Gs Trần Gia Phụng
ĐẠO THIÊN CHÚA
VÀ
CUỘC XÂM LĂNG CỦA PHÁP
Đạo Thiên Chúa được
truyền vào Đại Việt từ thế kỷ 16, ở Đàng Ngoài cũng như ở Đàng
Trong. Lúc đầu, các giáo sĩ Tây phương đến truyền giáo thuộc nhiều
dòng tu khác nhau và có nhiều quốc tịch khác nhau. Vào giữa thế kỷ
17, giáo sĩ Alexandre de Rhodes (1593-1660), thuộc Dòng Tên (Society
of Jesus) và người gốc Pháp, đề nghị với Tòa thánh Vatican xin thành
lập hàng giáo sĩ Đại Việt.
Muốn đào tạo tại chỗ các linh mục, thì
phải đưa giám mục sang Đại Việt, vì theo giáo luật của Tòa thánh,
các giám mục mới có quyền phong chức linh mục. Ngày 9-9-1659, giáo
hoàng Alexander VII (giáo nhiệm 1655-1667) ký sắc thư bổ nhiệm hai
giám mục Pháp thuộc Hội Truyền giáo Nước ngoài Paris (Société des
Missions Étrangères de Paris gọi tắt là MEP) sang cai quản giáo phận
Đại Việt. Do đó, cũng từ đây, đa số những giáo sĩ đến truyền đạo
tại Đại Việt thuộc Hội MEP, và mang quốc tịch Pháp.
Vì đa số các giáo sĩ và
giám mục thuộc quyền của Hội MEP và giáo hội Thiên Chúa Pháp, nên ở
đây cần thêm một vài chi tiết về giáo hội Thiên Chúa tại Pháp. “Kể
từ khi Clovis (466-511), vua đầu tiên của nước Pháp chịu phép rửa
tội tại Reims từ tay giám mục Rémi vào khoảng năm 500, hai thế lực
thần quyền [giáo hội Thiên Chúa] và thế quyền [Pháp] hầu như
luôn luôn kết dính với nhau trong việc điều hành và quản trị xã hội
và các hoạt động của Giáo hội.”(1) Vì vậy, khi hai giám mục
Pháp đầu tiên là François Pallu và Pierre de la Motte Lambert được
gởi đến cai quản giáo phận Việt Nam năm 1659, một linh mục thuộc Hội
MEP đã đưa ra nhận xét rằng hai ông “sẽ làm việc vì nước Pháp
đồng thời vì giáo hội.”(2)
Trong thời gian
đầu, giáo hội Thiên Chúa giáo ở Đại Việt phát triển khá mạnh. Lý do
chính vì người Việt lúc đó không độc tôn nhất thần, và tôn trọng đa
thần, dễ dàng hòa đồng tôn giáo. Dầu đạo Thiên Chúa bị các chính
quyền đàn áp, nhưng lại được sự che chở của dân chúng, nên vẫn tồn
tại và phát triển. Trong khi đó, tại những nước mà dân chúng độc
tôn nhất thần như Nhật Bản hay các nước Hồi giáo, đạo Thiên Chúa bị
chận đứng mạnh mẽ.
Do đó, tại Đại
Việt, dầu gặp nhiều trở ngại, dầu bị các chính quyền đàn áp, vào
giữa thế kỷ 18, theo sự ghi nhận của sách Khâm định Việt sử thông
giám cương mục thì việc truyền đạo Thiên Chúa “cũng không thể
nào ngăn cấm được”.(3)
Khi các giáo sĩ
Thiên Chúa giáo đặt định được những cơ sở truyền giáo đầu tiên ở
nước Việt, thì xảy ra cuộc xâm lăng của Pháp. Vào giữa thế kỷ 19,
trên con đường tìm kiếm thị trường và thuộc địa ở Á Châu để giao
thương, tiêu thụ hàng hóa và khai thác tài nguyên, nhắm cung ứng cho
kỹ nghệ sau cuộc Cách mạng kỹ nghệ, Pháp cũng như các nước Âu Châu
khác, đều nghĩ đến Trung Hoa và Nhật Bản. Vì vậy Pháp muốn tìm kiếm
một hải cảng trung chuyển, để thuyền bè thả neo nghỉ ngơi hoặc sửa
chữa ở biển Đông trên con đường hàng hải đông tây. Lúc đầu, hải
quân Pháp dự tính thuê đảo Basilan, thuộc quần đảo Soulou, giữa
Mindanao và Borneo, nhưng cuối cùng không thành, nên Pháp nghĩ đến
Đà Nẵng,(4) mà lúc đó Pháp gọi là Touron hay Tourane.
