Nhớ Bạch Đằng Giang Oai Hùng
“Đây Bạch Đằng Giang sông hùng dũng của nòi giống Tiên Rồng, Giống Lạc Hồng, giống anh hùng, Nam Bắc Trung…”
LM. Giuse Nguyễn Văn Thư
Ngô Quyền chấm dứt thời kỳ bắc thuộc:
Ngô Quyền - người anh hùng của chiến thắng Bạch Đằng năm 938 - xứng đáng với danh hiệu là ‘vị tổ trung hưng’ của dân tộc, như lần đầu tiên đã được nêu lên trong sách ‘Việt Nam quốc sử khảo’. Lần đầu tiên đưa thủy triều vào thành một nhân tố, một lực lượng thủy chiến của trận đánh. Đây là sự sáng tạo đầu tiên mà lịch sử vàng son của dân
Ca ngợi người anh hùng dân tộc Ngô Quyền, sử gia Lê Văn Hưu viết: "Tiền Ngô Vương có thể lấy quân ‘mới tập họp’ của đất Việt ta. mà phá được ngàn vạn quân của Lưu Hoằng Thao, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói một cơn giận mà yên dân được, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy". Sau chiến thắng Bạch Đằng, Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng đất nước trên quy mô lớn. Đó là kỷ nguyên của văn minh Đại Việt, của kỷ nguyên phá Tống, bình Nguyên, đuổi Minh, thật là một kỷ nguyên rực rỡ Lê. Một nhà sử học khác đã đánh giá thế này: "Trận thắng trên sông Bạch Đằng là cơ sở cho việc khôi phục quốc thống. Những chiến công đời Đinh, Lê, Lý, Trần sau này còn nhờ vào cái ‘uy danh lẫm liệt’ ấy để lại. Trận Bạch Đằng chính là võ công cao cả, vang dội đến nghìn thu, há phải chỉ lẫy lừng ở một thời bấy giờ mà thôi đâu !".
Mùa xuân năm Kỷ Hợi (939), Ngô Quyền quyết định bỏ chức Tiết độ sứ, tự xưng vương, thành lập một vương quốc độc lập đàng hoàng. Chọn kinh đô cũ của Âu Lạc là Cổ Loa làm kinh đô nước Việt, Ngô Vương Quyền tỏ ý nối tiếp truyền thống của các vua Hùng, vua Thục.
Lê Đại Hành phá quân Tống:
Thời điểm là vào năm 981. Vua nhà Tống khi đó là Tống Thái Tông xua quân xuống xâm chiếm nước ta. Đạo quân thủy do tướng địch Hầu Nhân Bảo thống lĩnh vào đến Lục Đầu Giang thì bị dụ đi vào sông Bạch Đằng. Lê Hoàn ( lên ngôi lấy hiệu là Lê đại Hành) theo vết cũ của Ngô Quyền để đập tan thủy quân bắc phương. Lần này Lê Hoàn thêm nhiếu sáng kiến: trận đánh trên sông Bạch Đằng lần này là thiên biến, vạn hóa. Từ mưu lược và cách đánh giặc của nước Việt nghìn xưa, một lần nữa được Lê Hoàn làm sôi động trên chiến trường Bạch Đằng giang thiêng liêng.
Sau đó, Lê Hoàn cai trị ‘Đại Cồ Việt’. Vị chủ tướng của ‘trận Bạch Đằng lần thứ hai’ cũng hệt như chủ tướng trận Bạch Đằng lần thứ nhất, giương cao ngọn cờ chiến thắng, ca khúc khải hoàng trở về kinh đô Cổ Loa-Hoa Lư. Cởi tấm chiến bào, võ tướng khoát lại tấm hoàng bào, nhà vua ngồi vững trên ngai vàng quân chủ. Hoàng đế ‘Thiên Phúc’ Lê Hoàn ngời sáng tài năng thao lược với những chiến công trên sông Bạch Đằng lần thứ hai. Vì thế mà sống mãi trong bảng vàng bia đá, đền đài, lễ hội, sống mãi trong tâm trí nhân dân của bao thế hệ khắp nơi, mãi mãi được tôn vinh và kính thờ. Ngài cai trị nổi bật với việc phát triển nông nghiệp và còn có công đánh bại Chiêm Thành thường tới quấy nhiễu nước ta, đánh dẹp các tộc người ở biên giới, khiến họ phải quy phục triều đình. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết rằng: "Vua trừ nội gian mà lấy được nước, đuổi giặc ngoài để yên dân, trong nước thanh bình, Bắc Nam vô sự”..
