Lòng dũng cảm của Đức Tổng Giám Mục
Philipphê Nguyễn Kim Điền
Lm.
Augustinô Hồ Văn Quý
Năm 1981, trong chuyến viếng thăm “Ad limina”
của các Giám mục Việt Nam, khi tiếp kiến các Giám mục, Đức Thánh Cha
Gioan-Phaolô II đã gọi Đức Cha Nguyễn Kim Điền là “vị Tổng Giám mục dũng cảm”
(le vaillant Archevêque). Danh hiệu này đã làm chính quyền cộng sản Việt Nam càng
quyết tâm triệt hạ cho kỳ được Đức Tổng Nguyễn Kim Điền.
Nhưng những người biết rõ Đức Tổng đều không
lạ gì: tự bản chất ngài không có gì là
“dũng cảm”; ngài luôn tránh đối đầu, bao giờ cũng chờ chực những dấu hiệu thiện
chí nhỏ nhặt nhất của nhà cầm quyền để tỏ thái độ nhân nhượng. Đặc biệt ngài bị
ám ảnh bởi nỗi sợ bị cô lập và lo không được ai ủng hộ lập trường của mình. Vì
vậy tính “dũng cảm” của ngài chỉ có thể giải thích được nhờ hai sự kiện, mà chúng
tôi sẽ triển khai trong bài viết này.
· Thứ nhất là Đức
Tổng Điền đã được dư luận hàng giáo sĩ Huế ủng hộ đến cùng. Chính Đức Thánh Cha
Gioan-Phaolô II, bằng những nhận xét có vẻ tình cờ, đã làm cho ngài tin tưởng rằng
mình đi đúng đường lối. Một lần, ngài nghe kể về Đức Hồng y Wojtyla (sau là Giáo
hoàng Gioan-Phaolô II) trả lời Đức Cha Nguyễn Văn Thuận vào khoảng năm 1974 về
thái độ phải có với chính quyền cộng sản: “Cộng tác và đề kháng” (collaborer et
résister). Đức Tổng Điền mừng rỡ kể lại cho mấy linh mục câu nói của Đức Thánh
Cha. Chuyện tới tai công an, thế là trong buổi nói chuyện của Mặt trận Tổ quốc
Bình Trị Thiên tại kỳ tĩnh tâm (2 tháng/lần) của linh mục Huế (1), ông Hoàn ủy
viên Mặt trận tuyên bố thẳng thừng: “Làm gì có chuyện nghịch lý như vậy:
collaborer et résister!” Chừng đó cũng đủ để Đức Tổng Điền nao núng lo sợ mình đã
bị hố. Ngài nôn nóng chờ dịp gặp Đức Thánh Cha. Khi gặp được ngài hỏi ngay: có
phải Đức Thánh Cha đã nói câu “collaborer et
résister” đó không ? Đức Gioan-Phaolô II trả lời, dùng một kiểu nói mạnh hơn gấp
bội: “Collaborer en résistant” (2).
Ngay từ những ngày đầu sau “Giải phóng 1975”,
Đức Tổng Điền đã cố gắng bằng nhiều cách bày tỏ ý muốn nhân nhượng đó. Trong Thư
chung đầu tiên cho đoàn chiên đang hồi hương sau cuộc sơ tán, ngài đã dùng câu
khẩu hiệu “Tiến lên xã hội chủ nghĩa”, làm cho nhiều linh mục ở tận bên châu Âu
lấy làm ngán ngẩm lo sợ cho tương lai Giáo hội Việt Nam dưới chế độ cộng sản.
Riêng tại Huế, khi có người thắc mắc, ngài đã trả lời cách thoải mái: đó là
“politique de la main tendue” - chính sách bắt
tay (với cộng sản), được đề xướng thời Đức Thánh Cha Phaolô VI với Quốc vụ
khanh Villot rồi Casaroli, và cũng có tên là “chính sách với Đông Âu”
(Ostpolitik) (3).
