THẦY GIẢNG ANRÊ,
VỊ TỬ ĐẠO ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM
Lm. Paolo Molinari, S.J.
Lm. Dương Hữu Nhân, O.M.I.
Cosma Hoàng Văn Đạt, S.J.
Minh Đạo
Đây là bài viết của Lm. Paolo Molinari, S.J. - Thỉnh nguyện
viên án phong chân phước cho Thầy Giảng Anrê, Lm. Giuse Trần Đức
Anh, O.P. chuyển ý.
Ngày 5 tháng 3 năm thánh 2000, Đức Gioan Phaolô II sẽ tôn phong lên
bậc chân phước một thanh niên Việt Nam, tử đạo ngày 26 tháng 7 năm
1644, và được biết dưới tên thánh Anrê, và đồng thời cũng là thầy
giảng.
Ba thế kỷ rưỡi đã trôi qua kể từ ngày Thầy anh dũng dâng hiến mạng
sống vì trung thành với đức tin Kitô và những lời Thầy cam kết với
Chúa Kitô trong tư cách là người truyền bá Tin Mừng và giáo lý Kitô,
nhưng ký ức về Thầy vẫn không suy giảm. Trái lại, tấm gương của Thầy
Anrê vẫn là một nguồn mạch nâng đỡ và khích lệ đích thực cho các tín
hữu Công Giáo tại Việt Nam, giúp đỡ họ sống phù hợp và trung thành
với đức tin, mặc dù đất nước phải trải qua nhiều thăng trầm phức tạp
và khó khăn.
Thầy Giảng Anrê
và Hội Các Thầy Giảng của Cha Đắc Lộ
Thực vậy, nếu để ý tới lịch sử sóng gió tại vùng địa lý này, một
miền hồi thế kỷ XVII được gọi là Đàng Trong (Cocincina), người ta có
thể hiểu tại sao khuôn mặt Thầy Giảng Anrê đã và vẫn còn là điểm
tham chiếu có giá trị quan trọng. Thực vậy, Kitô Giáo được phổ biến
rộng rãi, ăn rễ sâu và tiếp tục sinh động tại Việt Nam chính là nhờ
công lao và hoạt động của bao nhiêu thế hệ các thầy giảng, nối tiếp
nhau qua các thế kỷ, trong việc phụng sự Chúa Kitô và Tin Mừng, cả
khi các thừa sai bị trục xuất và các linh mục bản xứ không thể thi
hành sứ vụ vì những luật bách hại đạo.
Sự hiện diện và hoạt động của các thầy giảng tại Việt Nam có liên hệ
tới công trình truyền giáo của một tu sĩ dòng Tên nổi tiếng là cha
Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) (1). Công trình của cha đối
với Việt Nam cũng như công trình của cha Matteo Ricci đối với Trung
Hoa, và cha Roberto de Nobili đối với Ấn Độ. Cha Đắc Lộ là một trong
những vị thừa sai đã biết tạo điều kiện, và hơn nữa, đã mang lại cho
Việt Nam một trong những đóng góp quan trọng về văn hoá : chỉ cần
nhắc tới sự kiện cha Đắc Lộ đã soạn cuốn từ điển đầu tiên về ngôn
ngữ được sử dụng tại Việt Nam và phát triển hệ thống chữ viết ngày
nay là chữ quốc ngữ.
Chính cha Đắc Lộ là người đã thấy rõ rằng có được các linh mục một
cách trường kỳ là một điều rất khó đối với Việt Nam, vì thế, cha đã
quyết định khởi xướng và thành lập Hội Các Thầy Giảng, gọi là
"Nhà Đức Chúa Trời", trong đó các thành viên quyết tâm, bằng lời hứa
chính thức và công khai (một lời thề), trọn đời phụng sự Giáo Hội
qua việc giúp đỡ các linh mục và truyền bá Tin Mừng.
* Các nguồn sử liệu về Thầy Anrê
Trong số các nguồn sử liệu nói về cuộc đời của Thầy Giảng
Anrê trước khi Thầy bị bắt ngày 25-6-1644 và chịu tử đạo sau đó, có
hai Bản Tường Trình do cha Đắc Lộ viết và được coi là có giá trị
nhất. Không nên ngạc nhiên về điều này, vì chính cha Đắc Lộ là người
đã biết Thầy Anrê từ lâu và thân thiết hơn bất kỳ người nào khác kể
lại chứng từ về chàng thanh niên Việt Nam này.
Những gì chúng ta biết được qua cha Đắc Lộ về Thầy Anrê, về cuộc đời
và cách sống đạo của Thầy trước khi chịu tử đạo, cũng như chính cuộc
hành hình Thầy phải chịu, cũng được xác nhận qua các lời cung khai
của những người làm chứng trong cuộc Điều Tra theo Giáo Luật, diễn
ra tại Macao từ 16 tháng 12 năm 1644 đến 13 tháng giêng năm 1645,
tức là không đầy sáu tháng sau khi vị Tôi Tớ Chúa bị sát hại.
Vì thế, đó là những tin tức đầu tay và hơn nữa, rất gần với thời
gian Thầy Anrê sống và chịu tử đạo.
Bản Tường Trình thứ nhất
của cha Đắc Lộ, ngắn hơn bản thứ hai, đề ngày 1 tháng 8 năm 1644,
nghĩa là 5 ngày sau khi Thầy Anrê bị sát hại. Bản đó do nhà truyền
giáo thời danh soạn ra sau khi đích thân chứng kiến tất cả các biến
cố : cầm tù, kết án tử hình và hành quyết Thầy Anrê. Vì vậy, đó là
tài liệu cổ kính nhất chúng ta có được về tất cả những sự kiện xảy
ra trong những ngày đau thương, 25 và 26 tháng 7 năm 1644. Cha Đắc
Lộ giao Bản Tường Trình này cho viên thuyền trưởng chiếc tàu Bồ Đào
Nha sắp rời khỏi Đàng Trong để đi Macao. Tàu tới đảo này ngày 13
tháng 8 năm 1644. Qua Bản Tường Trình ấy, cha Đắc Lộ thuật lại cho
các bề trên ở Macao những gì xảy ra trong công cuộc truyền giáo của
cha và đồng thời xin các vị đón nhận di hài Thầy Anrê mà, vì lý do
an ninh, cha đã cho chở trên chiếc tàu đó tới Macao (2).
Bản Tường Trình thứ hai,
dài và chi tiết hơn, được cha Đắc Lộ soạn sau khi trở về Âu Châu và
được xuất bản bằng nhiều thứ tiếng (3).