Trong khi đó,
chính quyền Việt Nam lại nhất định bế môn tỏa cảng, không chịu giao
thương với Pháp, cấm đoán việc truyền bá Thiên Chúa giáo, bắt bớ, tù
đày, tàn sát các giáo sĩ truyền giáo, tạo ra những vụ án tử đạo.
Những vụ án tử đạo gây xôn xao dư luận Pháp, một dân tộc rất sùng
thượng Thiên Chúa giáo. Chính phủ Pháp liền lợi dụng chiêu bài nầy,
khích động dân chúng Pháp, để họ ủng hộ chính phủ trong công cuộc
xâm lăng Việt Nam.
Lúc đó, sau
cuộc Cách mạng 1789, giáo hội Thiên Chúa giáo Pháp có một ít thay
đổi. Theo Thỏa ước (Concordat) Paris ngày 15-7-1801 giữa Tòa
thánh Vatican và chính quyền Pháp do Đệ nhất tổng tài Napoléon
Bonaparte đứng đầu, từ đây chính phủ Pháp bổ nhiệm và trợ cấp cho
các giám mục Pháp, đồng thời các giáo sĩ Pháp phải tuyên thệ vâng
lệnh và trung thành với nhà nước Pháp.(5) Thỏa ước Paris về sau
được thay thế bằng luật ngày 9-12-1905 do tổng thống Emile Loubet
(nhiệm kỳ 1899-1906) ban hành, nhắm tách rời giáo hội Pháp với nhà
nước Pháp, dưới thời giáo hoàng Pius X (giáo nhiệm 1903-1914).(5)
Thời gian từ
1801 đến năm 1905 là thời gian Pháp đem quân xâm chiếm Việt Nam và
thành lập Liên Bang Đông Dương. Như thế trong thời gian nầy, các
giám mục và giáo sĩ Pháp được gởi ra nước ngoài hoạt động, trong đó
có Việt Nam, cũng đều nằm trong quy chế của thỏa ước Paris 1801,
nghĩa là các giám mục Pháp hoạt động ở Việt Nam đều là nhân viên
hữu thệ (có lời thề) của chính phủ Pháp, làm việc cho chính phủ Pháp.
Xin chú ý là chỉ có các giám mục Pháp mới nằm trong trường hợp nầy.
Giáo hội Thiên
Chúa giáo Việt Nam giai đoạn thời Pháp thuộc, do hàng giám mục Pháp
điều khiển, lúc đó có thể xem là một chi nhánh của giáo hội Pháp.
Cần phải chú ý điểm nầy để phân biệt Giáo hội Thiên Chúa giáo Việt
Nam thời Pháp thuộc, với Giáo hội Thiên Chúa giáo Việt Nam thời độc
lập, hay ít ra thời các giám mục Việt bắt đầu thực sự nắm quyền điều
khiển giáo hội Việt Nam, để giúp làm rõ ràng vai trò của các giáo sĩ
đạo Thiên Chúa trong lịch sử dân tộc.
Lúc Pháp đem
quân xâm lăng Việt Nam, không kể các giám mục và giáo sĩ nước ngoài,
phải thẳng thắn thừa nhận rằng có một số giáo sĩ và giáo dân bị nhà
Nguyễn và nhóm Văn thân đàn áp, tàn sát, nên bị dồn vào thế bí, vì
bản năng sinh tồn, chẳng đặng đừng phải nhờ đến sự bảo vệ của người
Pháp, từ đó cộng tác với Pháp.
