Thu Hằng
Trương Vĩnh Ký : Chiếc cầu nối Đông-Tây
Cuộc đời và sự nghiệp của ông nhận nhiều ý kiến trái chiều. Một số người nhìn nhận ông như tay sai của thực dân Pháp. Một số khác thì ghi nhận ông như người đặt nền móng cho nhiều lĩnh vực chưa từng được biết đến tại Việt Nam trong giai đoạn đó, như dịch thuật, báo chí và viết văn.
« NHÀ VĂN VIỆT NAM. SÁNG LẬP RA NGÀNH BÁO CHÍ TẠI VIỆT NAM, ÔNG CŨNG LÀ TÁC GIẢ CỦA NHIỀU TÁC PHẨM LỊCH SỬ, GIẢNG DẠY, NGÔN NGỮ VÀ DỊCH THUẬT CÁC TÁC PHẨM TẦU ».
ĐÂY LÀ LỜI GIỚI THIỆU VỀ JEAN-BAPTISTE PÉTRUS TRƯƠNG VĨNH KÝ (06/12/1837-01/09/1898) CỦA TỪ ĐIỂN CÁC DANH NHÂN CỦA LAROUSSE. ÔNG CŨNG ĐƯỢC GIỚI HỌC THUẬT CHÂU ÂU THẾ KỶ XIX LIỆT VÀO MỘT TRONG « THẾ GIỚI THẬP BÁT VĂN HÀO » , ĐỒNG THỜI ĐỨNG TRONG HÀNG NHỮNG NGƯỜI BIẾT NHIỀU NGOẠI NGỮ BẬC NHẤT TRÊN THẾ GIỚI NHỜ THÔNG THẠO 10 NGOẠI NGỮ VÀ NẮM SƠ MỘT SỐ KHÁC.
Cuộc
đời và sự nghiệp của ông nhận nhiều ý kiến trái chiều. Một số người
nhìn nhận ông như tay sai của thực dân Pháp. Một số khác thì ghi nhận
ông như người đặt nền móng cho nhiều lĩnh vực chưa từng được biết đến
tại Việt Nam trong giai đoạn đó, như dịch thuật, báo chí và viết văn.
Sinh
tại ấp Cái Mơn, huyện Vĩnh Thành, tỉnh Vĩnh Long (nay thuộc huyện Chợ
Lách, tỉnh Bến Tre), Trương Vĩnh Ký, còn được biết tới dưới các bút
hiệu « Sĩ Tải » hay « Nam Trung ân sĩ », nổi tiếng với học thức uyên bác, am tường nhiều lĩnh vực và khả năng ngoại ngữ siêu phàm. Ngay
từ nhỏ, nhờ trí thông minh, nhanh nhẹn, ông được linh mục Long đưa vào
trường dòng học chữ la tinh ở Cái Nhum (thuộc tỉnh Vĩnh Long ngày nay).
Từ đó, ông được bôn ba du học tại nhiều nước trong khu vực, từ Cam-bốt
tới Cao Miên hay Pinang (Malaysia). Tại mỗi nơi, được gặp gỡ bạn đồng
môn quốc tế, ông vận dụng khiếu ngoại ngữ để học tiếng nói của họ. Tới
năm 1858, khi quay về quê chịu tang mẹ, ông đã thành thạo khoảng chục
ngoại ngữ và am tường văn chương, khoa học, triết học. Năm đó, ông mới 21 tuổi.
Năm
1860, dưới sự chỉ huy của Đô đốc Bonard, người theo chủ trương tôn
trọng ngôn ngữ và phong tục bản địa, quân đội Pháp chuẩn bị tấn công Sài
Gòn và cần một thông dịch để tránh mắc sai lầm về chính trị. Linh mục
Lefèbvre trông coi địa phận Nam Kỳ đã giới thiệu Trương Vĩnh Ký. Bắt đầu
từ công việc thông dịch, dần dần ông tham gia nhiều lĩnh vực khác, đặc
biệt phải kể đến báo chí và xuất bản, trước khi tham gia chính trị để
rồi cuối đời gần như về ở ẩn và viết sách do bị cả chính phủ thuộc địa Pháp và triều đình nhà Nguyễn nghi kị.
