôi dưỡng qua sự thèm nhớ
những món ăn đã nếm lúc ấu thơ, qua những kỷ niệm đẹp ngời của những ngày mới
lớn, không thể nào có đủ sức nặng để khống chế thói « phù ngoại » (cái gì của
Tàu, của Tây, của Mỹ cũng hay, cái gì lạ « thoát ly khỏi những lối mòn quen
thuộc » cũng tốt) trầm kha của giới trí thức khuynh tả được. Nhất là khi thói
phù ngoại ấy được củng cố bởi tinh thần « ham bắt chước » cố hữu của người
Việt. Nhất là khi họ chưa phải chia xẻ đau khổ với Mẹ Việt Nam bao giờ.
Bước vào thiên niên kỷ thứ
Ba này, người Việt ở nước ngoài đã thấm nhuần được cái gì của nền văn hóa tiến
bộ Âu Mỹ ? Nói rõ hơn, cái cộng đồng gồm có gần ba triệu người Việt Nam ly
hương trong ấy có non ba trăm ngàn thanh niên Việt Nam thành công vượt bực ở «
xứ-người », cái cộng đồng ấy đã dùng những kiến thức khoa học kỹ thuật của
mình, những hiểu biết về tự do dân chủ vào việc tạo dựng phúc lợi của Đất Nước
chưa? Ít nhất, trong tinh thần « trở về nguồn » đang sôi nổi hiện nay, họ đã
đem cái gì hay, tốt trong nền văn hóa Âu Mỹ để bồi dưỡng nền văn hóa chính
thống Việt Nam chưa? Rất tiếc là tinh thần bài xích, lố bịch hóa văn hóa Việt
Nam, con người Việt Nam dường như xúi dục họ muốn binh vực những cái tự do độc
hại đã gây ra những vụ bạo động gây xáo trộn trật tự xã hội, những tập tục dân
chủ lệch lạc đã tạo nên những trường hợp gia đình tan rã, học đường, xí nghiệp
bị xáo trộn, không khí tâm linh bị lạc hướng rất bi thảm. Trong khi những giá
trị tự do, dân chủ đang được các nước Âu Mỹ đem ra nghiệm xét lại thì một số
rất đông của hạng trí thức này vẫn bám víu vào những « thứ ấy » để sống, để bảo
vệ tinh thần tiến bộ của họ. Vấn đề giá trị của nền văn hóa Việt Nam, bảo vệ
nét đặc thù của con người Việt, ý thức về Tổ Quốc Việt Nam không lúc nào là mối
ưu tư của họ vì họ xem đấy là một vấn đề vô bổ, không thiết thực, nhất là lỗi
thời, phản tiến bộ. Thái độ này sẽ di hại vô cùng cho thế hệ mai sau (con em,
cháu chắt của họ) của người dân Việt trong khuôn khổ giáo dục mà chúng ta bàn
đến sau đây.
Chim có tổ, người có tông,
nhưng chim cần phải bay khỏi tổ để tìm mồi về nuôi con, người phải thấy xa nhìn
rộng để kịp tiến hóa với người. Vậy « cái » phần tinh hoa của văn hóa Việt nam
cần được phát hiện, biểu dương, chuyển trao nằm ở chỗ nào ? Xin dùng một giải
đáp giản dị, tiện ích nhất : đấy là tinh thần kính trên nhường dưới và yêu quí
Trời. Kính trên nhường dưới không phải là bị trói buộc, làm nô lệ cho đạo trung
hiếu, tam tòng. Kính trên nhường là biết nghe, biết trọng người khác để có sự
thuận hòa trong cuộc sống chung gia đình, xã hội. Tại sao yêu quí Trời ? Con
người Việt Nam
quan niệm sống là nhờ Trời. Được lộc Trời cũng như chịu cảnh thiên tai đều nằm
trong lẽ tuần hoàn tự nhiên của Đất Trời. Sinh vật Người phải biết yêu quí Trời
thì mới tìm thấy được an bình trong cuộc sống xã hội và thiên nhiên.