Tuy nhiên, cần
phải chú ý là không phải toàn thể giáo sĩ, hay toàn thể tín đồ Thiên
Chúa giáo người Việt, đều hợp tác với Pháp. Cũng cần phải chú ý
thêm rằng trong hàng ngũ những người hợp tác với Pháp, không phải
hoàn toàn chỉ là những người theo đạo Thiên Chúa. (Ví dụ những
người hợp tác với Pháp nổi tiếng trong lịch sử như Hoàng Cao Khải,
Nguyễn Thân, Trần Bá Lộc không theo đạo Thiên Chúa.) Đồng thời trong
hàng ngũ những người chống Pháp cũng có những tín đồ Thiên Chúa giáo
Việt Nam. (Ví dụ tu sĩ Mai Lão Bạng,(6) một chiến hữu cùng bị tù
với Phan Bội Châu năm 1914 tại Quảng Đông.)
Trong danh sách
117 giáo sĩ và giáo dân tử đạo tại Việt Nam được giáo hoàng John
Paul II (giáo nhiệm 1978-2005) phong thánh tại Roma (La Mã) ngày
19-6-1988, không có tên những người nổi tiếng do hoạt động chính trị
và cộng tác với Pháp. Những người được phong thánh hầu như là những
người vô danh trong lịch sử, đã bị giết vì quyết bảo vệ tôn giáo của
mình.
Một số tín đồ
đạo Thiên Chúa như Nguyễn Trường Tộ, Đinh Văn Điền, vì lòng yêu
nước, đã dâng lên vua Tự Đức và triều đình những bản điều trần và kế
hoạch để phát triển đất nước, nhưng đều bị bỏ qua vì bị gièm pha và
bị nghi ngờ.
Cần phải chú ý
tới tất cả các khía cạnh trên, để nhấn mạnh đến một điều là những
người hợp tác với Pháp, hay những người phản bội quốc gia dân tộc,
hoàn toàn là những hành vi cá nhân của người đó, chứ không phải vì
người đó theo một tôn giáo nào. Người Việt Nam cần tách bạch
điều nầy để tránh bị lợi dụng, khích động, rồi đi đến chỗ chia rẽ,
phân hóa, chỉ có lợi cho những thế lực phi quốc gia dân tộc.
_____________________
CHÚ THÍCH
1.
Vương Đình Chữ, “Kỷ niệm 100 năm Luật 1905 tách rời Giáo hội
và nhà nước”, Tam nguyệt san Định Hướng, số 46, Pháp và Hoa
Kỳ: Trung Tâm Văn Hóa Nguyễn Trường Tộ, mùa xuân 2006, tt. 38-39.
2.
Adrien Launay, Histoire générale de la Société des
Missions Étrangères, tập 1, Paris: Missions Étrangères de Paris,
2003, tr. 30.
3.
Quốc sử quán triều
Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Hà Nội: bản
dịch của Nxb.
Giáo Dục, 1998, tập 2, tr. 627.
4.
Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung
Hoa, Nguyễn Đình Đầu dịch, TpHCM: Ban Khoa học Xã hội Thành uỷ,
1990, tt. 96-97.
5.
Catholic University of America, New Catholic Encyclopedia,
Vol. 11, Palatine, Illimois: J. Heraty, 1981, pp. 410-411; và
http://www.newadvent.org/cathen/04204a.htm, bài “The French
Concordat 1801”.
6.
Mai Lão Bạng: quê Nghệ An, tu sĩ Thiên Chúa giáo, gặp Phan
Bội Châu tại Hương Cảng 1908. Từ đó, ông sát cánh hoạt động với
Phan Bội Châu, đưa nhiều thanh niên Thiên Chúa giáo gia nhập Duy Tân
hội. Năm 1914, Mai Lão Bạng cùng Phan Bội Châu bị bắt ỡ Quảng Đông.
Sau khi ra khỏi tù năm 1917, Mai Lão Bạng đến Thượng Hải hoạt động,
bị nhà cầm quyền Anh bắt giao cho Pháp. Pháp đày Mai Lão Bạng ra
Côn Lôn khoảng 10 năm. Từ Côn Lôn trở về, Mai Lão Bạng sống ở Huế
một thời gian, gặp lại Phan Bội Châu, lúc đó bị an trí ở Huế. Sau
Mai Lão Bạng về Nghệ An và từ trần ở quê nhà năm 1942. Ngoài ra,
xin xem thêm Phan Bội Châu, Tự phán hay Niên biểu,
đăng trong Phan Bội Châu toàn tập, tập 6, Chương Thâu sưu tầm
và biên soạn, Huế: Nxb. Thuận Hóa, 1990, tt. 175-176.