VATICAN VÀ HOÀ GIẢI HOÀ HỢP
TÔN GIÁO PHỤC HƯNG ĐẤT NƯỚC
Dưới đây là
những câu hỏi của ký giả Hồng Phúc (HP) phỏng vấn Ls Lâm Lễ Trinh
(LLT) , Chủ nhiệm / Chủ bút tạp chí Anh-Pháp Human Rights / Droits de
l’Homme, ngày 20.6.2004 trên Đài Tiếng Nói Việt Nam Hải ngoại,
Vietnam Public Radio, tại Hoa Thịnh Đốn, Hoa kỳ, về đề tài “Vatican
và vấn đề Hoà giải Hoà hợp. Vai trò của Tôn giáo trong công
cuộc phục hưng Đất nước” trong Chương trình “Thế Giới Ngày
Nay”.
1– HP:
Thưa Luật sư, chúng tôi được biết Luật sư đã được mời làm diễn giả
danh dự tại Đại hội Cộng đồng Công giáo VN Miền Tây Nam Hoa kỳ ngày
16 tháng 5 vừa qua về đề tài “Vấn đề dấn thân chính trị của người
tính hữu Công giáo”.
Trong bài
thuyết trình vừa nói. Ls có xác nhận : “Nếu nhìn vào lịch sử nhân
loại thì các cuộc cách mạng vĩ đại gây ảnh hưởng sâu đậm đối với quần
chúng được phát động và thực hiện không phải do các chính trị gia lỗi
lạc mà do những giáo chủ của các tôn giáo lớn như Phật giáo, Hồi giáo
và Thiên chúa giáo. Đức Phật, Mahomet và Chúa Jésus đã thay đổi thế
gian toàn diện về tâm linh, luôn cả về chính trị, xã hội, văn hoá, nếp
sống và kinh tế”.
Hiện
sống ở thế kỷ 21 mà còn đặt ra câu hỏi: “Tôn giáo có làm chính trị
không” thì câu hỏi ấy có tính cách lạc lõng hay không? Tại sao có một
số lãnh đạo tinh thần lại vẫn tuyên bố : ‘Tôn giáo không làm chính
trị” ?
LLT:
Để trả lời câu hỏi khá phức tạp này
của ông, tôi tưởng nên nhắc lại vài móc điểm thời cuộc: Trước Karl
Marx (1818-1883), các lý thuyết gia của chủ nghĩa thế tục
(sécularisme) như Fuerbach, Voltaire, Freud... đã chống giáo sĩ
và Giáo hội. Họ từng khẳng định rằng tôn giáo, tự bản chất, là một
sự mê tín đầu độc nhân loại. Hình thức cực đoan của chủ nghĩa thế tục
này là chủ nghĩa cộng sản. Staline, Mao và Hồ cổ võ tiêu diệt tôn
giáo, tẩy Đạo ra khỏi thế sự và đề cao thuyết Mạc xít như một tôn giáo
mới, một “tôn giáo thế tục, religion séculaire”, theo ngôn từ
của học giả Raymond Aron. CS tôn vinh vai trò tối thượng của khoa học
và địa vị độc tôn của con người. CS chỉ công nhận con người lao động
(homo faber) và không dành một vai trò gì trong xã hội cho con
người tôn giáo (homo religious) và con người tư duy (homo
sapiens).
Những năm
gần đây, chúng ta thấy xuất hiện một khuynh hướng ngược lại, quá khích
và vô cùng nguy hiểm: một số quốc gia Hồi giáo khai thác tích cực
lòng ái quốc và sự bất mãn của quần chúng đối với Aâu Mỹ để tôn giáo
hoá mọi sinh hoạt xã hội và thực hiện chế độ thần quyền - bằng khủng
bố và bạo lực. Chủ nghiã này được gọi là Bảo căn tôn giáo,
radicalisme religieux. Cuộc chiến tranh chống khủng bố khó giải
quyềt hơn cuộc chiến tranh lạnh, khó hơn thập bội, vì mang màu sắc
tôn giáo cuồng tín.
