GS.Lê Hữu Mục
Hội Văn Hóa Việt Phỏng Vấn GS. Lê
Hữu Mục
về HUYỄN THOẠI Hồ Chí Minh
Tinh Vệ (D.T.)
về HUYỄN THOẠI Hồ Chí Minh
Tinh Vệ (D.T.)
Nhân chuyến Nam Du hay Hoa
Kỳ Du, học giả Lê Hữu Mục có dành cho chương trình phát thanh của Hội Văn Hóa
Việt một cuộc phỏng vấn tại San Jose, tiểu bang California.
Bài phỏng
vấn này do giáo sư Trần Công Thiện, đồng nghiệp của giáo sư Lê Hữu Mục tại Đại
học Sư phạm Sài Gòn, và luật sư Đỗ Doãn Quế thực hiện ngày 8 tháng 6 năm
2003, phát thanh sáng và chiều chủ nhật, đồng thời đưa lên mạn lưới toàn cầu
với website của Đài Quê Hương. Chúng tôi dựa theo những câu trả lời của GS Mục,
sắp xếp lại, bàn thêm, viết thành bài này.
Học giả Lê Hữu Mục là giáo
sư Đại học Văn khoa và Sư phạm, ông đậu đầu kỳ thi Tiến sĩ Văn chương Việt Nam
dành cho các giáo sư đại học năm 1970. Ông còn là nhà biên khảo, nhà phê bình
văn học, nhà nghiên cứu triết học và tôn giáo và là nhạc sĩ nữa. Ngoài khoảng
trên 20 tựa sách, những bài diễn văn quan trọng, bài viết đăng báo, ông viết
cuốn "Hồ Chí Minh không phải là tác giả
Ngục Trung Nhật Ký" gây nhức nhối cho cộng sản Việt Nam. Cuốn sách
này ông ra sức, tập trung ý chí và khả năng hoàn thành chỉ trong một tháng. Sở
dĩ ông phải viết nhanh như vậy để kịp phá vỡ huyền thoại "Nhân vật Văn hóa
Quốc tế mà Tổ chức UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp
quốc) dự định tôn vinh Hồ Chí Minh. Đây là chuyện cũ, nhưng cho đến bây giờ vẫn
là mới nên nhắc lại chuyện cái phao xẹp "Tư tưởng Hồ Chí Minh" mà
nhóm bạo quyền cố bám vào để tàn dân hại nước.
Với phương pháp dùng
textology (văn bản học), hệ thống hóa lại, tìm ra những mâu thuẫn và sai lầm
rất vững vàng, tác giả đã minh chứng rằng: Hồ
Chí Minh là kẻ đạo văn. Chúng ta đã biết người cộng sản dùng bất cứ
phương tiện nào dù xấu xa, vô nhân, vô đạo, vô luân nhất để đạt đến mục tiêu.
Mượn đầu heo nấu cháo, lợi dụng xương máu dân lành để nhận công của đảng mình
chưa đủ, họ còn muốn làm anh hùng Văn Hóa Quốc tế nữa. Nhóm bồi bút Viện Văn
Học dựa trên sự mạo nhận của Hồ Chí Minh, ăn cắp văn của người khác, để thổi
phồng tập thơ nhật ký lên một cách lố bịch và trơ trẽn.
Mở đầu cuộc phỏng vấn ông
Mục cho biết sau ngày 30 tháng Tư, 1975 ông tìm đường đào thoát mấy lần nhưng
đều thất bại. Trong những giáo sư ĐH Sư Phạm bị kẹt lại có ông Khoa trưởng Trần
Văn Tấn, GS Trần Kim Nở… Những người chủ mới của Trường Sư Phạm miền Nam, ngoài miệng thì nói những câu: đoàn kết,
xóa bỏ hận thù, hòa giải Bắc Nam,
nhưng trên thực tế chỉ là những lời giả dối, xảo trá. Họ hứa hẹn nhiều, nhưng
chẳng thực hiện được gì. Họ ở trong tư thế chờ đợi chỉ thị ở Bộ Chính Trị, họ
xa cách, lạnh lùng với các GS còn kẹt lại. Các giáo sư ngơ ngác, đúng cảnh
" hàng thần lơ láo…" của Nguyễn Du, tuy bị bắt buộc phải thua cuộc.