Cầu nối Đông-Tây ?
Vai
trò cầu nối Đông-Tây của Trương Vĩnh Ký có thể được thể hiện trên nhiều
lĩnh vực, trong đó phải kể tới dạy học, dịch thuật và làm báo.
Theo nhận xét của Nguyễn Cao Kim trong bài « Thân thế và sự nghiệp của Trương Vĩnh Ký » , «
ông giữ thái độ đặc biệt không đi quá trớn. Sau khi được đô đốc Bonard
mời ra giúp việc, ông đã chấp thuận với ý định tạo nên bầu không khí
giao hảo giữa Pháp và Việt Nam. Cũng vì nghĩ như vậy nên lúc làm thông
ngôn (20-12-1860), hay lúc làm Đốc học trường thông ngôn Sài Gòn, ông
vẫn chủ trương giúp cả hai nước mà chẳng nhị tâm ».
Phải
chăng, Trương Vĩnh Ký chỉ muốn tận dụng cơ hội và vị trí của mình để
xoa dịu những mất mát của người dân do chiến tranh gây ra và sau đó là
cổ xúy cho tân trào ?
Năm 1861, đô đốc Charner, người kế nhiệm và đi ngược với chính sách bị coi là « mị dân » của
đô đốc Bonard, cho phá đồn Chí Hòa (Kỳ Hòa). Hiểu rõ nỗi thống khổ của
người dân, Pétrus Ký muốn làm dịu vết thương chiến tranh bằng cách đứng
ra làm gạch nối cho sự giao hảo Pháp-Việt. Có lẽ vừa do phẩm chất, vừa
do trình độ, nên nhiều lần, ông được cử làm thông ngôn cho sứ bộ hai
bên, trong đó phải kể tới chuyến sang châu Âu của phái đoàn Phan Thanh
Giản (06/1863-03/1864) đàm phán với triều đình Pháp và Tây Ban Nha việc
chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường).
Trong
thời gian lưu lại châu Âu, Trương Vĩnh Ký đã khám phá tinh hoa của nước
Pháp và tìm hiểu tại sao người Pháp có thể tới đánh chiếm một nước xa
xôi như Việt Nam. Ngược lại, ông cũng đã khiến triều đình Pháp thán phục trước sự thông tường chữ la tinh. Để
thử tài của ông, một Bộ trưởng Pháp, trong lúc đón phái đoàn, đã để ông
nói chuyện với một chuyên gia chữ la tinh hàng đầu của chính phủ.
Trong cuốn Impressions d’un Japonais en France, suivies des impressions des Annamites en Europe (Ấn
tượng của một người Nhật tại Pháp, tiếp theo là ấn tượng của người An
Nam tại châu Âu, 1864), Richard Cortembert miêu tả cuộc đối thoại giữa
Pétrus Ký và nhà la tinh học lỗi lạc của Pháp thời bấy giờ như sau :
«
… Đôi khi, nhà bác học Pháp phải chờ đợi vài giây trước khi kết thúc
đoạn hội thoại của mình và dường như phải quanh co để không bị đuối.
Trái lại, chàng phiên dịch An Nam lại cứ thoải mái nói hơn bao giờ hết ;
cứ như từng giây một, cậu ta lại có thêm sinh lực mới… Những lời giải
thích của cậu trở nên chính xác, rõ ràng hơn, trong khi đó, đối thủ của
cậu luẩn quẩn trong cách nói dài dòng và không chính xác. Có lúc, như
đuối sức, nhà ngôn ngữ học nổi tiếng phương Tây trả lời luôn bằng tiếng
Pháp trước câu hỏi bằng tiếng la tinh của Pétrus ; chàng thanh niên An
Nam phản lại bằng tiếng la tinh, và người ta lại trả lời bằng tiếng
Pháp… »
Từ
năm 1866 tới 1879, ông lần lượt được đề cử làm Giám đốc dạy tiếng Đông
phương ở trường Thông ngôn (Collège des Interprètes (1866-1868)), rồi
Giám đốc Trường sư phạm (Ecole normale, 01/01/1872-31/12/1873) và cuối
cùng là Giáo sư sinh ngữ (tiếng Việt và Hán tự) tại trường Tham biện Hậu
bổ (Ecole des Administrateurs stagiaires, 01/01/1874-1879).