Mạc xít và
Bảo căng đều làm cho thế giới đảo điên. Cả hai đều chứng minh nhân
loại vẫn không ngưng đi tìm một giải pháp toàn bích để xác định biên
cương tối hảo của hai lãnh vực Đạo và Đời – Tôn giáo và Chính trị. Xã
hội chính trị nhằm giải quyết chuyện thế gian nên cần dùng áp lực để
thống trị. Tôn giáo là một xã hội dân sự đặc biệt, với khát vọng đi
tìm sự giải thoát ngoài trần thế, nên chọn đường lối vỗ về, thuyết
phục.
Tại nhiều
quốc gia, ngày nay tín đồ tôn giáo thành lập đảng trong khuôn khổ Hiến
pháp để hoạt động công khai. Vài xứ chọn tôn giáo làm quốc giáo. Ở các
nơi ấy, tôn giáo nắm trọn Thế quyền (tức là quyền cai trị dân) lẫn
Thần quyền (tức cai trị con chiên trong đạo), vì thế không thể tránh
nạn độc tài.
Dựa vào
tôn chỉ “Hãy trã lại cho César cái gì thuộc về César”, nhiều
người cho rằng “tôn giáo không nên làm chính trị”. Điều này vô cùng tế
nhị vì Đạo sống trong lòng thực tế, dẩy đầy chính trị. Giáo hội lắm
khi phải vận động với chính quyền để ban hành luật lệ cần thiết và
thiết lập cơ chế hợp với những đòi hỏi của giáo lý, thí dụ như trong
vấn đề phá thai, đồng tính luyến ái, án tữ hình ..vv..
Nói tóm
tắc, chúng tôi nghĩ tôn giáo không nên làm chính trị để trực tiếp nắm
quyền trần thế nhưng mổi tín đồ – vưà với tư cách công dân, vừa nhân
danh giáo hữu – có bổn phận xử dụng tích cực quyền năng chính trị do
Hiến pháp ban bố để nói lên sự chọn lựa của mình đúng theo lương tâm
và giáo điều.
2 – HP: Các nhà truyền giáo Ki tô phương
Tây đã đến Việt Nam cùng thời với Đế quốc Pháp xâm chiếm nước ta. Vì
thế có khuynh hướng trách cứ tín đồ Công giáo “thông đồng” với
Thực dân và đặt tôn giáo trên quyền lợi dân tộc. Luật sư nghĩ sao về
vấn đề này?
LLT:
Đây
là luận điệu được CSVN và những phần tử có ác cảm với Vatican
xử dụng để xuyên tạc Ki tô giáo. Lịch sử VN và nhiều học giả
phản bác quan điểm này. Thật vậy, theo sử gia Trần Trọng Kim, đạo Chúa
được truyền bá tại VN từ năm 1533 dưới thời Lê Trang Tôn. Vì nhu cầu
thống nhất sơn hà, chống Tây Sơn, vua Gia Long đã cầu viện khắp nơi,
không riêng gì và ưu tiên với nước Pháp. Bồ Đào Nha không sốt sắng,
Trung quốc làm ngơ vì, theo chính sách truyền thống, không muốn có một
lân bang lớn mạnh. Gia Long túng thế phải nhờ Bá Đa Lộc (Pigneau de
Béhaine) tiếp xúc với Pháp. Hoàng đế Nã Phá Luân đệ nhất đang bận
chinh chiến ở Aâu châu nên chỉ lơ là cho phép Bá Đa Lộc tuyển mộ tai
Pondichéry một số người Pháp đánh giặc mướn như Chaigneau, Vannier,
Despiau...qua giúp Gia Long. Năm Đinh sửu (1817), vua Louis XVIII gởi
chiến thuyền Cibèle qua Đà nẳng đòi thi hành những điều ước do Bá Đa
Lộc ký năm 1787 về việc nhượng cửa Đà nẳng và đảo Côn Lôn. Gia Long
cho trã lời rằng Pháp đã không thi hành điều ước ấy thì nay bỏ, không
nói đến nữa. Pháp không hưởng được sự biệt đải nào về chính trị và
thương mãi. Vu khống Gia Long là một ông vua “bán nước và giúp giáo
cho giặc”quả là một điều bất công. Gia Long là một nhà
lãnh đạo “có công to, tài trí và rất khôn ngoan” (Trần Trọng
Kim.
“VN Sử lược, quyển 2, trang
184).