Về những gì liên quan tới các dữ kiện thu thập trong Công Vụ cuộc
Điều Tra theo Giáo Luật ở Macao về cuộc tử đạo của Thầy Giảng Anrê,
cũng nên nhấn mạnh tới một số chi tiết đặc biệt liên quan tới cuộc
bắt giam, cầm tù và kết án tử hình vị Tôi Tớ Chúa : các sự kiện này
xảy ra trong vòng 48 tiếng đồng hồ (ngày 25 và 26-7-1664), và không
diễn ra kín đáo, trái lại rất công khai. Vì thế, nhiều người đã
chứng kiến những sự kiện ấy, nên họ có thể và trong thực tế, họ đã
để lại những lời tuyên bố chính xác và chi tiết. Các chứng từ ấy
không thể chê trách được điều gì xét về phương diện pháp lý và lịch
sử, do đó chúng rất có giá trị.
Đó là 23 bản cung khai có tuyên thệ được Toà Án của Giáo Hội ở Macao
thu thập : Công Vụ của cuộc Điều Tra này được soạn bằng tiếng Bồ Đào
Nha, và theo thói quen của Bộ đặc trách về các án phong thánh,
các văn kiện ấy phải được chuyển dịch.
Trong số tất cả các bản cung khai ấy, cần ghi nhận có 7 bản do những
chứng nhân tận mắt kể lại, tức là những người đã đích thân
chứng kiến không những điều đã xảy ra trước hoặc sau cuộc hành quyết
vị Tôi Tớ Chúa, nhưng nhất là chính cuộc hành quyết.
Các bản cung khai khác do 16 nhân chứng gồm những thương gia, thuỷ
thủ, binh sĩ, đến Hội An (Faifo) trên chiếc tàu do thuyền trưởng
João de Rezende de Figueiroa điều khiển. Vì thế, họ là những người ở
gần kề nơi hành quyết Thầy Anrê, và do đó, họ biết được cuộc hành
quyết do một số nhân chứng tận mắt, và điều đó xảy ra không phải từ
lâu, nhưng chỉ mới vài tiếng đồng hồ sau các biến cố đau thương.
Trong số những người đã chứng kiến các biến cố ấy, hiển nhiên là có
nhiều người khác, dân chúng địa phương, nhưng vì lý do ngôn ngữ, nên
họ không được triệu đến để làm chứng trong Cuộc Điều Tra, xét vì
Cuộc Điều Tra này do những nhân vật người Bồ thi hành.
Ngoài những điều được thu thập và ghi nhận trong Công Vụ cuộc điều
tra theo Giáo Luật, còn có hai bản cung khai ngoài cuộc điều tra, có
chứng thực hẳn hoi, do một khách thương người Ý tên là Orazio Massa,
và một người Việt Nam, Louis Đuôn (Duón), hai người đã chứng kiến
tận mắt cuộc tử đạo của Thầy Anrê. Nhưng họ không có mặt ở Macao khi
diễn ra cuộc Điều Tra và vì thế, họ không thể được triệu tới để cung
khai tại Toà.
Những tài liệu phong phú về cuộc bắt giam, cầm tù, lên án tử hình và
hành quyết Thầy Anrê, cũng như về lòng kiên trung trong đức tin của
vị tử đạo, quả là một điều hiếm có, nếu không muốn nói là độc nhất
vô nhị, trong việc thu thập tài liệu về các án phong các vị Tử Đạo.
Thật vậy, chỉ có một số rất ít trường hợp trong đó các chứng nhân
tận mắt, sau khi chứng kiến cuộc tử đạo của một người, cung khai
chính thức theo đúng quy luật về những gì họ đã thấy và nghe được.
* Vài nét về đời sống Thầy Anrê
Thầy Giảng Anrê, gốc tỉnh RanRan (Phú Yên), là con út của một phụ nữ
tên thánh là Gioanna. Tuy goá bụa nhưng bà đã giáo dục con cái với
tất cả lòng tận tuỵ và khôn ngoan. Anrê là một cậu bé mảnh khảnh,
nhưng tư chất rất thông minh, có óc phán đoán tốt và tâm hồn hướng
chiều về sự thiện. Do lời năn nỉ của bà mẹ, cha Đắc Lộ, vị Linh Mục
thừa sai dòng Tên nổi tiếng, đã nhận cậu Anrê vào số các môn sinh
của ngài. Anrê chăm chỉ học chữ Nho và chẳng bao lâu trổi vượt các
bạn đồng môn.
Anrê được lãnh nhận bí tích Rửa Tội cùng với mẹ ba năm trước khi bà
qua đời, tức là năm 1641, khi Anrê được 15 tuổi. Anrê sinh năm 1625
hay 1626, không rõ ngày tháng, và lúc chịu chết năm 1644, Thầy trạc
độ 19 hay 20 tuổi.
Theo các Bản Tường Trình của cha Đắc Lộ, một năm sau khi chịu phép
Rửa Tội, tức là năm 1642, Anrê được cha Đắc Lộ nhận vào nhóm cộng sự
viên thân tín của ngài, và sau một năm huấn luyện thêm về tôn giáo
và văn hoá, Anrê bắt đầu thi hành công tác thầy giảng.
Về tầm quan trọng và sự nghiêm chỉnh của nhóm thầy giảng này, chúng
ta có những tin tức rất chính xác, do chính cha Đắc Lộ cung cấp qua
tài liệu ngài gửi cho các bề trên, để tường trình cho các vị về diễn
tiến công cuộc truyền giáo ở Đàng Trong từ tháng 7 năm 1642 cho đến
tháng 7 năm 1643. Bên cạnh hai Kitô hữu trưởng thành tận tuỵ rao
giảng Tin Mừng, còn có một nhóm những người trẻ hơn, theo gương các
vị đứng tuổi, cũng tuyên thệ công khai tại nhà thờ là sẽ cộng tác
vào việc cứu vớt các linh hồn, dưới sự hướng dẫn của các thừa sai
hoặc những vị do các ngài chỉ định (4). Trong số những
người trẻ ấy có Thầy Anrê. Theo tất cả các văn kiện và chứng từ đầu
tay chúng ta có được, Thầy là một thanh niên đã được Chúa Giêsu Kitô
chinh phục, và đáp lại tình yêu Chúa, Thầy tận hiến cho Chúa, và qua
đó, thực hành bước tiến căn bản của việc bước theo Chúa Kitô
(sequela Christi) một cách chân thực, hiểu theo nghĩa mạnh nhất của
từ này.
Trong nhóm các thầy giảng, Thầy Anrê là nhân vật đứng thứ hai, sau
một thầy đã đứng tuổi. Nhưng qua chứng từ trình bày trong cuộc Điều
Tra, người ta biết Thầy Anrê thi hành một công tác quan trọng hơn
trong Hội các tín hữu Kitô dấn thân như thế.