Vẫn vỏ ngoài, qua những cuộc
tiếp xúc, họ giả vờ tìm cách ve vãn, mời mọc, nhưng "nói vậy nhưng không
phải vậy". Các GS miền Nam
đúng ngồi không yên, không biết phải làm gì, không biết đi đâu, hoang mang,
chán nản. Điều xúc phạm đầu tiên là cách xưng hô "anh chị" kỳ cục.
Trước kia có tôn ti trật tự, là thày là giáo sư, là ông, bà. Giờ đây là anh chị
cá mè một lứa. Thậm chí ông Mục còn khôi hài nói "trường sở vốn là của
mình, nơi mình làm việc dạy học bao nhiêu năm, bây giờ không biết là sẽ đi tiểu
ở đâu?"
Hà Nội lộ mặt thật qua vụ
ông Lê Trí Viễn vào Nam
"lên lớp" các thày miền Nam. Ông cán bộ giáo dục này tấn
công nền sư phạm miền Nam
nặng nề. Ông ta chê là miền Nam
không có một giáo trình quy củ, đàng hòang, không có cuốn sách nào là sách giáo
khoa chính thức, không có một tác phẩm nào tiêu biểu cho sư phạm của một nền
đại học. (Ông Lê Trí Viễn đã dùng nền giáo dục một chiều, chật chội của chế độ,
để so sánh với chủ trương nền dục khai phóng ở miền Nam). Ông ta dùng những lời đả kích
mạnh mẽ, vì ông ta ở thế thượng phong, thế của kẻ thắng. GS Mục là Trưởng Ban
Việt-Hán đại diện cho nhóm sư phạm kẻ bại trận (trong nhóm có GS Trương Văn
Chình là GS ngôn ngữ học nổi tiếng).
Mở đầu ông Mục cũng nói vài
lời khiêm tốn, nhưng càng về sau, càng bị bực bội, nên hơi mất bình tĩnh, tấn
công trở lại nhóm GS miền Bắc. Ông cho biết ông đã đọc hết tài liệu giảng dạy
dành cho giáo sinh miền Bắc và đánh giá rằng những tài liệu đó cũng không có
giá trị cao, chỉ đáng quay ronéo phát cho giáo sinh làm tài liệu nội bộ thôi.
Ông cũng phản pháo lại, cho biết là ngoài ấy cũng không có tác phẩm giáo khoa
nào xứng đáng.
Một chuyện khác diễn ra để
chúng ta thấy cái máy móc, một chiều của Hà Nội. Ông
Hoàng Xuân Nhị được coi là một giáo sư gạo cội, từng đi du học bên Pháp
và Liên Xô, vào Sài Gòn thuyết trình về thơ của Hồ Chí Minh. Ông ta nói dài
dòng về cuốn Ngục Trung Nhật ký trước cử tọa cũng coi như các học viên, là các
giáo sư đại học, trong đó có GS Phạm Xuân Quảng, Lý Công Cần… Sau bài thuyết
trình, họ buộc các giáo sư phải thảo luận về nội dung cuốn sách. Mọi người ngỡ
ngàng, vì chưa ai đọc cuốn nhật ký xa lạ này cả, làm sao có đủ dữ kiện để thảo
luận, thu hoạch? Các giáo sư bán cái, đùn đẩy
cho ông Mục "vì ông rành chữ Hán" lên tiếng.