Hai hành động của Đức Tổng Điền hỗ trợ cho những
ngôn từ kể trên. Một lần ngài triệu tập các linh mục cư trú trong thành phố Huế
và thuyết cho các vị 10 phút về nghĩa vụ “bác ái” đối với cán bộ từ miền Bắc vào
không có nhà ở. Ngài kết luận: phải nhượng cơ sở cho chính quyền, yêu cầu các
cha bỏ phiếu góp ý. Kết quả: đa số cho ý kiến phủ quyết (một vị lớn tuổi còn
ghi thêm vào phiếu: “không nhượng chi hết!”) Lý do quá dễ hiểu, nhiều vị đã nói
toạc ra: nếu muốn “bác ái”, thì những người phải được quan tâm trước tiên là vợ
con của “ngụy quân ngụy quyền” đã bị tước đoạt tài sản gia cư!...
Lần khác là vào năm 1977: cha quản xứ Xuân
Long được chính quyền yêu cầu cho mượn khuôn viên (gồm nhà và đất) ngôi trường
giáo xứ (4). Cơ sở giáo xứ thuộc quyền Giám mục, cha quản xứ bèn trình Đức Cha,
thầm mong ngài không cho; nhưng cũng phải trình bày hết sự thật: họ muốn dùng
ngôi trường đó làm xưởng dệt chiếu, xây dựng kinh tế và tạo công ăn việc làm
cho dân chúng xã nhà. Đức Cha quá mừng mà chấp thuận: không thể tìm được lý do nhân đạo hơn thế! Để trấn an lương tâm,
ngài dặn cha xứ phải ghi trong văn bản một điều kiện: khi tuyển chọn công nhân
xưởng dệt chiếu, phải dành ưu tiên cho dân Công giáo trong vùng. Điều kiện đó được
dễ dàng chấp nhận, bởi lẽ nuốt lời hứa đâu phải là chuyện khó; hơn nữa những người
lãnh đạo chính quyền xã để ký văn bản đó biết sẽ còn tại chức cho đến khi nào?
Kết quả: ngày nay, sau 30 năm “giải phóng” cả nước và thành phố Huế, ban lãnh đạo
chính quyền xã đã thay đổi đến năm lần bảy lượt, mà xưởng dệt vẫn chưa sản xuất
được một cọng chiếu nào!... Lại còn thừa thắng xông lên, chiếm luôn đám đất trồng
cỏ tranh giữa ngôi trường và nhà thờ, vốn là nguồn thu nhập chủ yếu của giáo xứ!...
làm nhà ở cho cán bộ (có cả cán bộ cao cấp ngành công an).
· Lối hành xử lừa
đảo lật lọng đó của chính quyền cộng sản chính là sự kiện thứ hai đưa đẩy Đức
Cha Philipphê đến tính cách “dũng cảm” mà thực sự không có trong bản chất bẩm sinh của ngài.
Càng ngày ngài càng thấy rõ điều này: thật là
ảo tưởng khi nghĩ rằng những cử chỉ hiền từ nhân ái có thể hoán cải được một số
cá nhân cán bộ đảng viên. Cá thể chỉ là số không trước tập thể, tức cái gọi là
“giai cấp vô sản”. Khi có chỉ thị của lãnh đạo đảng và nhà nước, không được từ
một thủ đoạn tàn độc nào đối với những người của các tôn giáo mà trong riêng tư
mình có thể có cảm tình hoặc khâm phục.
Một thời gian ngắn sau “Giải phóng 1975”, nhà
nước cộng sản cho nổ “vụ Vinh Sơn” (12-02-1976 tại Sài gòn): “bọn đội lốt thầy tu” dùng nhà thờ
Vinh Sơn làm ổ phản động, in bạc giả v.v... Đức Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình được
đưa đi xem xét phòng thánh nhà thờ Vinh Sơn: trong tủ đồ lễ có cả đồ lót của phụ
nữ! Lúc ấy nhiều người hay chuyện - trong số có Đức Tổng Điền - đã thấy ngay màn
dàn cảnh lố bịch đến buồn cười: những “cha cố” hủ hóa đó không kiếm được nơi nào
khác ngoài tủ đồ lễ để cất áo xống đời thường hay sao?