Như ta đã thấy rõ qua những biến cố đưa tới cuộc tử đạo của Thầy
Anrê, điều hiển nhiên là Thầy đã nhập tâm những nguyên tắc hướng dẫn
hoạt động của các thầy giảng và sống các nguyên tắc ấy một cách tận
tình.
Khi để ý tới những điều đó, ta sẽ không ngạc nhiên khi đọc thấy điều
đã được một số nhân chứng kể lại trong cuộc Điều Tra về sự tử đạo
của Thầy Anrê. Một số nhân chứng ấy đã ba lần gặp Thầy Anrê trong
nhà của cha Đắc Lộ, nhân dịp họ du hành đến Đàng Trong. Vì thế, họ
có thể quan sát cách thức Thầy phục vụ cộng đoàn ở Hội An, lòng
nhiệt thành xả thân của Thầy, với tất cả lòng trung thành, hăng say
trong việc giảng dạy đức tin Kitô cũng như trong việc cử hành phụng
tự của nhóm các tín hữu. Rồi chính Thầy cũng được nhiều người biết
đến như một tín hữu Kitô siêng năng lãnh nhận bí tích Thống Hối và
Thánh Thể.
Vì thế, ta có thể và phải kết luận rằng, lòng hăng say của Thầy Anrê
sống trọn quyết tâm khi chịu phép Rửa đã chuẩn bị cho Thầy can đảm
đương đầu với cuộc tử đạo và ngoan ngoãn đón nhận ơn tử đạo Thiên
Chúa rộng ban cho Thầy.
* Diễn tiến cuộc làm chứng cho Chúa Kitô
Dựa trên những tài liệu phong phú đã nói trên đây, chúng ta biết rõ
diễn tiến và sự liên kết giữa các biến cố có liên quan trực tiếp tới
những ngày cuối cùng của Thầy Giảng Anrê và cái chết anh dũng của
Thầy (5).
Trước cuối tháng 7 năm 1644, Quan Nghè Bộ trở lại tỉnh nơi Thầy
Giảng Anrê sinh sống. Quan mang theo sắc lệnh của chúa Nguyễn cấm
truyền bá đạo Kitô trong nước. Vì thế Quan quyết định hành động
trước tiên chống lại các thầy giảng.
Cha Đắc Lộ, khi biết Quan trở về dinh, nhưng không hề hay biết ý
định của Quan, nên tới thăm Quan vì xã giao và để củng cố những quan
hệ tốt đẹp đã có trước đó.
Sau khi cho Thầy Anrê được ở lại nhà để săn sóc 4 bệnh nhân, cha Đắc
Lộ xuống thuyền đến dinh Quan Nghè Bộ. Khi đến gần, cha gặp khách
thương người Ý tên Orazio Massa. Nét mặt rất lo âu, ông cho cha Đắc
Lộ biết : Quan cùng với các thẩm phán khác đang mưu toan chống lại
cha và các tín hữu Kitô, và ông xin cha hãy ẩn tránh, để đừng diễn
ra điều đã xảy ra hôm trước cho thầy giảng già, cũng tên thánh là
Anrê, thầy ấy đã bị bắt và đang bị cầm tù.
Cha Đắc Lộ, sau khi ra lệnh cho những người tháp tùng hãy mau lẹ trở
về, quyết định đến chào thăm Quan và thương thảo với ông. Nhưng Quan
cho cha biết ngay rằng : chúa Đàng Trong rất giận dữ khi thấy vì cha
mà nhiều dân bản xứ theo đạo Kitô. Vì thế cha phải bỏ xứ Đàng Trong
để trở về Macao và không được phép dạy giáo lý cho dân bản xứ nữa,
còn các tín hữu theo đạo thì bị trừng phạt rất nặng nề.
Thấy rằng thảo luận với Quan từ nay chỉ mất thời giờ, nên cha Đắc Lộ
rời dinh Quan Nghè Bộ, đi thẳng xuống nhà tù nơi giam giữ một thầy
giảng già 63 tuổi tên là Anrê, mới bị bắt hai ngày trước đó. Cha
muốn ở cạnh và nâng đỡ thầy trong cảnh tù, thân phận mà thầy chấp
nhận trong thanh thản và vui tươi vì lòng yêu mến Chúa Kitô.
Trong khi ấy, một toán lính khác được Quan sai tới nhà cha Đắc Lộ để
lùng bắt một thầy giảng khác tên là Ignatio. Nhưng thầy Ignatio đã
đi làm việc tông đồ trong một thời gian ngắn.
Khi lính ập vào nhà, họ chỉ tìm thấy Thầy Anrê trẻ. Để khỏi trở về
dinh Quan Bộ tay không, lính đánh đập Thầy Anrê, trói Thầy lại, rồi
giải xuống thuyền đem về dinh Quan trấn thủ. Chiều ngày 25 tháng 7
năm 1644, Thầy được dẫn tới trước mặt Quan. Lính thưa với Quan rằng
họ không tìm thấy thầy Ignatio, nhưng đã bắt được “một thầy giảng
khác cũng giống như vậy, vì suốt cuộc hành trình, anh ta luôn nói về
đạo Kitô và khuyến khích họ theo đạo” (6).
Nghe vậy Quan tìm nhiều cách làm cho Thầy Anrê "từ bỏ cái đạo điên
rồ đó và bỏ lòng tin".
"Nhưng thanh niên can trường ấy trả lời Quan rằng mình là Kitô
hữu, và rất sẵn sàng chịu mọi khổ hình chứ không từ bỏ đạo mình
tuyên xưng. Vậy xin Quan cứ tuỳ ý chuẩn bị các hình cụ, tôi vui lòng
đón nhận, với xác tín rằng, vì chính nghĩa, càng chịu khổ đau chừng
nào thì càng chết vinh quang chừng ấy" (7).
Tức giận vì sự bất khuất của Thầy Anrê không hề sợ hãi trước những
lời đe doạ, Quan truyền đóng gông (8) và giải Thầy vào
ngục, cùng nơi giam giữ thầy Anrê già.
Cha Đắc Lộ cho chúng ta biết tâm trạng của hai thầy giảng khi viết
rằng : "Thật không thể giải thích được niềm vui của hai tù nhân
này lớn lao dường nào khi thấy mình được liên kết với nhau, được
vinh dự mang gánh nặng của Thập Giá vì niềm tin nơi Chúa Kitô. Những
lời chúc tụng họ tiếp tục dâng lên Thiên Chúa vì ân huệ ấy, những
cuộc nói chuyện đầy lòng yêu mến, qua đó, họ khích lệ nhau trong
mong ước và nhắn nhủ nhau sẵn sàng cho trận chiến tương lai, với
những tâm tình sùng mộ khác tương tự như vậy, người ta có thể tưởng
tượng dễ hơn là giải thích" (9).