Con người Việt dùng nguyên
tắc « biết quí trọng nhau – tương kỉnh » và « tôn quí thần linh – tri ân » để
sống ở đời, hòa hợp với người và thoải mái cho mình. Ý thức được những nguyên
lý ấy sẽ giúp chúng ta yên lòng chuyển trao văn hóa lại cho những thế hệ sẽ
đến. Phải ý thức được những nguyên lý ấy thì việc dung nạp những cái hay của
các nền văn hóa mới Âu Mỹ (để làm cho nền văn hóa chính thống Việt Nam được khởi
sắc) sẽ không bị lệch hướng lạc đường. Và quan trọng hơn cả là để bồi dưỡng
được Tình yêu Dân tộc và Đất Nước, Tổ Quốc của chính chúng
ta.
III - Vấn đề giáo dục
-
Công việc triển khai
tinh thần trân trọng văn hóa Việt Nam dẫn chúng ta đến mục đích khởi động ý
thức yêu nước, yêu Tổ Quốc Việt Nam và ý thức « trở về nguồn » của những người
cảm thấy mình là người Việt, còn là người Việt, vẫn là người Việt. Và nói khởi
động tức là đặt vấn đề GIÁO DỤC vì giáo dục có cái mục đích rõ rệt : hướng dẫn
sự hiểu biết, định hướng sự học hỏi, kể luôn cả việc bồi dưỡng sự hiểu biết.
Nói rõ hơn khi khởi động tinh thần trân trọng văn hóa Việt Nam, chúng ta phải
nghĩ đến phương thức giáo dục, nghĩa là giải thích cho mọi người, quảng bá đến
mọi người ý nghĩa, giá trị của tinh thần « trở về nguồn », của tinh thần yêu Tổ
Quốc, Đất Nước Việt Nam. Cũng để nhận định rõ hơn nữa, việc giáo dục phải bao
gồm cả việc dạy dỗ người khác lẫn việc trau dồi sự hiểu biết của chính mình.
Trên tinh thần đứng đắn «
trở về nguồn », trở về với giá trị của Văn hóa Việt Nam, của con người Việt, trong
khuôn khổ thực hiện việc giúp nước, giúp dân, việc giáo dục phải đặt trên những
nguyên tắc căn bản sau đây :
- chuyển trao giá trị nào
của văn hóa Việt Nam
- ai có quyền chuyển trao
hay ai có bổn phận « làm thầy »
1-
Chuyển trao giá trị nào của văn hóa Việt Nam ?
Xin đặt rõ vấn đề : Cái văn
hóa cần xác định để việc chuyển trao, quảng bá văn hóa (giáo dục) được hợp lý
là văn hóa gì, văn hóa nào ?
Người Việt Nam, thế hệ « già
» cũng giống thế hệ « trẻ » (xin mỗi người tự xếp hạng lấy) cùng có một mối băn
khoăn : dân tộc Việt Nam, văn hóa Việt Nam có những giá trị nào để, dựa vào
đấy, chúng ta đặt vấn đề bảo tồn, vinh danh văn hóa Việt Nam ? Để đánh giá dân
tộc Việt Nam,
người ngoại quốc - là những người ngoại cuộc – và ngay chính bản thân người
Việt đều đồng thuận là nguời Việt có cái đáng-yêu và có cái xấu-xí. Cái nào
nhiều, cái nào ít, điều ấy không cần phải bàn luận dông dài vì nó là sự thật
đối với tất cả mọi dân tộc. Nhân vô thập toàn cho nên dân tộc cũng vậy. Điều
cần phải lo nghĩ là : trong cuộc sống chung – bình đẳng, hòa bình - với cộng
đồng thế giới, chúng ta có nên đặt vấn đề đặc tính của người Việt (->niềm tự
hào), nghĩa là giá trị của dân Việt (lòng tự tin) không ? Khi đã có những nhận
định chính xác, việc giáo dục trở thành vững chắc
hơn.