Ông Mục tuy chỉ là lần đầu
tiên nghe nói về Ngục Trung Nhật ký, nhưng với phản ứng mau lẹ và với kinh
nghiệm giảng dạy văn chương lâu năm, ông bắt
ngay được những khuyết điểm của cuốn sách. Ông cho biết cuốn thơ đó có
bốn khuyết điểm (Vì không đủ thì giờ phát thanh, ông Mục chỉ nêu lên hai khuyết
điểm). Thứ nhất thể thơ trong đó phần lớn là thơ bảy chữ bốn câu, thất ngôn tứ tuyệt. Thơ bảy chữ là thơ trang
trọng, nghiêm túc, còn thơ lục bát là thơ dân tộc, bình dân, nhưng dịch thất
ngôn sang lục bát dễ bị loãng, câu thừa, câu thiếu, tại sao lại dịch như thế?
Diễn giả họ Hoàng ngẫm nghĩ rồi trả lời: "Để thỉnh thị ý kiến ở
"trên" sẽ trả lời sau". Thấy cái lúng túng, e ngại, tránh né của
diễn giả là các GS miền Nam hiểu ngay được số kiếp văn nô miền Bắc đồng thời
hiểu được tương lai của mình.
Câu hỏi và là thắc mắc thứ
hai: Trong bài thơ Thụy bất trước có câu: "Mộng hồn hoàn nhiễm ngũ tiêm
tinh" (Không ngủ được, nên dịch là Sao năm cánh nhọn mộng hồn quanh), tại
sao lại dịch là: Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh? Kể ra ông Mục đã uống thuốc
liều, đã dám mó vào dái ngựa, dám đụng đến lá đảng kỳ của họ. Tất nhiên là
Hòang Xuân Nhị phải vội vàng tránh né ngay, nói như vẹt là "sẽ trả lời sau
khi thỉnh thị ý kiến ở trên. Đám văn nô, văn thi sĩ cung đình biết là dịch
gượng, sai và ẩu, nhưng cố nhét sao vàng vào đó để ca tụng là Bác tuy bị tù
nhưng lúc nào cũng nghĩ đến non sông đất nước. Đó là do câu thành ngữ Trung Quốc
"ngũ tinh liên châu" hàm ý diễn tả chuyện lành báo trước, chuyện xum
họp vui vẻ giữa vợ chồng.
Đáp câu hỏi, giới văn học
giáo dục có thường gặp giới giáo dục, văn học ngoài đó không, GS Mục cho biết
phần nhiều là "họ đến gặp tôi, tôi ít khi tìm gặp họ". Trong số đó có
nói chuyện với ông Hồ Lê, Nguyễn Đổng Chi,
Trần văn Giàu. Riêng ông Nguyễn Công Bình nhiều
lần mời cộng tác, nhưng tôi tìm mọi cách để từ chối. Cuộc tiếp xúc với
giáo sư Nguyễn Đổng Chi, bạn với tôi hồi còn ở Hà Nội trước 1945 là đáng ghi
nhớ nhất. Ông Nguyễn Đổng Chi là một học giả nổi tiếng, tác giả cuốn "Cổ
Văn Học sử", đã từng là Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội.[NĐ Chi là cha của Ng Huệ Chi]
Ông Chi mời ông Mục đến nói
chuyện ở Trung tâm Ngôn ngữ, trong một phòng dành riêng cho giáo sư. Sau nửa
giờ nói chuyện, ôn chuyện cũ, bàn chuyện ngày nay, ông Mục hơi ngạc nhiên thấy
ông Chi khóc, nước mắt tràn xuống hai gò má. Ông Chi vừa khóc vừa bảo bạn:
- Anh Mục
ơi, anh nên đi đi. Người ta không dùng anh đâu. Nên đi ra nước ngoài đi.
- Nếu không anh cũng sẽ phải
đóng kịch với họ như tôi thôi. Trong bao nhiêu năm nay, tôi đã phải đóng kịch
với họ mãi rồi!
Còn gì đau khổ cho bằng một
trí thức, một kẻ sĩ không dám sống thật với mình, với người, luôn luôn phải giả
dối để sinh tồn. Ông Chi đã chí tình khuyên ông Mục, vì tay ông đã bị nhúng
chàm, ông lỡ phải theo lao luôn.