Cha Đắc Lộ và một vài thương gia Bồ Đào Nha tới nhà giam hai tù nhân
: Thầy Anrê trẻ thanh thản và vui mừng khi được chịu khổ đau vì Chúa
Kitô đến độ những người đến thăm Thầy bịn rịn, không rời Thầy được,
và nước mắt tràn mi, họ xin Thầy nhớ đến họ trong lời cầu nguyện.
Thấy vậy, Thầy tự nhạo cười mình và xin họ cầu nguyện cho Thầy, để
Chúa ban cho Thầy ơn trung thành với Chúa cho đến chết, "dâng
hiến mạng sống trong tình yêu trọn vẹn, hầu đáp trả tình yêu thương
vô biên của Chúa, Đấng đã hiến mạng sống vì loài người... Những lời
Thầy luôn lặp lại cho đến khi trút hơi thở cuối cùng là : "Chúng
ta hãy lấy tình yêu để đáp lại tình yêu của Chúa chúng ta, hãy lấy
mạng sống đáp lại mạng sống", và Thầy nói điều đó với tất cả
lòng yêu mến làm cho Thầy cảm động rơi lệ" (10).
Sáng hôm sau, 27 tháng 7 năm 1644, hai tín hữu Kitô cùng tên Anrê,
Anrê già 63 tuổi và Anrê trẻ, cổ mang gông, bị dẫn qua các đường phố
đông người qua lại nhất trong thành, băng qua chợ Kẻø Chàm, đến dinh
Quan trấn thủ để bị tra hỏi công khai. Quan trấn triệu tập một vài
Quan khác, lôi kéo họ về phía mình và tuyên án tử cho Thầy Giảng
Anrê trẻ, rồi ra lệnh dẫn Thầy trở về ngục thất.
Còn thầy Anrê già thì được tha vì lý do tuổi tác, nhờ lời xin của
cha Đắc Lộ và các thương gia Bồ Đào Nha.
Vào khoảng 5 giờ chiều, một viên chỉ huy cùng với 30 người lính vào
nhà tù, nơi vị Tôi Tớ Chúa bị giam giữ, và ra lệnh cho Thầy phải đi
theo tới nơi hành quyết. Thầy Anrê cảm tạ Chúa vì giờ hiến tế đã
tới, và sau khi chào mọi người hiện diện trong tù, Thầy nhanh nhẹn
bước đi. Quân lính vây chặt chung quanh và dẫn Thầy Anrê đi qua các
đường phố ở Kẻø Chàm, tới một cánh đồng ngoài thành. Cha Đắc Lộ,
cùng nhiều Kitô hữu Bồ Đào Nha và Việt Nam cũng như nhiều người
lương đã đi theo và chứng kiến cuộc xử tử vị Tôi Tớ Chúa.
Đến nơi hành hình, Thầy Anrê quỳ xuống. Quân lính vây quanh tứ phía,
họ tháo gông cho Thầy và trói hai tay Thầy lại. Trong khi đó, theo
thói quen tại đây, cha Đắc Lộ xin và được phép trải một tấm chiếu
dưới người Thầy Anrê để hứng lấy máu Thầy, nhưng Thầy Anrê không
muốn nhận điều ấy, Thầy muốn máu mình rơi xuống đất, như trường hợp
máu cực trọng Chúa Kitô đã đổ ra. Cha Đắc Lộ tôn trọng quyết định
của Thầy Anrê và quỳ xuống cạnh Thầy. Trong khi đó, Thầy Anrê nhắn
nhủ các Kitô hữu hiện diện hãy luôn kiên vững trong đức tin, đừng
buồn phiền vì cái chết của Thầy, và hãy giúp lời cầu cho Thầy được
trung thành tới cùng.
Cuộc hành quyết Thầy Anrê được thi hành bằng mấy nhát lao đâm thấu
cạnh sườn bên trái, và sau cùng khi một người lính sắp dùng đao chém
đầu, Thầy lớn tiếng kêu lên "Giêsu".
Cho tới hơi thở cuối cùng, Thầy Anrê đã chứng tỏ lòng kiên trung
trong việc chấp nhận hiến tế cuộc sống vì lòng tin yêu Chúa Kitô.
Sau khi cuộc hành quyết hoàn tất, cha Đắc Lộ, người đã chứng kiến
tất cả diễn tiến vụ hành hình kinh khiếp ấy, xin được thi hài của
Thầy Anrê và đưa xuống tàu mang sang Macao và an táng tại đây ngày
15 tháng 8 năm 1644.
Mặc dù tất cả những thăng trầm xảy ra tại Việt Nam từ ngày đó đến
nay, các tín hữu Công Giáo Việt Nam không bao giờ quên Thầy Giảng
Anrê, và họ tiếp tục coi Thầy là vị tử đạo đầu tiên của đất nước họ,
và cầu nguyện, xin Thầy chuyển cầu cho họ nơi toà Chúa để được sức
mạnh can đảm sống phù hợp với đức tin và trung thành với ơn gọi Kitô
hữu.
* Niềm mong ước của Giáo Hội Việt Nam
đối với cuộc tử đạo của Thầy Anrê
Ý thức về lòng mộ mến sinh động hơn bao giờ hết và đã có từ lâu của
các tín hữu đối với Thầy Giảng Anrê tử đạo, các Giám Mục Việt Nam,
khi về Roma dự Công Đồng Chung Vatican II, đã xin Đức Thánh Cha
Phaolô VI đẩy mạnh án phong chân phước cho Thầy Giảng Anrê. Các vị
bày tỏ xác tín rằng việc tôn phong này là một trong những phương thế
hữu hiệu nhất để phát triển nơi các tín hữu lòng gắn bó sâu xa với
Giáo Hội. Các Giám Mục Việt Nam cũng nhấn mạnh sự kiện Thầy Giảng
Anrê là một thanh niên Công Giáo, từ 16 tuổi, đã dâng hiến cuộc sống
để giúp các linh mục trong việc rao giảng Tin Mừng của Chúa Kitô tại
Việt Nam. Các Giám Mục nêu bật điều này : tấm gương của Thầy Giảng
Anrê, qua thái độ bình thản và cương quyết chấp nhận tử đạo, là một
trợ lực mạnh mẽ cho những người, giống như Thầy, đang chịu đau khổ
để bảo vệ đức tin và lòng trung thành với Chúa Kitô và với Giáo Hội.