Khi qua đời, Gia
Long chọn Minh Mệnh nối nghiệp. Minh Mệnh thâm Nho học, tôn sùng Khổng
Mạnh nên mới nghiêm cấm và trừng trị những người theo đạo Ki tô.
Các vua
sau đó, Thiệu Trị và Tự Đức, vẫn tiếp tục chính sách đóng cửa rút
cầu tai hại. Đặc biệt, Tự Đức ban hành năm 1848 và 1851 haisắc dụ
quyết liệt cấm đạo. 130.000 tín hữu Thiên chúa bị sát hại và 3000 giáo
xứ bị đốt phá. Tháng 7.1858, tức là năm Tự Đức thứ 11, Hoàng đế Pháp
Nả Phá Luân đệ tam nắm lấy cơ hội ngàn vàng này để liên minh với Ý đại
lợi đưa 14 chiếc tàu và 3000 quân qua đánh phá Đà nẳng . Các đế quốc
Aâu châu đã khai thác chính sách sai lầm về tôn giáo của các vua chót
nhà Nguyễn để mở rộng bờ cỏi và khuếch trương mua bán.
Các sử
liệu mà tôi vừa phác hoạ cho thấy liên kết Thiên chúa giáo vớiø Thực
dân là một điều gièm pha. Cũng trong giai đọan nêu trên, nước láng
giềng Thái Lan đã tránh được thảm trạng của VN nhờ một chính sách tôn
giáo và giao thương cởi mở đối với quốc tế. Trung quốc cũng theo
đường hướng ấy.
Ngày 12
tháng 6 vưà qua, trong buổi ra mắt sách tại Little Saigon, Californie,
Giáo sư Tiến sĩ Roland Jacques, khoa trưởng phân khoa Giáo luâït tại
Đại học Saint Paul, Ottawa, Canada, đã đưa ra nhiều sử liệu chứng
minh chính các giáo sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha, Ý và Nhật đã quảng bá từ
cuối thế kỷ XVI đạo Ki tô ở Đại Việt (tên củ của VN), trước các linh
mục Pháp. Như vậy, Giáo hội VN không phải là con đẻ của Hội Truyền
giáo Ngoại quốc (Missions Eùtrangères de Paris) như một số tài liệu
ghi sai. Mặt khác, theo Giáo sư Roland Jacques, người sáng chế ra
tiếng quốc ngữ từ năm 1622 là nhà truyền giáo Bồ Đào Nha Francisco de
Pina chớ không phải giám mục Alexandre de Rhodes (thật sự mang quốc
tịch La mã chớ không phải Pháp). De Rhodes chỉ tiếp tục và bổ túc công
việc làm sinh ngữ của De Pina.
Một điểm
chót cần ghi lại: Mặc dù vua Tự Đức hà khắc cấm đạo, một số sĩ phu
Công giáo như Nguyễn Trường Tộ (1827-1871) và linh mục Đặng Đức Tuấn
đã dấn thân phục vụ xứ sở trong nhiềøu lãnh vực ( đọc “Những người
lữ hành trên đường hy vọng” của Hồng Y Nguyễn Văn Thuận,
trang 532- 536). Điều này chứng tỏ người tín đồ Ki tô không đặt tôn
giáo trên Đất nước.
3- HP: Không thể chối cải Tôn giáo
và Chính trị liên hệ mật thiết. Tại một số quốc gia trên thế giới ngày
nay, tôn giáo được chọn là Quốc giáo. Tuy nhiên, Hiến pháp Hoa kỳ có
ghi rỏ nguyên tắc tách rời Nhà thờ và Nhà nước. Tại sao?
LLT:
Đúng
vậy, nhiều nước – trong đó có Hoa kỳ, ngay từ năm lập quốc 1783 – đã
có quyết định sáng suốt ghi vào Hiến pháp nguyên tắc tách rời Nhà Nước
và Nhà thờ (séparation de l’Eùglise et de l’Etat) để tránh tôn
giáo nắm thế quyền, mặt khác để bảo vệ dân chủ và sự bình đẳng giữa
các đạo giáo trong xứ. Tại Iran là xứ chọn Hồi giáo làm quốc giáo,
các nhân quyền căn bản đều bị giới hạn như thế giới đang chứng kiến.