Ông Mục cũng gặp nhà thơ
Xuân Diệu, ông Mục hỏi ông Xuân Diệu:
- Ngày xưa anh rất thành
công, chúng tôi qúy mến anh lắm. Nhiều nữ sinh chép thơ của anh học thuộc lòng.
Chúng tôi trong này dạy thơ Xuân Diệu ở Đại học Văn khoa. Còn bây giờ anh sáng
tác ra sao?
Xuân Diệu lừng khừng đáp:
- Tôi vẫn sáng tác như ngày
xưa.
- Chúng tôi không được đọc
bài thơ nào của anh hay như ngày xưa nữa!
- Tôi có viết cho tôi nữa
đâu. Tôi viết cho quần chúng đấy chứ.
Họ có trình độ thấp, ít học,
do đó tôi không thể viết ra những gì gọi là tinh hoa của tôi được.
- Vây anh có tin những gì
anh viết cho họ không?
Xuân Diệu vẫn lừng khừng
nói:
- Việc gì phải tin. Cần gì
phải tin.
Qua cách trả lời của Xuân
Diệu, chúng ta thấy ông ta vẫn còn tự kiêu, vẫn nuối tiếc thủa xa xưa, đồng
thời cũng vẫn sợ mất lập trường, tiêu thẻ đảng. Một nhà thơ công thần của chế
độ phát biểu là không tin những tín điều mình truyền bá ra cho quần chúng, sẽ
được đảng đối xử ra sao?
Ông Mục cũng tiếp Trần Văn
Giàu khi tay lý thuyết gia cổ thụ này mò đến dụ dỗ. Sau cơn địa chấn 30 - 4,
ông Mục cũng như các GS đại học khác bị cướp mất nhà dành riêng cho các giáo sư
đường Duy Tân, ông phải thuê một căn phòng ọp ẹp ở khu lao động. Không hiểu lấy tin tức ra sao ông Giàu lò mò kiếm
được nhà. Ông vừa đến trước cửa nhà thì bị vấp ngã xuống, ông Mục chạy
ra nâng ông ta dậy. Năm đó ông Mục ngòai 60, còn ông Giàu cỡ ngoài 70, tóc bạc
phơ, vừa vào đến nhà, ông Giàu nói ngay:
- Tôi biết
ông sắp đi Ca-na-đa. Tôi đến mời ông ở lại cộng tác với chúng tôi.
- Tại sao cụ lại để ý đến
tôi thế? Tôi cũng chỉ là một người dạy học bình thường như mọi người khác thôi.
- Tôi đã đọc sách của ông.
Ông viết rất đạt. Ông khác người ta chứ, ông có đủ ba điều kiện để làm một nhà
nghiên cứu, giảng dạy. Một là phải thông hiểu Hán và Nôm, mới đi vào văn hóa
Việt Nam được, ưu điểm hai là biết hai sinh ngữ Pháp, Anh để hiểu phương pháp
luận và nghiên cứu rộng rãi hơn. Ba là phải có tài viết văn. Nhiều người nói và
dạy học thì được, nhưng không viết được.
- Tôi sang Ca-na-đa vì được
gia đình bảo lãnh qua. Rất tiếc tôi không ở lại làm việc chung với cụ và các
ông được. Tôi thấy có giáo sư Nguyễn Văn Trung và giáo sư linh mục Thanh Lãng
dạy học rất giỏi.
Ông Trần Văn Giàu lắc đầu:
- Ông Trung chưa phải là nhà
nghiên cứu văn học, ông ấy chỉ là một ký giả khá thôi. Còn ông Thanh Lãng thì chỉ nên giảng đạo trong nhà thờ hơn là giảng ở
trường đại học.