Do sự can thiệp trên đây của các Giám Mục Việt Nam, Văn Phòng Thỉnh
Nguyện Viên án phong Thầy Giảng Anrê đã quyết tâm thực hiện các cuộc
nghiên cứu cần thiết để đẩy mạnh án phong. Rồi vào năm 1997, Văn
Phòng đã được Bộ Phong Thánh nhìn nhận Công Vụ cuộc Điều Tra diễn ra
tại Macao trong những năm 1644-1645. Sau khi bổ túc các dữ kiện và
tin tức mà Công Vụ này mang lại, cùng với thành quả các cuộc nghiên
cứu lịch sử thực hiện ở Âu Châu và Á châu, Văn Phòng Thỉnh Nguyện
Viên đã soạn Tập Hồ Sơ về cuộc tử đạo, gồm 2 cuốn, và đã đệ trình Bộ
Phong Thánh để xin cứu xét. Trước hết, các vị Cố Vấn Sử Học, rồi tới
các vị Cố Vấn Thần Học, đều đồng thanh bày tỏ ưng thuận và nói rằng
bằng chứng cuộc tử đạo của Thầy Giảng Anrê thật là rõ ràng.
Phán quyết chung kết này cũng được các Hồng Y và Giám Mục thành viên
của Bộ Phong Thánh đồng ý. Sau khi được vị Tổng trưởng Bộ Phong
Thánh thông báo đầy đủ về kết quả tích cực, Đức Thánh Cha đã cho
công bố Sắc Lệnh về cuộc tử đạo của Thầy Giảng Anrê, và ngài quyết
định cho tiến hành lễ phong chân phước tại Quảng Trường Thánh Phêrô
ngày 5 tháng 3 năm 2000.
***
CHÚ THÍCH
1.
Cha Đắc Lộ, dòng Tên, sinh tại Avignon bên Pháp năm 1591 và gia nhập
dòng ở Roma. Được gửi đi truyền giáo tại Viễn Đông, sau khi sống 3
năm tại Ấn Độ và 9 tháng tại Malacca, cha tới Macao năm 1623, bắt
đầu học tiếng Nhật để chuẩn bị hoạt động truyền giáo tại Nhật Bản;
nhưng rồi cha được các bề trên gửi tới phần đất ngày nay gọi là Việt
Nam.
2.
Relação do glorioso Martirio de Andre Cathequista Protomartir de
Cochinchina, alenceado, e dogolado em Cachão aos 26 Julho de 1644.
Tendo de idade dezanove anos,
nguyên văn tiếng Bồ đào nha của cha Đắc Lộ, ghi ngày 1.8.1644 tại xứ
Đàng Trong: Ms. Marid, Real Acedemia de la Historia, Jesuitas,
leg.21 bis, fasc.17, foll. 228-234v (originale?); AHSI, JAP./SIN:
71, foll.262-265; Lisbona, Biblioteca da Ajuda, Jesuistas na Asia,
Vol.40/V/13, foll.218v-223.
Relatione del glorioso Martirio di Andrea Catechista Protomartire
della Cocinchina, patito alli 26 Luglio 1644,
AHSI, JAP./SIN.69, foll.25-38v.
3.
Martyrium Andreae Cathechistae qui primus in Regno Cocincinae pro
Christi fide sanguine fudit a P. Alexandro DE RHODES Societas Jesu
descriptum,
Ms SHSI, JAP./SIN. 70, foll.127-138.
[Alexandre de Rhodes, S.J.], Relatione della morte di Andrea
Catechista che primo de Christiani nel regno di Cocincina è stato
ucciso dagl'infedeli in odio della fede, alli 26 di Luglio 1644,
descritta dal Padre Alessandro de Rhodes della Compagnia di Giesu,
Roma, per gli Heredi del Corbellitti, 1652, 3 f.+42p. +1 f. [Roma,
APSI, e Bibl. Nazionale Centrale Vittorio Emmanuele II, coll.
14.26.E.2; Lisbona, Bibl. Nacional, coll. R14164 V].
[Alexandre de Rhodes, S.J.] La glorieuse mort d'André catéchiste
de la Cochinchine, qui a le premier versé son sang pour la querelle
de Jesus-Christ, en cettte nouvelle Eglise, par le P. Alexandre de
Rhodes, qui a toujours été présent à toute cette histoire,
Paris, Sébastien et Gabriel Cramoisy, 1653, 122 tr.
[Alexandre de Rhodes, S.J.], Relação de morte do catequista
André, proto-martir de Cochinchina, [dịch ra tiếng Bồ từ văn bản
tiếng Ý ấn hành ở Roma năm 1652, của Miguel Serras Pereira], Macao,
Tipog. da Missão, 1978, 27pp.;, e in Boletim Eclesiástico da
Diocese de Macau, s. 76, 1978, tr. 237-262.
4.
x. Missão de Cochincina desde fim de Julho de 1642 ate o fim de
de 1643, thủ bút của cha Đắc Lộ S.J., đề ngày 15.11.1643 tại
Macao, ở Văn Khố sử học của dòng Tên ở Roma, coll. Jap./Sin. 71,
foll.224-237.
5.
Xem Congregatio de Causis Sanctorum, Prot. N.1022, Danangen. Olim
Cocincin. Beatificationis seu Declarationis Martyrii Servi Dei
Andreae, viri laici et catechistae, Proto-Martyris de Vietnam,
Positio super Martyrio, 2 coll., Roma 1998.
6.
Tường Trình thứ hai, Positio, t.I, tr. 92.
7.
như trên
8.
Chính cha Đắc Lộ đã mô tả chiếc gông này (x. Positio, tr. 91). Gông
gồm hai cây gỗ tròn, mỗi cây dài khoảng 12 gang tay, chúng được xếp
đặt như một cái thang với bốn thang ngang nhỏ, mỗi đầu cây gỗ tròn
có hai thanh ngang nối vào nhau, trong khi hai thang ngang khác được
đặt ở giữa gông cách đều nhau kẹp vào cổ tù nhân.
9.
đd, tr. 93
10.
x. Positio, tr.126.
Suy Nghĩ
VỀ VIỆC TUYÊN DƯƠNG CUỘC TỬ ĐẠO
CỦA THẦY ANRÊ PHÚ YÊN
Lm. Dương Hữu Nhân, O.M.I.
(Hồ Ngọc Tâm chuyển dịch
từ nguyên bản tiếng Pháp)
Đúng vào lúc
cuộc họp Thượng Hội Đồng các Giám mục về Á Châu khai diễn tại Rôma,
có sự tham dự của một phái đoàn quan trọng đại diện cho Việt Nam,
thì một sự kiện khác cũng đang được chuẩn bị. Sự kiện nầy hẳn sẽ
ghi khắc dấu ấn lâu dài trong đời sống của Dân Chúa Việt Nam trong
cũng như ngoài nước. Thật vậy, công trình nghiên cứu và sưu tầm về
vụ án người Tôi Tớ Chúa là Anrê Phú Yên đã hoàn tất mỹ mãn. Từ nay
con đường đã rộng mở Giáo Hội có thể chính thức công nhận cái chết
vì đạo của ngài và tôn vinh ngài là vị chân phước để noi theo gương
ngài và xin ngài hỗ trợ.