Mặc dù
có sự rào đón pháp lý cẩn thận như vậy, các nhà thờ tại Hoa kỳ có ảnh
hưởng sâu đậm với Tổng thống Hoa kỳ qua khối cử tri. Xin đọc số đặc
biệt, xuất bản ngày 21.6.2004, của tạp chí Time, với chủ đề “ Đức
tin tôn giáo, Thượng đế và Văn phòng bầu dục, Faith, God & The Oval
Office”
4 – HP: Luật sư nghĩ gì về chính
sách đàn áp tôn giáo của CSVN hiện nay ơ trong nước?
LLT:
Trong hiểm họa “Diễån biến Hoà bình”
hiện nay mà Chính trị bộ CS còn gọi nôm na “Cuộc chiến Hoà bình”,
chính phủ Hànội lo sợ nhất các tôn giáo đối kháng, hơn cả áp lực của
các cơ chế kinh tài quốc tế và nhóm người bất đồng chính kiến trong
xứ. Vì sao? Vì Phật giáo, Công giáo, Cao đài, Hoà hảo và Tin lành có
sẵn tổ chức và cán bộ, võ trang bằng đức tin mãnh liệt và được thế
giới ủng hộ. Bởi vậy, từ ngày đầu chiến tranh ở VN, CS đã thi hành kế
hoạch thâm hiểm để mua chuộc, chia rẽ và tiêu diệt tôn giáo. Trước
1975, CS dùng tôn giáo tấn công chính phủ Việt Nam Cọng Hoà. Sau 1975,
chúng lập Ban Tôn giáo Chính phủ để triệt hạ các tổ chức chống đối,
tịch thu các cơ sở thờ phượng, bắt bớ tu sĩ, kiểm soát sự in ấn kinh
sách..vv.. Ngày 19.4.1999, thủ tướng Phan Văn Khải ký Nghị định số
26/199/ND-CP gia tăng các hạn chế nghiêm khắc.
Khi bị
quốc tế tố cáo, Cộng Sản ban hành vài biện pháp xoa diụ dư luận để rồi
khủng bố mạnh hơn. CS càng áp đảo, đức tin của các tín đồ càng gia
tăng. Điều đáng lưu ý là CS hiện khuyến khích các phong trào thiền
(không mang màu sắc chính trị), do chúng giựt dây, để tách các phần
tử nhẹ dạ ra khỏi khối tôn giáo.
Tổng kết,
hiện trạng không sáng sủa hơn trước, do sự thiếu đoàn kết giữa các tôn
giáo và do sự ủng hộ đầu môi của Liên Hiệp Quốc và của chính quyền
George W.Bush.
5-
HP: Linh mục Nguyễn Văn Lý bị Chính phủ Hànội biệt giam từ nhiều
tháng nay và, theo tin tức lọt ra bên ngoài, ngài hiện bị khủng hoảng
tinh thần trầm trọng khiến các tổ chức quốc tế tranh đấu cho nhân
quyền và gần đây, Quốc hội Hoa kỳ phải lên tiếng cực lực phản đối.
Luật sư nghĩ sao về thái độ im lặng của Toà thánh Vatican và Hội đồng
Giám mục Việt Nam?
LLT:
Hiện thời, Thiên chúa giáo là tôn
giáo duy nhất trên thế giới được đaị diện tại Liên Hiệp Quốc vì
Vatican hưởng quy chế của một quốc gia, có đầy đủ chủ quyền đối nội,
đối ngoại và có đặt Khâm sứ tại nhiều xứ. Đến nay, Hànội chưa bang
giao với Vatican. Bởi vậy, trường hợp cha Nguyễn Văn Lý thuộc thẫm
quyền giải quyết của Hội đồng Giám mục VN. Vì những lý do không được
biết, Giám mục Nguyễn Văn Thế, bề trên trực tiếp của linh mục Lý, giữ
thái độ dè dặc cho đến nay. Sự kiện này gây hoang mang trong hàng giáo
dân hải ngoại.