Trong toàn bộ tư tưởng học
thuật Việt nam, qua nền văn học dân gian với kho tàng ca dao, tục ngữ, chuyện
cổ tích, huyền sử, qua nền văn hóa bác học với những trước tác đủ loại bằng chữ
nôm, chứ hán, chữ quốc ngữ, chỉ có ba đặc điểm này đáng để chúng ta lưu tâm học
hỏi, bảo vệ, đáng làm cho chúng ta hãnh diện :
-
tinh thần dân chủ chính thống do chế độ mẫu hệ khởi thủy di truyền
-
tinh thần thực tiễn, nhân bản xây dựng trên nguyên tắc nam nữ bình quyền và địa
vị ưu thắng cổ truyền của người mẹ, người vợ
-
tinh thần yêu nước thương nòi phát sinh từ sự quyết tâm giữ gìn xóm làng, đất
nước, di sản của tổ tiên.
Những luận đề ấy sẽ
giúp chúng ta giải phẫu, xác định giá trị của nền văn hóa chính thống Việt Nam
để bảo vệ nó và chỉnh đốn nó cho hòa hợp với những tư tưởng dân chủ, tự do,
khoa học kỹ thuật tiến bộ Âu Mỹ được dung nạp.
Qua ngôn ngữ gốc Việt Nam,
qua những tập tục cổ xưa để lại, tinh thần dân chủ là một ý niệm mặc khởi do
việc tổ chức xã hội Việt Cổ, thời dân Giao Chỉ lập quốc ở cái vùng đất còn sũng
nước ở vùng hạ lưu sông Cái (Hồng hà). Đời sống định cư được ổn định nhờ biết
cách trồng lúa và dần dần phong phú nhờ sự phát triển của nghề nông. Chế độ gia
đình mẫu hệ thích hợp nhất cho xã hội thời đại lúc bấy giờ cho nên có sự phân
định công tác trong gia đình, bộ lạc.
Việc tạo phúc lợi cho gia
đình không chỉ là việc đồng áng mà vai chính là người đàn ông, người cha, người
chồng, nó cũng là trách nhiệm của người đàn bà vì họ là người mẹ. Ngay từ thời
đại ấy, người đàn ông phải giữ vai trò « xã hội » với những hoạt động săn bắn,
chài lưới, giao dịch để tăng thêm phúc lợi cho gia đình. Người đàn bà giữ vai
trò nội tướng, ngoài việc giữ thăng bằng cho đời sống vật chất lẫn sinh hoạt
gia đình tự nhiên phải đảm nhiệm việc nuôi nấng, dạy dỗ con cái. Vì gia đình là
nền móng của xã hội nông nghiệp nên tiếng nói của người phụ nữ, nếu bình thường
cũng được nghe, đôi khi còn có giá trị hơn ý kiến của người đàn ông (lệnh ông
không bằng cồng bà). Đấy là hình ảnh của nếp sống khởi thủy, sơ khai nặng dậm
nét dân chủ, nhân bản.
Trong thời kỳ này, tâm linh
của người Việt không bị một sức mạnh tinh thần nào khống chế cả. Người Việt chỉ
sợ, chỉ tin, chỉ yêu có mỗi một sức mạnh huyền bí, thiêng liêng đã điều hành
đời sống nông nghiệp của mình : đó là ông Trời. Người và vạn vật là những
nguyên tố trong vũ trụ được cấu tạo như nhau (đồng nhất thể) nên phải sống hài
hòa với nhau. Việc sinh tồn của cả đôi bên đều nhờ « ơn Trời » vì vậy chỉ cần
ăn ở « sao cho vừa lòng Trời » : đấy là điều kiện ắt có và đủ để có một
cuộc sống an bình. Tạo được cuộc sống an bình là tự cứu rỗi. Vậy không ai phải
tuân theo một chủ thuyết, giáo điều nào cả. Đấy là một tính chất rất đậm
nét tự do, dân chủ của văn hóa cổ truyền, chính thống Việt Nam : ai muốn
tôn thờ Trời kiểu nào cũng được. Tinh thần này giúp người dân Việt dung nạp dễ
dàng những đạo lý ngoại lai lúc bấy giờ như Phật giáo (tu để tự giải nghiệp,
đạt được Niết bàn), Nho giáo (tu thân nhằm mục đích hòa hợp ta và người, ta và
Trời), Đạo giáo (tự giải thoát khỏi những trói buộc của đạo lý
xã hội, trở về với cuộc sống tự nhiên trong thiên nhiên).