* ANRÊ PHÚ YÊN LÀ AI ?
Người mà từ xưa người ta quen gọi là "Thầy giảng Anrê", sinh tại
tỉnh Phú Yên năm 1625. Rửa tội năm 15 tuổi, cùng lúc với bà mẹ goá
và các anh chị, do chính cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes). Lúc đó
Anrê đã bắt đầu học chữ Nho.
Một năm sau, Anrê xin được thu nhận vào nhóm các thầy giảng giáo lý
do cha Đắc Lộ mới thành lập. Vì tuổi còn trẻ, cần phải được hoàn tất
chương trình đào tạo, Anrê được gửi gắm cho vị quan thuộc nhóm thầy
giảng tên là Inhaxiô, một người được vị thừa sai tin cậy và là trụ
cột của cộng đồng Công Giáo còn non trẻ. Anrê tiến triển vượt bậc
trong việc học các kinh sách truyền thống, nhất là về đức tin Kitô
Giáo, đồng thời đảm nhận những công việc thấp hèn nhất để phục vụ
Nhà Chúa và luyện tập công tác giảng dạy.
Nhóm này gồm khoảng mười hai người, có cả người lớn tuổi lẫn thanh
thiếu niên, được cha Đắc Lộ hướng dẫn. Nhóm đã đạt được những thành
công đáng kể trong việc rao giảng Tin Mừng. Điều này đã làm nảy
sinh lòng đố kỵ và tình trạng căng thẳng trong triều đình Chúa
Nguyễn, cũng như tại xứ Quảng Nam là nơi có trung tâm sinh hoạt
truyền giáo chính của nhóm. Vị quan trách nhiệm chính quyền dinh
Quảng Nam thề sẽ tiêu diệt Inhaxiô, và đã nhận được giấy phép cho
bắt giam và kết án tử hình ngài. Theo kế hoạch của nhà cầm quyền thì
"đạo của người Bồ Đào Nha" chỉ dành riêng cho người ngoại quốc, và
mọi việc truyền đạo cho người Việt Nam phải bị cấm chỉ.
Inhaxiô vắng mặt khi lính đến tìm bắt ngài. Thầy Anrê trẻ tuổi lúc
ấy đang ở nhà một mình, và thầy đã tình nguyện nộp mình thế chỗ cho
người anh cả của mình. Trước toà án của quan đầu tỉnh Quảng Nam,
Anrê đã tuyên xưng đức tin một cách phi thường, không giây phút nào
nao núng: "Ước chi tôi có được ngàn mạng sống của tôi để hiến dâng
tất cả cho Chúa hầu đền đáp ơn Ngài". Bị kết án, Anrê chờ đợi cái
chết một cách rất bình thản, lòng đầy hân hoan, chỉ xin mọi người
cầu nguyện cho Thầy, để Thầy được "...giữ nghĩa cùng Đức Chúa Giêsu
cho đến hết hơi, cho đến blọn [trọn] đời". Anrê chết do nhiều nhát
giáo đâm rồi bị chặt đầu, miệng không ngớt kêu tên Giêsu. Ngày ấy là
ngày 26 tháng bảy năm 1644. Anrê vừa được 19 tuổi. Đắc Lộ ở bên cạnh
Thầy. Đứng vây quanh Anrê còn có nhiều tín hữu Công Giáo Việt Nam và
ngoại quốc, cũng như đông đảo đồng bào ngoài công giáo. Mọi người
rất xúc động trước sự tuyên xưng đức tin của Thầy. Gương tử đạo của
Thầy lập tức nổi danh, và qua những lời chứng và tường thuật, đã lan
truyền ra đến nhiều nước tận Rôma. Toà Giám mục Áo Môn (Macao), nơi
có rất nhiều nhân chứng sinh sống, đã đón nhận thi hài Thầy hết sức
trọng thể, và tổ chức ngay trong tháng 12 năm ấy hồ sơ xin phong
chân phước cho Anrê. Chính hồ sơ này ngày nay đã cung cấp cơ sở lịch
sử chủ yếu giúp Giáo Hội có thể căn cứ vào để phán quyết.
* 117 VỊ TỬ ĐẠO, CHỪNG ẤY CHƯA ĐỦ SAO ?
Đó là một nhận định bài bác chúng ta đã từng được nghe. Việt Nam đã
có 117 vị tử đạo đã được phong hiển thánh, trong đó có 96 vị là
người bản xứ. Như vậy thì nào có gì hơn nếu thêm vào người thứ 118
hoặc người thứ 97 ? Quan điểm ấy, theo chúng tôi, là quá thiển cận.
Thật vậy, Anrê Phú Yên không phải là người thứ 118, nhưng chính là
người tiên khởi, và là người anh đầu của tất cả. Người ta sẽ nghĩ gì
về một gia đình Việt Nam, khi mà người anh cả bị bỏ quên, bị xem như
không quan trọng, và không được đặt di ảnh lên trên bàn thờ tổ tiên
? Con đường hẹp, khó khăn, gian khổ để nên thánh của người Việt Nam,
chính Anrê là người đi tiên phong. Nếu không có ân sủng đặc biệt,
duy nhất, của Thiên Chúa, Thầy hẳn đã không bước đi được trên con
đường ấy. Chúng ta là ai mà có thể nhắm mắt làm ngơ trước mầu nhiệm
ấy ?
Hiện nay, người anh cả của những người Việt Nam đã được phong thánh
tử đạo là Vinh Sơn Liêm, chết năm 1773. Thánh Liêm là một khuôn mặt
lớn, đầy đủ nhân đức để cho chúng ta học tập. Nhưng ngài đã đi du
học trong nhiều năm ở nước ngoài, và ngài là một linh mục. Địa vị
của vị "tử đạo tiên khởi" phải thuộc về Anrê, chết 129 năm trước
thánh Liêm, với lòng can cường không kém. Hơn nữa, Anrê là một người
con của đất nước, mang trong mình 100% nền văn hoá của đất nước,
Thầy là một giáo dân Công Giáo. Vì thế, chắc hẳn Anrê là tiêu biểu
trực tiếp hơn cho khối đa số vô danh của những người Công Giáo Việt
Nam, nhất là những người thuộc những thế hệ đầu tiên, nhờ vào sự
khôn ngoan và tính kiên cường, họ đã khám phá ra phương cách Việt
Nam để sống đạo.