Đây
là khoảng thời gian mà ông soạn nhiều sách và giáo trình để phục vụ cho
công việc giảng dạy. Đối với người Pháp là giáo trình dạy chữ Hán và
quốc ngữ, địa lý và lịch sử Việt Nam. Đối với người Việt, phần lớn cũng
là sách dạy chữ quốc ngữ và tiếng Pháp. Ngoài ra, nhận thấy người Pháp
mở trường tiểu học nhưng « quên » soạn và in sách, ông đã biên
soạn nhiều sách giáo khoa, đồng thời luôn có những lời khuyên răn đạo
đức cho trò nhỏ mà có thể thấy trong cuốn Sơ học vấn tân quốc ngữ diễn
ca (1877) :
«
Sách Sơ học vấn tân nghĩa là kẻ mới học hỏi bền là sách Annam làm cho
con-nít học cũng như bên Tàu Tam-tự-kinh vậy. Sách nầy tóm cả truyện bên
Trung-quốc cả truyện bên nước Nam ta nữa ; lại có kể ra phép học, bài
thi, khuyên gắng công học cho chuyên.
Vậy
nay âm ra ba thứ tiếng để cho con-trẻ học mà phá ngu, cùng tập lần cho
biết cho dễ học sách cao đến sau ; đã có chữ có nghĩa lại có tiếng
phangsa một bên, học một mà biết ba thì cũng tiện lắm.
Học
thì chẳng phải là học cho biết viết chữ, cho thuộc tiếng nói mà-thôi,
mà lại phải học nghĩa-lý phép-tắc, lễ-nghi, cang-thường luân-lý, là
giềng-mối mà xử-trí trong việc ăn-ở trong đời với thiên-hạ. Ấy là lịch
ấy là thanh. Nên phải do cựu tùng tân mới là phải, chẳng nên mới chuộng
cũ vong mà mang lấy tiếng « yểm cựu nghinh tân ». Vì « vật hữu bổn mạt,
sự hữu thỉ chung ; tri sở tiên hậu tắc cận đạo hỉ ». »
Tại thời điểm đó, tác giả không phải bận tậm việc phân phối sách nhờ trợ cấp của chính phủ và thường viết theo « đặt hàng ».
Vì không phải lo lắng tới việc phân phối và nhuận bút, nên tác giả hoàn
toàn có thể chuyên tâm vào việc nghiên cứu để tác phẩm có chất lượng
tốt. Hoặc nếu nhận thấy một tác phẩm có ích, nhà nước sẽ xét duyệt ngân
sách để mua và phân phối tới các trường học, thư viện hay các phòng ban
hành chính.
Cũng
trong giai đoạn này, ngoài sách dạy học, ông cũng chuyên tâm dịch các
bộ sách cổ của Tầu, như Tứ Thư (1876) (Đại học, Trung dung, Luận ngữ và
Mạnh Tử). Một số ý kiến cho rằng, dù theo Công giáo, nhưng ông vẫn giữ
truyền thống nho giáo phương Đông và muốn duy trì những tư tưởng này cho
thế hệ sau.