Lòng tin Trời, yêu Trời giúp cho người Việt-Cổ giải quyết rất ổn thỏa vấn đề
tâm linh khi ghép nó vào cuộc sống, vào sự sống của Con-Người. Tính chất nhân
bản này cũng giúp cho người Việt hiểu được dễ dàng lý tưởng nhân ái toàn cầu
của Thiên Chúa giáo.
- Nhưng, sau khi « giặc Tàu
» xâm chiếm, đô hộ nước ta trong hàng chục thế kỷ, tinh thần ấy bị suy thoái do
tội sùng thượng văn hóa Tàu, do tính sùng bái Khổng giáo của các triều vua dùng
sĩ phu làm trung thần. Đời sống tinh thần của người Việt, do đấy, bị xáo trộn
bởi những nguyên tắc lệch lạc tam cương ngũ thường, tam tòng tứ đức, trung quân
ái quốc, quân tử tiểu nhân « kiểu Tàu » và không còn dấu ấn của tinh thần dân
chủ thực sự nữa. Để xác định thế lực cầm quyền, để biện minh địa vị độc tôn của
giới nho sĩ, địa vị của người phụ nữ bị xuyên tạc, nếp sống tâm linh cũng trở
thành lệch lạc. Cũng may mắn cho chúng ta là trong ngôn ngữ, trong cách nhận
định địa vị, vai trò của người nam và người nữ, nét dân chủ, tính yêu tự do cổ
truyền vẫn bàng bạc trong ca dao, tục ngữ, trong tập tục giữa dân gian để việc
khởi động tinh thần dân tộc của chúng ta được dễ dàng hơn.
- Nhưng chủ thuyết duy vật
cộng sản, với quyết tâm thực hiện một thế giới đại đồng với những con người
không biết đến gia đình, tổ quốc, đã tạo một thế hệ với những « con người
xã hội chủ nghĩa » được mệnh danh là tiến bộ nhưng… phi nhân
bản.
Cũng may là có một đặc điểm
khác của nền văn hóa Việt Nam
giúp cho tinh thấn dân chủ và nhân bản không bị suy thoái, hủy diệt : đấy là
tinh thần bảo vệ tập tục cổ truyền, xóm làng đất nước. Những tập tục ấy là kết
tinh của tinh thần tri ân và tương kỉnh nói trên. Tâm hồn người Việt chính
thống cổ truyền tìm sự an bình cho đời sống bằng lòng tri ân : nhờ ơn Trời đã
mưa xuống mà việc cày bừa được dễ dàng, để có bát cơm đầy, nhờ ơn cha mẹ tổ
tiên, tiền nhân mới có được đất nước, giang sơn, nhờ ơn bà con, bạn bè đã giúp
đỡ mình trong lúc hoạn nạn. Công cha, nghĩa mẹ, của chồng công vợ, tình bà con,
nghĩa láng giềng là những cái phao tâm linh để con người Việt chính thống tìm
đến cuộc sống hài hòa trên đất nước của mình. Muốn bảo vệ cuộc sống hài hòa ấy
thì phải hết lòng bảo vệ xóm làng, thì phải bảo vệ giá trị của người nông phu,
phải tôn quí người mẹ, người vợ. Chỉ có văn hóa Việt Nam, với tinh thần bảo vệ
xóm làng đất nước mới có cái tâm lý độc đáo phép vua thua lệ làng (phải tự giải
quyết những tranh chấp nội bộ), giặc đến nhà đàn bà phải đánh chứ đừng tin
tưởng quá mấy ông nho sĩ dài lưng tốn vải ăn no lại nằm, chỉ bàn suông chuyện
lý thuyết.