Đối chiếu với phần lớn các vị tử đạo được tôn phong năm 1988, Anrê
biểu hiện một kinh nghiệm đặc sắc và có thể là sống động hơn cho
ngày nay, do bối cảnh lịch sử hoàn toàn khác biệt. Những thế hệ Công
Giáo tiên khởi được sinh ra trong bối cảnh của một nước Việt Nam
hoàn toàn độc lập đối với các thế lực Phương Tây, không bao giờ Bồ
Đào Nha, nước đã gửi đi các nhà thừa sai, đã can thiệp vào công
việc của Việt Nam bằng bất cứ cách nào, dù là để bênh vực cho người
Công Giáo.
Những đồng bào không Công Giáo, đại đa số đã tỏ ra hết sức ngưỡng
mộ đối với chàng trai trẻ có lòng can đảm bất khuất này. Họ cảm nhận
được nơi Anrê tình thương mà Thầy đã đem đến cho tất cả những người
đồng hương của Thầy, một sự việc mà những nhân chứng đã nói đến, và
họ đã đáp lại tình thương đối với Thầy. Đó là một sắc thái khá độc
đáo trong cái chết của Anrê. Đến thế kỷ 18 và 19 thì các tình huống
và tâm trạng đã biến chuyển.
Cần phải nói thêm một điểm chót. Lịch sử rao giảng Tin Mừng ở Việt
Nam đã ghi lại nhiều cuộc cạnh tranh và căng thẳng ngay cả trong nội
bộ của cộng đồng Công Giáo. Trong thời đại của Anrê, ngược lại,
theo tất cả các chứng cớ và những tài liệu, người Công Giáo yêu
thương nhau như anh em, đến độ lúc bấy giờ người ta gọi đạo Công
Giáo là "đạo của những người yêu thương lẫn nhau".
Anrê phải lấy lại địa vị của mình, địa vị tiên khởi, trong bảng danh
sách các thánh của nước Việt Nam, và cũng để làm chứng cho thời đại
hoàng kim của cộng đồng Công Giáo. Chính đó là nguồn đích thực mà
người Công Giáo thời nay được mời gọi trở về.
* MỘT GƯƠNG MẪU PHẢI NOI THEO
Khi nói đến lịch sử khởi công xây dựng Giáo Hội tại Việt Nam, người
ta có thói quen đưa ra một vài nhân vật lịch sử lớn, đặc biệt là
nhân vật Đắc Lộ. Điều này không có gì cần phải cải chính. Nhưng lịch
sử của Anrê còn chứng tỏ rằng : Giáo Hội cũng đã được xây đắp nhờ
vào những nỗ lực của số đông giáo dân Việt Nam thuộc những thế hệ
đầu tiên. Ở vào thời của Anrê, thừa sai chỉ thỉnh thoảng mới có thể
đến, và không thể sống thường xuyên ở trong nước. Chính vì lý do này
mà những thầy giảng phải lên phiên thay thế họ.
Anrê là tiêu biểu cho tất cả những thừa sai Việt Nam vô danh này, là
những anh hùng trong cuộc sống trước khi tỏ ra anh hùng trong cái
chết. Người ta không thể không nghĩ rằng chính họ là những thừa sai
thực sự, vì chỉ có họ mới đủ sức bảo đảm cho sự liên tục và sự tiến
triển của cộng đồng Công Giáo. Thử hỏi tình trạng này không phải là
giống như tình trạng ngày nay tại nhiều nơi mà sự lui tới của linh
mục bị hạn chế đó sao ? Chính ở điểm này mà Anrê là một gương mẫu
của đời sống Công Giáo rất thích hợp cho thời nay. Thực thế, thật
khó mà chọn Đắc Lộ làm gương mẫu để noi theo, nếu không muốn nói là
một cách gián tiếp. Ngài đại diện cho một thời đại vẻ vang, nhưng đã
qua, của sứ mạng truyền giáo. Nhưng thời đại của Anrê, thời đại
này, không bao giờ là không có.
Là một tín đồ Công Giáo gương mẫu, Anrê nêu gương về nhiều mặt.
Chính Thầy đã tuyên bố với quan toà rằng : Thầy ở với vị thừa sai
"để có dịp học hỏi và tìm hiểu cho thấu đáo đức tin Kitô Giáo của
mình". Tất cả những ngôn từ kể lại về Thầy chứng tỏ Thầy đã đạt đến
một trình độ cao thâm trong sự hiểu biết và thực hành đời sống Công
Giáo. Thầy đã tóm gọn trong một câu : "Đi theo Thầy Giêsu của tôi
cho đến chết".
Anrê còn là một gương mẫu có tính cách rộng lớn hơn nữa. Thầy chết
có những người Công Giáo thuộc nhiều nước vây quanh, tất cả đều một
lòng ngưỡng mộ và tôn kính Thầy. Thi hài Thầy được đến Macao đã đem
lại cho thành phố này một sự hoà giải rộng rãi, trong lúc tại đây
đang có những tranh cãi đau buồn từng chia rẽ tín hữu Công Giáo từ
nhiều năm qua. Như thế, chàng tuổi trẻ Anrê không thể biểu hiện cho
sự bình an và sự hoà hợp mà chúng ta hằng cầu mong có được trong
Giáo Hội và giữa nhiều dân tộc sống trên địa cầu đó sao ?
* TẠI SAO PHẢI ĐỢI QUÁ LÂU ĐỂ TÔN PHONG CHO ANRÊ ?
Khi Anrê bị giam, những người đến thăm quá xúc động, xin Thầy cầu
nguyện cho họ. Anrê trả lời họ rằng chính Thầy là người tội lỗi đáng
thương, và lẽ ra họ phải cầu nguyện cho Thầy, để Thầy được trung
thành cho đến cùng. Đức khiêm tốn sâu thẳm này có thể nói được là số
mệnh của Anrê. Số mệnh này chắc cũng đã đeo theo vụ án của Thầy
khiến phải tụt lại đằng sau vụ án của các vị tử đạo khác của thời
rất gần đây hơn ...
Ngay từ năm Anrê vừa qua đời, người ta đã hăm hở tiến hành ngay hồ
sơ xin phong chân phước. Nhưng chẳng may diễn tiến công việc vướng
mắc vào những cạm bẫy của lịch sử. Vào năm 1649, vụ án đã đến Rôma,
và đã được Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin đứng ra bảo trợ. Nhưng luật
Giáo Hội quy định phải có một bản điều tra thứ hai, tiên liệu việc
thẩm cứu các nhân chứng, hình như chủ yếu phải là người Việt Nam, về
những câu hỏi do Toà Thánh đặt ra. Do những cuộc bách hại, nên phúc
trình thứ hai nầy đã không bao giờ được kết thúc. Lúc bấy giờ chỉ
nghe được ở một nhân chứng : chính con trai của người đứng đầu cộng
đoàn Công Giáo, cùng bị giam với Anrê, nhưng đã được ân xá vì đã 73
tuổi.