Bài học đó đã
giúp ích rất nhiều cho Đức Cha Philipphê. Hơn một năm sau (4-1977), nổ ra vụ
“Hai bài phát biểu” của Đức Tổng. Đầu đuôi là thế này: Ủy ban Mặt trận thành phố
Huế mời họp một số chức sắc Phật giáo và Công giáo; mục đích là phổ biến tin tức
và hình ảnh về một vụ xấu xa của Phật giáo. Một ni cô Phật giáo đã tự thiêu để
phản đối chính quyền; khi đem giảo nghiệm tử thi đã cháy đen thì phát hiện ra
tu sĩ đó đang có thai: rõ ràng là để phi tang một vụ bê bối giữa giới ni sư, các
thầy đã một công hai việc thiêu sát ni cô để xách động chống cộng! Đức Tổng Điền
đứng lên phát biểu trước tiên. Ngài bắt đầu bằng câu: “Đoạn trường ai có qua cầu
mới hay”, ám chỉ đến vụ Vinh Sơn: mặc dầu không có kiến thức sâu rộng về động vật
học, Đức Cha cũng đủ sáng suốt để biết rằng những hình ảnh như vậy có thể lấy được
dễ dàng nơi các phòng hộ sinh và dịch vụ phá thai (có thưởng: kế hoạch hóa gia đình!)
(5).
Vụ Vinh Sơn
đã giúp ngài tránh được những lời phát biểu hàm hồ. Sau đó, một phái đoàn sư sãi
đến xin yết kiến ngài tại tòa Giám mục: để tỏ lòng biết ơn và khâm phục sâu sắc,
các vị đã quỳ mọp khấu đầu lạy ngài!
Tư thế của
ngài đối với chính quyền cộng sản đã xấu hẳn đi từ đây. Nhưng ngài vẫn không từ
bỏ ước mơ cải thiện tư thế đó bằng những cử chỉ thân thiện đến mềm yếu. Cơ hội đến
với ngài (1985) khi chính quyền tỉnh tổ chức một chuyến tham quan thủ đô Hà Nội
(chương trình dĩ nhiên bao gồm mục “vào lăng viếng Bác”) cho các thầy và các
cha; họ yêu cầu ngài chỉ định một danh sách sáu linh mục tham gia đoàn (con số
“sáu” không chút ngẫu nhiên: có 6 giáo hạt, tức 6 cha hạt trưởng). Ngài đã tỏ
ra tích cực trong việc chỉ định, đến nỗi nhiều linh mục trong giáo phận đã coi đây
là lệnh của Đấng Bản quyền mà theo giáo
luật phải tuân phục.
Các linh mục
được chỉ định đứng trước một sự lựa chọn khó khăn đến nhức nhối: nếu chấp hành
lệnh Bề trên, thì sẽ mắc bẫy cộng sản, vì chắc chắn kịch bản “tham quan” đó giấu
ẩn nhiều chiêu thức ma quái khó lường; nhưng nếu làm theo xác tín của mình (= đây
không phải là trường hợp Giám mục có quyền ra lệnh) thì sẽ làm cho Đức Cha lo âu
phiền muộn vì lập trường ngài đã chọn là: bằng mọi giá không trái ý chính quyền...
như chính ngài đã nói khi được mách có khả năng các cha không chấp hành: “Như vậy
là căng rồi đó, khổ quá!”
Ơn trên soi
sáng, sáu vị linh mục sau khi hội ý với nhau đã nghĩ ra được một tuyệt chiêu: cùng
ký tên vào một lá thư ngắn gởi Mặt trận. Đại ý: chúng tôi được biết Đức Tổng Giám
mục năm nay cũng như nhiều năm qua đã không được phép tham dự cuộc họp thường
niên của Hội đồng Giám mục Việt Nam.
Đó là sinh hoạt hệ trọng bậc nhất của Giáo hội Việt Nam, thế mà chúng tôi lại đi tham
quan giải trí đó đây: thật là chuyện mâu thuẫn và vô lý. Vì vậy chúng tôi xin
trả lời: chúng tôi xin kiếu!
Đức Cha nhẹ
nhõm hả hê: các cha nhận trách nhiệm trong việc từ chối này, không phải để đối
lập với Đức Cha, mà trái lại để ủng hộ Đức Cha! Ngài vội vã nhắn với những cha đang
lo sợ đã làm Đức Cha giận: “Cám ơn lắm, không giận đâu!” (nguyên văn).
Từ nay Đức
Tổng Nguyễn Kim Điền chỉ còn một hướng đi: dũng cảm thực sự và cụ thể.