Tư
tưởng này cũng nổi bật rõ nét trong những câu chuyện mà ông biên soạn
sau khi từ giã quan trường lui về ở ẩn. ông chuyển thể sang chữ Quốc ngữ
những chuyện thơ dân gian, hay viết những câu chuyện đơn giản, dễ hiểu
đầy ngôn từ địa phương. Ví dụ có thể kể đến các cuốn : Bất cượng chớ
cượng làm chi (1882), Nữ tắc (1882), Thơ mẹ dạy con (1882), Thơ dạy làm
dâu (1882), Thạch suy bỉ thới phú (1883), Học trò khó phú (1883), Phú
bần truyện diễn ca, Cờ bạc nha phiến (1884)… Trong lời tựa của mỗi cuốn
sách, ông đều tìm cách giải thích cho người đọc ý nghĩa câu chuyện, bài
học đạo đức và giải thích phong tục tập quán. Như trong cuốn Thạnh, suy,
bỉ, thới có những dòng tâm sự sau :
«
Phú nầy nói về làm con người ở đời thì có sự thạnh, sự suy, sự bỉ, sự
thới. Lúc thạnh thì khiến cho được giàu-có sang-trọng. Của-cải bạc-tiền,
ngọc ngà châu báu chẳng thiếu vật chi. Đã giàu mà lại thêm sang,
tôi-mọi hầu-hạ trong ngoài, khách kẻ tới người lui chật nhà chật cửa.
Đến lúc suy cũng như hùm mạnh sa cơ, nhà-cửa xích-xác, trống trước trống
sau, cũng như Vương-khải với Thạch-sùng khi nghiên-nghèo sánh lại với
buổi giàu-sang, xa cách nhau biết là bao nhiêu ? Khi bỉ thì khốn-khó lút
đầu lút óc, trí phải khó-nhọc buồn-rầu, xác phải nhọc-nhằn công lên
việc xuống ; ăn bữa no bữa đói, đi thất-thơ thất-lạc. Đến khi gặp hồi
thới lai, thì lại ra tử-tế, nên giàu nên sang, quan yên dân chuộng kẻ
đưa người rước ; việc gì việc nấy đều may-mắn cả, phỉ-chí toại lòng.
Vậy
mới biết việc đời xây-vần dời-đổi. Nên dầu nghèo dầu giàu cũng chẳng
nên lo ; hễ hết thạnh thì tới suy, suy rồi lại thạnh ; hễ có qua cực rối
lại sướng, sướng rồi lại tới cực đắp-đổi nhau. Có vậy mới từng mùi đời,
mới biết thạnh suy bỉ thới ».
Nhìn vào danh sách tác phẩm của Trương Vĩnh Ký, có thể nhận thấy rằng ngoài kiến thức siêu phàm, phải có tâm huyết cao, ông mới có thể soạn ra các tác phẩm với những chủ đề đa dạng như vậy.
Nhà trí thức vì tân trào
Mong
muốn duy tân đất nước của ông được thể hiện rõ ràng ngay trong chuyến
công du lần đầu tới nước Pháp. Cũng như nhiều quan lại trong phái bộ,
ông ý thức rằng văn minh, nông nghiệp và công nghệ châu Âu đã tiến xa
rất nhiều so với phương Đông. ông nuối tiếc nêu những điểm yếu của Việt
Nam trong bức thư gửi Richard Cortembert :
«
Ở An Nam, đất đai rất mầu mỡ ; nhưng không được tiếp xúc với nhu cầu
lao động nên tâm trí luôn trong trạng thái « ăn không ngồi rồi »… Đối
với những người đứng đầu nhà nước, vấn đề không phải là phải thay đổi An
Nam, mà là phải đấu tranh chống sự trây ì… Và có bao nhiêu điều mê tín
phải loại bỏ, bao nhiều phong tục phải cải tổ lại, bao nhiêu định kiến
phải tiêu diệt, bao nhiêu tính kiêu căng sẽ bị động chạm tới trong chiến
dịch tổng cải tổ này ! »
ông chỉ trích quan lại Việt Nam quá cố hữu trong những chuẩn tắc của chính mình. Dù có trình lên những gì « mắt thấy tai nghe » tại
châu Âu, hay có đưa ra những đề xuất gì, chưa chắc phái bộ Phan Thanh
Giản đã thuyết phục được triều đình thay đổi ý kiến. ông cũng lo lắng vì
quan lại không nghĩ tới dân, mà chỉ muốn làm vui lòng vua nhà Nguyễn
với những tin tức hay sự kiện vui vẻ. Trong khi đó, họ giấu nhẹm những
tai ương, đói khổ mà người dân cam chịu.