Ba đặc điểm này của văn hóa
Việt Nam sẽ là tiêu chuẩn được dùng trong việc thu nạp văn hóa Âu Mỹ mà người
Việt đã phải làm từ lúc tiếp xúc với các nước Phuơng Tây, từ thế kỷ thứ 16.
Những tư tưởng tự do dân chủ, giá trị của khoa học kỹ thuật không phải là những
điều người Việt mới khám phá. Sự xung đột giữa văn hóa cũ và mới, qua những
cuộc tranh luận nhiều khi rất gay gắt về giá trị của mỗi nền văn hóa, đã xẩy ra
từ đầu thế kỷ 20. Kết quả là sự thắng trận của văn hóa mới : người Việt – dân
xứ nóng – dùng âu phục trong các buổi lễ lạc, hội hè và phải « đóng bộ » (mang
dày kín chân, mặc quần tây vải dày, choàng veste ra ngoài hai lớp áo lót và
sơ-mi, cổ thắt cà-vạt), dùng một thứ ngôn ngữ « ba rọi » (60% tiếng Pháp pha vào
câu nói tiếng Việt), thích ăn thịt bò bíp-tếch, uống rượu vang , rượu mùi v.v….
Trong văn chương, tinh thần tự do, phóng túng, lãng mạn, yêu cuồng sống vội
được dùng làm đề tài chính, mẫu mực cho tinh thần « đổi mới ». Trước kia, cái
gì của Tàu đều tốt, hay, sang. Trong một thời kỳ dài từ cuối thế kỷ 19 đến thập
niên 30, 40, cái gì của Tây đều phải bắt chước cho giống : từ mái tóc đến cách
phục sứ, từ đời sống riêng tư « thân mật » đến lề lối xã giao… Trong hoàn cảnh
hiện đại, văn hóa Âu Mỹ tiếp tục biến đổi sâu rộng cuộc sống xã hội của người
Việt đã đành, còn tạo sự nghi ngờ giá trị của nền văn hóa chính thống cổ truyền
Việt Nam. Những giá trị của tinh thần tự do dân chủ lệch lạc, quá khích được
đem áp dụng vào lối sống, cách suy nghĩ của người Việt Nam « mới » và
bất cứ những gì liên quan đến tập tục cổ truyền Việt nam đều bị bài bác, chế
riễu để từ bỏ.
Một nhóm rất nhỏ chuyên gia,
khoa học gia, đứng đắn hơn, chủ trương đem tinh thần khoa học thực tiễn vào
việc xét nghiệm giá trị của nền văn hóa cổ truyền Việt Nam, trong khuôn khổ «
trở về nguồn ». Đấy là một công cuộc đòi hỏi nhiều thiện chí, kiến văn, thời
gian. Tuy việc làm bổ ích của họ chưa tạo được ảnh hưởng sâu rộng vì gặp phải
sự lạnh nhạt của loại người « trẻ » đã nói đến trên kia nhưng dù sao vấn đề giá
trị của nền văn hóa Việt Nam cũng được đặt ra để đem chuyển trao cho các
thế hệ sẽ đến.
2- Quyền, bổn
phận chuyển trao hiểu biết (ai được quyền làm thầy ? - ai dạy ai ?)
Hiện nay, đặc biệt đối với
Việt Nam, như trên đã xét nghiệm, tinh thần Yêu nước, Yêu Tổ quốc là một ý thức
rất lỏng lẻo, mờ nhạt. Việc dùng văn hóa để thức tỉnh tinh thần ấy đã không
phải là việc dễ dàng rồi, ngoài ra, lại còn gặp phải một vấn đề khúc chiết nữa
: phương thức chuyển trao nó cho thế hệ mai sau, nghĩa là làm cách nào để
chuyển trao và ai có bổn phận chuyển trao ?