Người
tín đồ lúc nào cũng phản ứng tự nhiên, không e dè, theo cảm nghĩ
riêng cấp thời. Vatican, trong vị trí một quốc gia, luôn luôn thận
trọng, cân nhắc mọi yếu tố và sự kiện, với một tầm nhìn suy toán để
tránh hậu quả bất lợi. Tôi còn nhớ một câu tâm tình riêng của Đức Hồng
Y Nguyễn Văn Thuậân lúc sinh tiền: “ Toà Thánh hành động khi biết
sẽ thắng”. Một điều chắc chắn là – với hệ thống giáo sĩ và giáo
dân liên lạc chặc chẻ tại VN - Vatican nhận được tin tức đầy đủ và
xác thực hơn cả những cơ quan tình báo tân tiến.
Sức khoẻ
tinh thần sa sút của cha Lý hiện gây nhiều lo ngại sau thời gian ông
bị CS biệt giam và bôi bẩn cá nhân.. Dưới sức ép của Quốc tế (Quốc
hội Mỹ, các tổ chức đấu tranh nhân quyền, Liên hiệp Aâu châu..), CS
vừa giảm án lần thứ hai cho cha Lý xuống 5 năm. Nhưng thế chưa đủ.
Chúng ta hãy chờ xem phản ứng của Vatican và Hội đồng Giám mục VN.
6- HP: Toà thánh Vatican chủ trương
“tha thứ và xoá bỏ hận thù”. Luật sư nghĩ sao về việc áp dụng
đường lối này với CSVN, nhất là sau khi Chính phủ Hànội vưà công bố
nghị quyết 36?
LLT:
Vì chưa nắm vững vấn đề, có dư luận cho rằng Toà
thánh Vatican chủ trương hoà giải hoà hợp vô điều kiện với CSVN và sẳn
sàng “quên quá khứ, xoá hận thù.” Nhận xét này có phần hấp
tấp. Trọn bộ Thánh Kinh – đúng vậy - đã nhắc lại 43 lần đến hai chữ “tha
thứ” trong 37 trường hợp khác nhau. Chúa Jésus từng dạy các môn
đệ: “Các ngươi hãy giữ lấy mình. Nếu anh em ngươi đã phạm
tội, hãy quở trách họ. Và nếu họ ăn năn, thì hãy tha thứ” (Lu-ca
17:3). Theo lời huấn dụ này, chính bản thân người tín đồ phải tránh
phạm tội. Nếu anh em nào đã phạm tội thì phải tố cáo, quở trách. Và
muốn được tha thứ, phải thật lòng ăn năn. Không có đoạn nào trong
Thánh Kinh chủ trương tha thứ cho những con cáo già đội lốt cừu non,
ngoan cố, không chiụ sám hối. Tha thứ là bỏ qua, chớ không có nghĩa
là quên, là khiếp nhược không nhắc đến hay dung dưỡng điều sai trái,
bất công. Nhắc lại tội ác không phải để thù hằn mà để giúp người khác
hiểu rỏ sự thật và tránh tái phạm.
7- HP: Sau vụ xì căn đan sách nhiểu tình
dục trong hàng giáo phẫm Hoa kỳ, có một khuynh hướng trong giới Công
giáo Mỹ đòi hỏi người tín hữu phải được tham gia vào việc giảng dạy
giáo lý và xây dựng Giáo hội. Luật sư nghĩ sao về khuynh hướng này?
LLT:
Tôi hoàn toàn đồng ý. Công Đồng Vatican
II (1962-1965) do Giáo hoàng Gioan XXIII triệu tập và Giáo hoàng Phao
Lồ VI tiếp tục cũng như Tông huấn Christefideles Laici, Người tín
hữu giáo dân ngày 30.12.1988 của Giáo hoàng Gioan Phao lồ II hướng
dẫn Ki tô hữu kiểm điểm toàn thể sinh hoạt nội bộ cũng như đường lối
đối ngoại của Hội Thánh. Các tín đồ được khuyến dụ phải khiêm tốn sửa
sai thiếu sót, canh tân và gánh vác trách nhiệm đối với vấn đề vô
thần và hiệp nhất với các anh em ngoài Công giáo.