Trong thời
gian “120 ngày làm việc với công an (từ 5-4 đến 15-10-1984), ngài thường thổ lộ với người thân
tín sau một ngày làm việc: tạ ơn Chúa đã cho qua một ngày vững vàng, cầu mong
Chúa cho ngày mai cũng được như vậy. Thật là khiêm nhượng: không dám nói trước
là mình sẽ vững vàng mãi mãi bao lâu còn phải ngồi trước cán bộ công an (6).
Khi ra đi mỗi sáng, ngài ôm sẵn một gói hành
lý nhỏ vừa bằng chiếc mũ đựng những đồ dùng cá nhân cần thiết: biết đâu ngày hôm
đó ngài sẽ bị bắt đem đi luôn! Ngài chờ đón và chấp nhận tình huống này. Tâm trạng
này thật là dũng cảm, vì những lý do mà ít người biết đến:
1) Ngài mang trong cơ thể cả trăm thứ bệnh đòi
hỏi thuốc men đặc biệt và chế độ ăn uống riêng. Thử hỏi: vào tù làm gì kiếm được
thuốc thang và thức ăn đặc biệt đó? Nhưng ngài đã chấp nhận ngay cả cái chết,
vì Thiên Chúa, vì Giáo hội.
2) Ngài tin như đinh đóng cột vào huyền thoại
“Cộng sản toàn năng”, có đủ thủ đoạn để khiến người ta khai thú bất cứ điều gì
họ muốn. Có lần ngài cho biết về thuốc sự thật (sérum de vérité): “Tôi được biết,
khi bị chích thuốc đó vào rồi, đương sự nằng nặc đòi khai báo, thậm chí van lạy
để người ta nghe khai!”.
Thật ra kẻ cho ngài thông tin này đã đọc câu
chuyện “khoa học giả tưởng” đó trong tập truyện tranh Tin tin & Milou mang
tên “Vol 714 pour Sydney”. Nhưng Đức Cha đâu có biết đó là chuyện giả tưởng: đấy
chính là công lớn của ngài, ngài thật xứng với danh hiệu “Tổng Giám mục dũng cảm”.
Lm.
Augustinô Hồ Văn Quý
Nguyên
bí thư tòa TGM Huế (1969-1972) và giám đốc Đại chủng viện Huế (1975-1977)
Chú thích:
(1) Nhiều linh mục Huế không ưa các buổi nói chuyện
này, coi đó là dịp để công an ghi sổ về thái độ của từng cá nhân...
(2) Những ai từng làm thầy dạy môn Pháp văn đều biết
kiểu nói như vậy có thể dịch được ba cách: “cộng tác trong khi đề kháng”,
“vừa cộng tác vừa đề kháng”, và “cộng tác bằng cách đề kháng”.
Kể cả cách hiểu thứ ba cũng có thể vận dụng được ở đây (có vẻ nghịch lý đó, nhưng
phân tích kỹ, sẽ thấy hợp lý hoàn toàn!).
(3) Đức Hồng y Wyszynski đã có lần phê bình chính sách
đó như sau: “Tối thiểu là yêu cầu đừng có đè nặng lên thập giá của chúng tôi!”
Về vai trò của Đức Hồng y Wyszynski trong giai đoạn này, Đức Hồng y Wojtyla đã
nói với Đức Cha Thuận trong lần gặp gỡ kể trên: “Đó là con người của Chúa quan
phòng” (C’est l’homme providentiel).
(4) Xưa gọi là trường Sohier, ghi công Đức Cha
Sohier (tên Việt là Bình, 1862-1876), người đã đặt tòa Giám mục tại Xuân Long
(còn gọi là Kim Long). Nền của tòa Giám mục vẫn còn thấy được ở đó ngày nay.
(5) Bào thai các động vật có xương sống trong những
tuần lễ đầu khó phân biệt nhau, trừ phi dưới con mắt chuyên gia: đây là một bằng
chứng hỗ trợ cho thuyết tiến hóa. Thành ra nếu không có hình ảnh phôi thai người,
cộng sản vẫn có thể dùng hình ảnh phôi thai chó, heo, bò... thuộc những tuần lễ
đầu tiên mà đánh lừa được.
(6) Ngày xưa: Khôn ngoan ra trước cửa quan mới biết!
Ngày nay: Có gan ra trước công an mới biết!
**********************************************************