Sau đó ít lâu họ có mời giáo
sư Thanh Lãng tiếp tục giảng dạy. Ông Mục nói: "Nghĩ cũng tức cười, một
người thì giục đi đi, một người thì kèo nài nên ở lại". Sau đó ông có dịp
đọc những tài liệu do ông Thanh Lãng viết, giảng, nói chuyện sau này và nói:
"Tôi thấy tội nghiệp, ái ngại cho ông ta quá. Ông Thanh Lãng đã phải nói,
phải viết những gì về tôn giáo, văn học và ngôn ngữ học mà chế độ muốn ông
viết". Nghe nói sau này khi tỉnh ngộ, ông tỏ ý chống đối và bị họ đánh
thuốc độc chết.
Để trả lời câu hỏi của giáo
sư Trần Công Thiện là do động cơ nào thúc đẩy mà giáo sư Lê Hữu Mục đã viết
cuốn "Hồ Chí Minh không phải là tác giả Ngục Trung Nhật ký", tác giả
cho biết:
"Chính là do bài thuyết
trình của ông Hòang Xuân Nhị, sơ khởi đã khiến tôi chú ý đến cuốn thơ nhật ký
đó. Không phải là do văn chương trác tuyệt và tư tưởng cao siêu gì mà là tôi
đặt nhiều nghi vấn. Những cán bộ thơ văn, phê bình, khảo cứu gì đó của Viện Văn
Học đã dùng cái chổi phù thủy thổi phồng lên, lừa dối chính họ, lừa dối dân
chúng và nịnh bợ lãnh tụ kiếm chút cơm thừa canh cặn. Đúng như nhà thơ, nhà văn
Vi Khuê ở Washington DC đã nhận xét: "Chẳng có giá trị gì để
chúng ta phải chú ý tới nó’.
"Sau nữa là khi tôi bị
tù về tội vượt biên, trong trại tù lập một tủ sách, có cuốn nhật ký đó, tôi
mượn về đọc vì có in chữ Hán trong đó. Những bạn tù người Hoa (Trung Quốc) đọc
xong và họ ngạc nhiên lắm. Họ nói giọng văn thơ
này là của người Tàu, không phải lối viết, lối nói của người Việt, chúng
tôi thấy quen thuộc lắm. Họ nói đúng ý tôi làm tôi càng chú tâm phải đọc kỹ. Rõ
ràng trong sách có tên ông già Lý người
Tàu, ai cũng để ý đến ông già này. Phải chăng chính ông già không rõ lý lịch
này mới là tác giả đích thực của tập thơ?
"Kịp đến khi tôi sang
đến Gia nã đại, gặp lúc Văn Bút Việt Nam đang thời kỳ tái lập ở hải
ngoại. Anh em Văn Bút lúc đó hoạt động hăng lắm, có nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn,
có nhà văn Trà Lũ, tức giáo sư Trần Trung Lương đồng nghiệp với tôi… Anh em
giục giã tôi viết để nói lên sự thật. Viết lên không phải để chê về mặt văn
chương và tư tưởng, phải lên tiếng vì sự mập mờ đánh lận con đen, chuyện nhận
vơ, chuyện Hồ Chí Minh đạo văn. Anh em ở hải ngoại bảo nhau phải tìm mọi cách
để xóa bỏ cái huyền thoại Hồ Chí Minh, chuyện Hồ Chí Minh sẽ được tôn vinh là
nhà văn hóa lớn quốc tế do UNESCO công nhận. Dạo đó có phong trào "No
HO" nổi lên đòi hủy bỏ vụ tuyên dương vô lý này. Tôi cố gắng viết, chỉ nội
trong một tháng là xong. Tôi gửi loạt bài này đăng trên tạp chí Làng Văn của
nhà báo, nhà thơ Cung Vũ Nguyễn Hữu Nghĩa và nhà báo Nguyên Hương.