Ngoài ra, hơn ai hết, ông cũng hiểu được những khó khăn trong việc phổ biến học thuật mới bằng chữ Tầu. ông băn khoăn tự hỏi : «
Làm thế nào để có thể truyền bá kiến thức với loại chữ tượng hình với
hàng loạt kí tự khó này ? Tôi không phủ nhận rằng người ta có thể tiếp
nhận khoa học với loại chữ này. Nhưng chỉ toàn bất tiện và khó khăn mà
thôi. Để có thể đọc và hiểu được tốt những gì loại chữ này thể hiện, một
người phải mất ít nhất cả tuổi thanh xuân của mình ; anh ta chẳng bao
giờ có đủ thời gian để bắt tay nghiên cứu những công trình khoa học.
Đồng
hương của tôi tạo thành một dân tộc dễ sai khiến, hay bắt chước, nhưng
lại hoàn toàn trây ì ; tôi thấy rằng, ở đây, lỗi chủ yếu là do nhà nước.
Họ không chú tâm vào khích lệ hay thức tỉnh dân tộc » .
Chính
vì thế, ngoài viết sách, báo chí cũng là công cụ hữu hiệu để ông thử
nghiệm việc truyền bá học thuật bằng chữ quốc ngữ. Trước khi ông được bổ
nhiệm làm « chánh tổng tài » (rédacteur en chef), Gia-định báo
chỉ đơn thuần là một tờ công báo của chính phủ Pháp tại Nam Kỳ. Tờ báo
dịch đăng những thông tin bằng tiếng Pháp của tờ Le Courrier de Saigon.
Tờ công báo này có nội dung nghèo nàn và ngôn từ khô khan với hai phần
: « Phần Công vụ » với những thông tư, văn bản mới được công bố và « Phần Tạp vở » với những thông tin thuyên chuyển, bổ nhiệm hay giá cả một số mặt hàng.
Làm
chánh tổng tài từ số 20 (24/09/1869), ông đã biến tờ báo thành một cơ
quan phong phú, đa dạng hơn. ông khuyến khích viên chức nhà nước, giáo
viên tham gia viết bài về bất kì chủ đề gì, từ cuộc sống đời thường tới
những bài học khuyên răn đạo đức, từ dịch chuyện hay viết văn bằng chữ
quốc ngữ... Ngoài các cơ quan nhà nước và địa phương, tờ báo cũng được «
phát không tới các trường học để học sinh khá trong các làng mạc có thể
đọc được » (Le Courrier de Saigon, số 7, 05/04/1865).
Chính
vì thế, Gia-định báo giữ hai chức năng chủ đạo. Thứ nhất, là chiếc cầu
nối nhằm tránh những hiểu lầm giữa chính phủ và người dân. Mục đích này
được ông viết trong lời tựa số 20 :
«
Những thầy trường quốc ngữ thì trễ nải, hoặc chẳng đọc nhựt trình cho
học trò hay là người làng nghe, hoặc có khi chẳng hiểu cho rõ, kẻ hay
chữ thì chẳng hay cắt nghĩa cho người ta biết với. Quan Nguyên-Soái
người muốn cho người ta đừng có làm như vậy nữa, thì người phú cho ta
việc đặt nhựt trình nầy kẻo người ta nói đặng rằng không hiểu, cũng là
cho người ta biết những điều viết trong nhựt trình là đều thật và có
ích.