Thông thường, giáo dục là
đem truyền đạt toàn bộ những kiến văn mà con-người thâu nhận được của văn hóa
cho người khác, thông thường là cho lớp người đến sau (con em, cháu chắt) hay
đặc biệt cho những người không được cảm nhận văn hóa một cách tự nhiên (như
trường hợp những giới sống cách rời khỏi quê-mẹ của họ). Do đấy, hàng phụ
huynh, bậc trưởng thượng, là những người đã trực tiếp thâu nhận nền văn hóa cổ
truyền chính thống gồm có những tập tục, những học thuật đã xây đắp nền văn hóa
cổ truyền. Mặc nhiên, họ đảm trách công việc giáo dục. Nhưng việc giáo dục ngày
xưa đặt nguyên tắc vững chãi, tiên quyết trên sự « làm gương ». Việc giáo dục
theo phương thức cổ truyền được áp dụng trong lời ăn tiếng nói, trong cách đứng
ngồi : đấy là hình tượng của phép tắc lễ nghi, của đạo làm người trong xã hội
và trời đất mà « người xưa » chuyển trao lại cho người đến sau. Đấy là những
giá trị tinh thần, đấy là phần tinh hoa của văn hóa Việt Nam mà những
bậc trưởng thượng và giới phu huynh ngày trước truyền đạt lại cho lớp hậu duệ
của họ.
Nhưng thời thế đã thay đổi
nhiều lần, phương thức ấy, những giá trị ấy trở thành bất ứng. Ngày nay, ngay
trong đời sống hằng ngày, « sự » đi thưa về trình là một sự xúc phạm tự do, phép
gọi dạ bảo vâng cũng bị xem là phản dân chủ. Cả một hệ thống tư tưởng cổ truyền
bị đánh giá là lạc hậu, hơn nữa nặng tính chất phong kiến. Thêm vào đấy, rất
nhiều những « bậc trên » không muốn biết đến cái cần thiết, cái « chẳng đặng
đừng » của sự tiến hóa. Do đấy họ nghĩ là danh vị giáo dục viên của họ bị xúc
phạm. Cuộc tranh chấp mới cũ nhiều khi nổ bùng và việc giáo dục bị tẩy trừ và
mạnh ai nấy sống … trong bất mãn, với rất nhiều sầu lo ! Đấy là vấn đề cần xét
lại để việc giáo dục được hợp lý và thích ứng.
IV- Kết luận
Qua nhận xét trên, có hai
vấn đề phải giải quyết : phương thức và vai trò của giáo dục cần phải được xét
nghiệm lại một cách thành thật thông minh hơn. Cộng đồng người Việt ngày nay là
một nhóm người hỗn tạp và phức tạp, không quen tìm đến sự nhất trí đồng
tâm.
Ở trong nước, vấn đề ổn định
lại cuộc sống vật chất và tinh thần làm cho việc giáo dục, việc khởi động ý
thức cứu nước, cứu dân trở thành thứ yếu, mờ nhạt. Tệ hại hơn, con người
Việt « xã hội chủ nghĩa » chỉ là một sinh vật chạy đuổi theo sự sinh tồn, không
còn là một con người dám ý thức danh vị người của mình. Tâm trí của họ luôn
luôn bị ám ảnh bởi nỗi lo sợ bị gọi ra « làm việc » với công an nên chỉ muốn
được yên thân. Họ thành khẩn tránh né việc bàn luận về văn hóa, về ý thức
dân tộc, đất nước. Và họ phó mặc việc giáo dục (trồng người) cho Đảng và Nhà
Nước. Những trường hợp tranh cãi, ẩu đả giữa vợ chồng, cha mẹ con cái rất dễ
xẩy ra do sự thiếu vắng giáo dục với nghĩa chính thống của nó. Tâm lý đầu hàng
chấp nhận không làm cho họ sáng suốt tìm cách tháo gỡ những ràng buộc vào một
chế độ phi nhân bản huỷ hoại tâm linh của họ !