Hưng Đạo Vương đánh tan quân Nguyên:
Vào năm 1285, quân Nguyên lại giở trò xâm lăng, với bộ binh từ phía bắc và thủy binh từ phía nam. Dĩ nhiên Thăng Long cũng bị chiếm rất sớm. Vua tôi Việt Nam cũng phải di tản, tiêu thổ kháng chiến và kiên trì đợi cơ hội phản công, dựa theo kinh nghiệm lần trước. Cứ tuần tự nhi tiến, quân Việt đã lại đuổi được giặc phải rút về phương bắc.
Đó là trận thủy chiến lớn nhất lịch sử Việt Nam (khi Nguyên-Mông tấn công nước ta lần thứ ba, dưới quyền thống soái của ‘Trấn Nam Vương’ Thoát Hoan, con trai Thế Tổ Hốt Tất Liệt, người sáng lập nhà Nguyên). ‘Trận Bạch Đằng lần thứ ba’ đã được dựng lại sự hình thành trận Bạch Đằng giang oai hùng ngày nào, giờ đây đã rõ ra là một dòng sông chiến trường lịch sử sau Ngô Quyền và Lê Hoàn từng lập đại võ công. Cũng có nghĩa là giặc đã biết đến giòng sông ấy, đề phòng tối đa với sông ‘thiêng liêng’ ấy. Vì thế không còn con đường nào khác mà ta đành phải lại tìm chiến thắng qua giòng sông ‘định mệnh’ này khi tình thế đòi hỏi. Bây giờ là đầu tháng ba âm lịch năm 1288, toàn bộ cánh quân địch gồm 500 chiến thuyền, sau nhiều tháng trời cùng bộ binh tung hoành ngang dọc trên non sông đất nước ta (nhưng bị đánh úp tả tơi), lúc được tướng Ô Mã Nhi chỉ huy rút lui ra biển qua đường sông Bạch Đằng này, chính là thời điểm và đối tượng để quyết đánh một trận ‘nhớ đời’ của tướng Trần Hưng Đạo.
Ngoài tài thao lược dẹp giặc trên chiến trường, Trần Hưng Đạo còn là nhà lý thuyết chiến lược quân sự. Ông đã soạn nhiều tác phẩm để lại cho đời sau học theo (Binh thư yếu lược), trong số đó gồm có: - Dụ Chư Tỳ Tướng Hịch Văn, thường gọi là Hịch Tướng Sĩ;- Binh Gia Diệu Lý Yếu Lược;- Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư.
Với công lao rất lớn của vị chủ tướng ‘trân Bạch Đằng lần thứ ba’, cũng như cả sự nghiệp kháng chiến giữ nước thời Trần, đã vô cùng xứng đáng (ngay sau đại võ công sông Bạch Đằng) để được triều đình phong lên ‘Đại Vương’. Nhưng với lòng dân mọi thời đại, Trần Quốc Tuấn không chỉ là Hưng Đạo đại Vương, mà còn được dự vào hàng tiên thánh và trở thành ‘đức thánh Trần’. Cùng với Ngô Quyền, Lê Hoàn, Trần Hưng Đạo chính là hợp thành bộ ba chủ tướng của ba đại võ công lịch sử trên chỉ một dòng sông linh thiêng có tên ‘Bạch Đằng giang’.
Xin vong linh của các ngài Ngô Quyền, Lê Hoàn và nhất là Trần hưng Đạo hộ phù cho giang sơn đất Việt.
Cũng xin 2 vị anh hùng nối gót các ngài là Lê Lợi và Nguyễn Huệ soi sáng cho đàn con lũ cháu.
Đặc biệt dẫn dắt các người lãnh đạo tại quê hương chúng ta biết đi theo vết bước của tổ tiên mà giữ nước.
LM. Giuse Nguyễn Văn Thư
http://vietcatholic.net/News/Html/245883.htm