Nhựt
trình nầy có ích cho mọi người vì trong ấy có đủ mọi đều về dân sự,
lịnh quan Nguyên Soái dạy, ý người về sau làm sao cùng là cách thế người
làm. Trong ấy người ta biết được các tin tức buôn bán. Ở trên Châu-Đốc
Hà-Tiên đều biết được giá hàng tại Saigon Chợ-Lớn. Mà ngồi một chỗ khỏi
đi đâu, nên muốn mua muốn bán cũng gặp chầu, lại biết cho đến giá riêng
đồ các chợ lớn ở các nơi. » (Gia-định báo, số 20, 24/09/1869).
Mặt
khác, trong một thời gian dài, Gia-định báo được dùng làm sách dạy đọc
chữ quốc ngữ tại các trường học ở nông thôn. Trên thực tế, chính phủ
Pháp lập trường nhưng lại không tập trung soạn sách giáo khoa. ông hiểu
rằng nhắm tới học sinh nhỏ, sẽ tác động được tới cha mẹ của các em. Vì
các em thường kể những gì mình học được và nghe được cho gia đình.
Từ một tờ công báo đơn thuần, ông đã biến Gia-định báo thành
một cơ quan truyền bá với ba mục đích chính : truyền bá chữ quốc ngữ,
cổ động tân học và khuyến học trong dân. Các mục mới như khảo cứu, nghị
luận, gồm các bài dịch thuật, sưu tầm, khảo cứu, sáng tác thơ, văn, lịch
sử, truyện cổ tích lần lượt được mở với sự tham gia của các cộng tác
viên là trí thức, giáo viên hay công chức… Gia-định
báo đã mở đường cho các thể loại văn xuôi Việt Nam in bằng chữ Quốc
ngữ, đặt nền móng cho sự hình thành báo chí Việt Nam.
Dù
cổ vũ tân trào, Trương Vĩnh Ký luôn giữ những giá trị truyền thống
phương Đông, đặc biệt là trang phục áo dài, khăn xếp. Chính cách ăn mặc
giản dị, cũng như thần thái khoan dung của một nhà nho học, lúc đó mới
có 25 tuổi, đã khiến Richard Cortembert ngỡ ngàng khi tiếp xúc tại
Paris. ông viết : « Diện mạo của cậu ta (Trương Vĩnh Ký) khác hoàn
toàn với những người khác cùng đoàn ; - tuy sắc mặt có vẻ xanh xao hơn,
mũi tẹt hơn ; đôi môi thì dầy, còn gò má thì cao, nhưng vầng trán thì
rất rộng làm nổi rõ tính cách quân tử. Trang phục của cậu ta, vô cùng
giản dị, gồm một kiểu như váy đen khiến liên tưởng tới váy trùm của thầy
tu. Một dải băng dài màu xám cuốn xung quanh đầu và để hé vài sợi tóc
đen phía sau…
Tôi
nhanh chóng nhận thấy sự thông minh nổi trội và những phẩm chất thanh
cao của chàng phiên dịch trẻ, mà giọng nói nhẹ nhàng đầy thiện cảm đã
cuốn hút tôi ngay lập tức… Rất
dễ để nhận thấy rằng chuyên môn ưa thích của cậu ta là thần học. Cậu ta
nói chuyện về chủ đề này, không hề tự phụ, với một cách dẫn giải khó
lòng cưỡng lại được. Cậu ta ở đúng bộ môn mình ưa thích, lĩnh vực mà cậu
đã trau dồi từ lâu và thấu hiểu tường tận : cậu ta mới chỉ có 25 tuổi !
»
Chênh
vênh ở thế giữa, ông chọn làm cầu nối trung gian giữa hai nền văn minh
Đông và Tây : hai thái cực mà một bên ông ngưỡng mộ, còn bên kia, ông
thương yêu gắn bó. ông tìm cách phổ biến những gì tiên tiến tốt đẹp của
phương Tây mà Việt Nam chưa có. Đồng thời, ông vẫn bảo tồn và quảng bá
những truyền thống của người Á đông. Gần 200 tác phẩm ông để lại, gồm đủ
các loại tiếng, giúp chúng ta phần nào đánh giá được sự nghiệp và lương
tâm nghề nghiệp của ông.