Ở hải ngoại, việc giáo dục
gặp phải vấn đề gần như nan giải này : danh vị giáo dục viên của những bậc
trưởng thượng như ông bà cha mẹ, ông già bà cả kể luôn cả thầy cô ở trường học
không còn giữ được ưu thế nữa. Một phần vì những giáo dục viên ấy quen được
vâng lời, được quí trọng nên vẫn tưởng rằng những gì họ làm, những gì họ nói
vẫn được xem là khuôn vàng thước ngọc. Khi bỗng nhiên họ thấy con cháu làm
những điều họ chưa bao giờ làm, nói những lời chưa bao giờ họ nói, phản ứng của
họ là la rầy, quở trách để kéo chúng nó về đường ngay nẻo chính. Đấy là mầm
mống đầu tiên của sự rạn nứt, của sự xung đột giữa hai thế hệ cũ và mới. Tinh
thần cố chấp của những « người già » đã không những không giúp họ truyền đạt
lại những điều hay lẽ phải cho con cháu còn tạo ra một hố chia rẽ giữa hai thế
hệ, làm tổn thương lòng kính nể, gây tổn hại cho tình hòa ái trong gia đ ình,
ngoài xã hội. Lỗi này không phải riêng của họ. Về phía những « người trẻ »
những tập quán mới Âu Mỹ thâu nạp được ở nhà trường, trong sở làm, trong sự
giao dịch thường thoải mái tự do hơn vì phép tắc không khe khắt bằng, lề lối ít
rườm rà hơn. Cho nên họ không muốn chấp nhận những nguyên tắc đạo lý cũ nữa. Và
sự phản kháng của họ có khi trở thành một cuộc bùng nổ, nổi loạn. Và việc giáo
dục, việc khởi động tinh thần « trở về nguồn » bị loại trừ.
Nguyên nhân chính của sự
thất bại này là mối giây ràng buộc với những giá trị của nền văn hóa cổ truyền
quá lỏng lẻo, việc giáo dục không được đặt cho đúng cách. Thêm vào đấy là sự
đầu hàng, buông xuôi của những người có trách nhiệm giáo dục. Vậy vấn đề chính
yếu cần được đặt ra chỉ là vấn đề giáo dục, vấn đề khởi động lòng yêu Tổ Quốc
Việt Nam.
Biết yêu Tổ Quốc là biết trân trọng nền văn hóa của mình, hãnh diện với nguồn
gốc giòng giống của mình để có thể sánh vai với những dân tộc khác trên thế
giới trong công cuộc kiến tạo hòa bình, thịnh vượng của toàn cầu.
Muốn thực hiện được hoài bão
ấy, điều kiện ắt có và đủ là mỗi người trong chúng ta, hạng « người già » cũng
như « giới trẻ tuổi », đều phải thành tâm tự vấn lương tâm, tự đặt lại vấn đề
để thực hiện một cuộc cách mạng bản thân. Công cuộc dựng nước cứu dân không cho
phép chúng ta có tinh thần tự kiêu tự mãn, cố chấp hẹp hòi. Chúng ta phải từ bỏ
tinh thần bè phái chủ quan và thói quen chuộng nhàn, vị kỷ. Chúng ta phải có
tinh thần trách nhiệm, hướng thiện mới có thể tự giải thoát khỏi cái tâm lý bi
quan yếm thế của những người chưa bắt tay vào việc đã nghĩ là không đi đến đâu,
thất bại là cái chắc.
Làm một cuộc cách mạng bản thân là phương
thức duy nhất giúp chúng ta tự cứu để có thể thực hiện công cuộc cứu dân, dựng
nước, bảo vệ Tổ Quốc.