"Tôi
viết chưa xong thì ông giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Trần bên Paris biết được, ông bay qua Montréal gặp tôi
ngay. Tuy viết chưa xong ông cũng lấy
một phần rồi cùng với bác sĩ Nguyễn Ngọc Qùy, nhà hoạt động tôn giáo xã hội Võ
Văn Ái dịch sang Pháp văn. Các ông ấy họat động tích cực lắm. Vì trụ sở UNESCO
ở Âu Châu nên tranh đấu rất thuận tiện. Thấy có tài liệu chứng minh phủ nhận sự
nghiệp văn hóa ma, UNESCO sáng suốt và mau chóng hủy bỏ vụ tôn vinh. Vì Hồ Chí Minh không biết làm thơ, cũng chẳng phải là
nhà văn học, văn hóa gì cả. Ông ta chỉ là kẻ ăn cắp thơ.
"Cũng chuyện ma giáo,
lừa bịp tương tự thời còn ở Pháp. Theo luật sư Trường thì Hồ Chí Minh mánh
khóe, khôn vặt lấy tên là Nguyễn Ái Quốc. Trong khi đó những nhà cách mạng miền
Nam giỏi Pháp văn khi viết báo chống thực dân Pháp, ngay trên đất Pháp, đều ký
bút hiệu là Nguyễn Ái Quấc, đánh vần theo miền Nam. Đó là một bút hiệu chung
của nhiều tác giả các bài báo. Họ Hồ lấy tên như vậy, nếu nội dung bài báo có
giá trị thì người ta tưởng lầm với bút hiệu Nguyễn Ái Quấc. Còn bài dở thì ông
ta sẽ cãi là tôi ký tên là Quốc chứ có lấy bút hiệu Quấc của các ông đâu!
"Khi cuốn sách của tôi
ra mắt độc giả, chắc chắn là giới văn nô cộng sản bên kia đại dương cũng đọc.
Họ bồn chồn, nhức nhối phải tìm cách đối phó lại sự thật qua những luận lý vững
chắc, hợp lẽ phải. Họ tập trung chất xám lại ra một cuốn sách dày gấp bốn sách
của tôi để tìm cách chứng minh là Bác của họ cũng biết làm thơ. Nhưng trước sau
gì cũng giấu đầu hở đuôi.
"Họ đánh lừa độc giả
trong nước là cuốn sách của tôi ra sau tập sách của họ. Họ nói sách tôi ra năm
1990, còn sách họ ra năm 1989. Sự thật là các bài viết của tôi đã đăng từng kỳ
trên tạp chí "Làng Văn" từ năm 1989, đến năm 1990 mới in thành sách.
Còn sách của họ phát hành năm 1990, nhưng đề lui năm lại là 1989!
"Lại nữa, đề sách đã là
lời thú nhận: "Suy nghĩ lại về Ngục Trung Nhật Ký". Tại sao lại phải
suy nghĩ lại, có vấn đề mới phải suy nghĩ lại. Họ xác nhận là trong thời chiến
họ phải dùng những lời dao to búa lớn để tuyên truyền, họ thú nhận là đã
"cường điệu", mà cường điệu là exagerate, là lớn lối, bịa đặt thêm.
Họ bảo phải làm thế để tạo một quan niệm sáng tác gương mẫu, là phải theo hướng
sáng tác như thơ của bác, bình dân và trong thơ phải có thép (chiến đấu tính).
"Trước sau gì chỉ là
một vụ bịp, một tấn kịch đóng rất vụng. Hồ Chí Minh úp mở nhận là thơ của mình.
Đám nô bộc văn nghệ cung đình dùng ống đu đủ thổi phồng lên rất lố bịch. Một chứng cớ không thể chối cãi là chữ ghi ngoài bìa
sách năm tác giả bị tù là 29-8-1932 đến 10-9-1933. Năm đó thì Hồ Chí Minh chỉ
bị Quốc Dân Đảng bắt và cầm tù ở bên Tầu
vào năm 1942-1943 thôi. Thời gian cách xa nhau 10 năm trời. Trong Tổng
Tập Văn học của Hà Nội tại tập 38 trang 507 có in lại hình bìa, nhưng lại xóa
bỏ ngày tháng tù của nguyên bản. Rõ ràng có sự che giấu, khuất tất.