Muốn cứu
rổi nhân loại, Đạo phải nhập Thế. Hàng giáo phẩm cần cập nhật hoá sự
hiểu biết về các nhu cầu của thời đại và lương thiện tu chỉnh khi hành
động sai trái. Theo Giáo luật, tín hữu có quyền và có trách vụ góp
phần xây dựng Đạo vì phúc lợi của Giáo hội (Canon 212, mục 3). Giáo
hoàng Felix III đã nói: “Không chống sự sai trái tức là chấp nhận
sự sai trái. Không bảo vệ sự thực, tức là xoá bỏ sự thực. Không đương
đầu với kẻ làm sự ác khi mình có thể, tức là cổ võ kẻ ấy.”
Ngày nay,
người giáo hữu phải chiến đấu đồng lúc trên hai mặt trận: bảo vệ Giáo
hội chống sự phá hoại từ bên trong của các Lực Lượng Aâm phủ vàø áp
lực Cộng sản tôn trọng nhân vị. Đòi hỏi này vượt lên trên luân lý cá
nhân. Vì nó là tiêu chuẩn nền móng để xây dựng cơ cấu xã hội mà mục
tiêu tối thượng là Con Người. Tôn giáo không còn là ngọn hải đăng soi
đường trong đêm tối nếu hết trong sáng.
Mặt khác,
Thánh Gioan Bosco từng nói chí lý: “Muốn trở thành thánh nhân,
trước hết phải thành nhân”. Một công dân mất gốc không thể
trở nên một tín đồ đắc đạo. Đức tin có thể đổi thay nhưng không xoá bỏ
đưọc nguồn gốc tổ tiên. Lòng yêu nước đã có trước khi tôn giáo khai
triển trong giáo lý vì thuộc bẩm tính của con người.
7-
HP: Để kết thúc, xin Luật sư cho biết ý
kiến về vai trò của các tôn giáo nói
chung trong
công cuộc phục hưng đất nước Việt Nam.
LLT:
Trong hiện tình
VN, tôi thiển nghĩ không có một tổ chức nào “thuận ý Trời
và hạp lòngù dân” bằng các tôn giáo để tái thiết Quê hương. Với điều
kiện, dĩ nhiên, phải liên kết để đấu tranh. Đây là vấn đề khó nhưng
không bất khả thi.
Các
tôn giáo có uy thế bên ngoài và nội lực bên trong. Bất luận giáo
thuyết nào cũng chủ trương hoà bình, đề cao từ bi bác ái và kêu gọi
tha thứ. Chỉ có tôn giáo mới có thể đóng vai trò trung gian hữu hiệu
và tạo được sự đồng thuận vững chắc để hoá giải những hận thù và nghi
kỵ. Qua những thử thách đau thương, tôn giáo có đủ kinh nghiệm để
tránh sa vào cạm bẩûy hoà hợp gian manh của CS. Để biến thời cơ
thành cơ may thống nhất nhân tâm. Nói tóm tắc, tôn giáo có đủ chức
năng và đặc tính cần thiết để giúp giải quyết cuộc khủng hoảng toàn
diện của xứ sở. Tình trạng thê thảm này - do CS tạo ra - bắt nguồn từ
một cuộc khủng hoảng đạo lý. Cộng sản vô thần, vô luân và vong
bản.
Nếu
thế hệ này, thuộc đôi bờ, Quốc gia và Cộng sản, không bắt tay nhau
phục hưng Đất nước thì phải đợi cho đến thế hệ sau, lớp người sinh
ngoài chiến tranh, không biết hận thù ân oán là gì và vì thế, không
cần hoà giải hoà hợp. Nhưng chừng đó, có quá trể hay không? phải trả
với giá nào? xứ sở sẽ tụt hậu đến đâu?
Để kết
thúc, nếu CSVN vẫn tiếp tục trấn áp tôn giáo một cách u tối, chúng sẽ
sớm suy vong. Hữu thần và vô thần xung khắc như ánh sáng và bóng tối,
như nước và lửa. CS là sức mạnh của bắp thịt. Tôn giáo là sức mạnh của
tâm linh. Giữa cái thiện và điều ác, Thượng đế không trung lập. Lý
thuyết CS đang rảy chết. Tôn giáo hiện trên đà hồi sinh. Bởi thế, khi
đụng độ với tôn giáo, Cộng sản chắc chắn sẽ thua.
Rồi ngày mai, trời lại sáng.
Xin thân chào các thính giả.