"Ngay
giáo sư Đặng Thái Mai, bố vợ Võ Nguyên Giáp cũng thắc mắc về sọan niên cuốn
nhật ký. Ông là nhà giáo nổi tiếng, một
học giả, lúc đó đang nhận nhiệm vụ hiệu đính lại cuốn thơ. Ông đặt câu hỏi
thẳng với Hồ Chí Minh; Hỏi ai dám đề năm tháng kỳ quặc là năm 1932-1933, đây là
tác phẩm của lãnh tụ cao nhất nước? Hồ Chí Minh không trả lời. Sau này bí thế
quá, Viện Văn Học trả lời vắn tắt rằng: Đề năm 1932-33 là sai, phải là năm
1942-43 mới đúng. Cách trả lời rất vắn tắt, không có lời giải thích minh bạch,
thỏa đáng.
"Nói chung tập
"Suy nghĩ lại về Ngục Trung Nhật ký" có đến sáu phần mười đồng ý với
tôi, phần còn lại họ chưa đồng ý. Cuốn sách không dám phản bác lại từng điểm,
chỉ có ý xác nhận là bác có biết làm thơ chữ Hán, lờ chuyện đạo văn đi. Ở Việt Nam không ai
dám nói tới cuốn sách vạch mặt của tôi nữa. Tuy nhiên các thày cô giáo rất khó
trả lời trong giờ ngữ văn, nếu có học sinh hỏi: Sao nghe nói thơ đó không phải
là thơ của bác?
"Cũng nhờ vậy, sau vụ
tôn vinh hụt, Hà Nội đã chùn lại, không dám tâng bốc quá đáng thơ thẩn của Hồ
Chí Minh nữa"
Họ ở thế bị động, phải đấu
dịu với GS Lê Hữu Mục. Ông nói: "Tôi thuộc lòng câu kết tập sách dày cộm
của họ: Người ta nói: Bỏ gươm xuống thì thành Phật. Thánh Phao lồ khi cầm gươm
là kẻ thù của Thiên chúa giáo. Bỏ gươm xuống là bạn của Thiên chúa giáo. Tác
phẩm của ông Lê Hữu Mục, thực chất là hành động giơ dao lên. Chúng tôi không
biết ông sẽ làm gì với con dao đó. Chúng tôi đề nghị ông nên hạ dao xuống thì
hơn". GS Mục cũng không hiểu họ muốn nói điều gì. Giáo sư kết thúc bằng
một câu đủ gói ghém câu chuyện khi được hỏi là: Ông nghĩ gì về cái gọi là Tư
tưởng Hồ Chí Minh, họ thường rêu rao?
- "Tôi không thể nào
cho rằng Hồ Chí Minh có một tư tưởng. Một tư tưởng lớn đáng bàn đến phải có một
hệ thống triết lý, hơn nữa phải có một chương trình hành động sát lý thuyết,
sát triết thuyết đó. Hồ Chí Minh không có cả hai điều kiện ấy, không thể gọi là
tư tưởng được. Chính Hồ Chí Minh không nhận mình là một nhà tư tưởng, một nhà
thơ. Ông ta thú thực với một nhà báo Pháp là
ông ta chỉ là một ký giả thôi. Họ gán cho tôi là tác giả các bài thơ, tôi có
làm được nhiều thơ thế đâu!"
Thực đúng như nhiều người đã
khẳng định: Hồ Chí Minh không có tư tưởng, chỉ có khẩu hiệu thôi. Mấy khẩu hiệu
đó ai cũng có thể nói được, chế ra được: Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết;
Không có gì qúy hơn độc lập tự do; Ta nhất định thắng, địch nhất định thua thì
đứa con nít lên 5 tuổi cũng nói được. Hồ Chí Minh còn "đỡ nhẹ" câu
"Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người" của Tầu ngày xưa.
Như thế hiển nhiên là không
thể khoác cho Hồ Chí Minh chiếc áo huyền thoại được, chỉ đáng gọi là Huyễn
thoại Hồ Chí Minh thôi.
Tinh Vệ (D.T.)