Cũng phải nói thêm rằng, một mặt các nhân chứng trực tiếp lần lượt
mất đi, mặt khác, cộng đồng Công Giáo Việt Nam thì bị xâu xé bởi
những chia rẽ trầm trọng, do đó mà nguyện vọng của dân Chúa muốn tôn
vinh tử đạo cho Anrê dĩ nhiên cũng bớt phần tha thiết... Vụ án Anrê
được xúc tiến tại Rôma do các cha Dòng Tên, Dòng của cha Đắc Lộ. Và
rủi thay, vào thời kỳ đó, các cha Dòng Tên ở Việt Nam bị phê bình
nghiêm khắc tại Rôma, thậm chí bị lên án về nhiều việc, trong đó có
vấn đề "lễ nghi Trung Hoa". Do đó không còn ai sốt sắng bênh vực
cho vụ án do các cha này trình lên, dẫu Anrê không có điểm nào đáng
chê trách, Thầy đã chết vẻ vang trước khi xảy ra tất cả những khó
khăn này.
Vào cuối thế kỷ 20, và một lần nữa, trong thời gian họp Công Đồng
Vaticanô II, vụ án được xúc tiến trở lại. Nhưng lúc bấy giờ lại có
quyết định phải có những cuộc sưu tra thật chính xác và lâu dài.
Những công việc này đã không hoàn tất, bởi lẽ những sử gia được chỉ
định đã chết hoặc đã gặp trở ngại. Đến năm 1996, vụ án đã được mở
lại: một uỷ ban sử gia mới đã được chỉ định, và cuối cùng thì các
công việc nghiên cứu của họ đã đạt được kết quả theo ý nguyện. Bấy
giờ Toà Thánh giao cho một chuyên gia để soạn thảo bản tường trình
dài chính thức, để được Thánh Bộ Phong Thánh sớm cứu xét, một bản
tường trình rất thuận lợi.
Phải tin rằng Thiên Chúa đã dành để cho thế hệ chúng ta được nhận
thấy rõ ràng sự cao cả của vị tử đạo tiên khởi của Việt Nam và dạy
chúng ta phải học hỏi với Ngài. Ngài đã được gọi để nên mẫu mực cho
tất cả những ai ngày nay đang dấn thân vào công việc làm chứng cho
Tin Mừng, và cách riêng cho giới trẻ Công Giáo Việt Nam. Diễn tiến
chậm trễ của hồ sơ xin tôn vinh chân phước Thầy Anrê qua nhiều thế
kỷ làm cho chúng ta tin rằng đó có thể là do thánh ý của Thiên Chúa.
* CON ĐƯỜNG CÒN LẠI PHẢI VƯỢT QUA
Tuy nhiên, trước khi tôn vinh Thầy Anrê Phú Yên lên bàn thờ, còn một
chặng đường nữa phải vượt qua, chắc chắn là ngắn hơn chặng đường
trước. Công trình nghiên cứu lịch sử thực hiện theo lời yêu cầu của
các giám mục Việt Nam sẽ được nghiên cứu và thẩm định bởi một uỷ
ban sử gia do Toà Thánh chỉ định. Bởi lẽ, Giáo Hội không muốn kể vào
số các thánh, những người, dù cho xứng đáng, một khi những hoàn
cảnh (chẳng hạn như về mặt chính trị) của đời sống và của cái chết
của các vị này chưa được làm sáng tỏ.
Sau đó, một uỷ ban các nhà thần học cũng do Toà Thánh chỉ định, sẽ
xem xét giá trị làm chứng đức tin nơi cái chết của Thầy Anrê, và sẽ
phán quyết xem Thầy có thực sự là một vị tử đạo không, nghĩa là một
người bị xử tử do sự thù ghét đức tin và đã chấp nhận cái chết vì
lòng mến Chúa và yêu thương anh em mình.
Nếu sự phán quyết của hai uỷ ban đầu thuận lợi thì đến lượt một uỷ
ban thứ ba, gồm các hồng y, sẽ làm một phúc trình cho Đức Giáo Hoàng
về hoàn cảnh thích hợp để phong chân phước. Đức Giáo Hoàng sẽ lấy
quyết định tối hậu và tuyên bố Thầy Anrê là vị chân phước. Sau cuộc
tôn vinh chân phước, nếu có được một phép lạ nhờ sự cầu bầu của Thầy
và được công nhận, thì Thầy Anrê có thể sẽ được đề nghị trực tiếp
tôn phong hiển thánh, như 117 vị tử đạo khác đã bước theo con đường
của Thầy.
Tất cả những cuộc vận động này có thể mất nhiều thời gian, thông
thường thì trong nhiều năm, bởi vì Giáo Hội làm nảy sinh nhiều hoa
quả thánh thiện và hiện nay còn nhiều trường hợp đang chờ đợi. Nhưng
nếu Đức Giáo Hoàng muốn thì mọi việc có thể tiến hành mau hơn. Chúng
ta có quyền hy vọng Anrê sẽ được phong chân phước trong Năm Đại
Toàn Xá 2000. Đó là điều đã được công khai bày tỏ trước phái đoàn
các giám mục Việt Nam và cử toạ các linh mục, tu sĩ nam nữ tại Rôma
trong thánh lễ trọng thể ngày 26 tháng 4 năm 1998.
* MỘT SỰ KIỆN TRỌNG ĐẠI CHO VIỆT NAM
Và đến đây, các giám mục Việt Nam bắt đầu ước mơ. Đức Giáo Hoàng
thích cử hành lễ phong chân phước tại các nước mà ngài thăm viếng.
Dù nếu ngài không thể thăm viếng Việt Nam trong tương lai gần, thì
chắc chắn ngài cũng có thể phái một Đặc Sứ đại diện cho ngài, để cho
ngày đại lễ mừng Anrê được cử hành hết sức trọng thể như mọi người
mong ước, trong đất nước mà Thầy đã sống, và ngay tại vùng đất mà
Thầy đã hy sinh tính mạng, trước sự hiện diện đầy hân hoan của đông
đảo tín hữu Công Giáo Việt Nam.
Các giám mục Việt Nam, trong khi chuẩn bị tham dự cuộc họp Thượng
Hội Đồng về Châu Á, đã cầu xin cho Giáo Hội của các ngài quay trở về
nguồn. Điều này cũng có nghĩa là người ta phải học hỏi thời kỳ đầu
tiên của việc rao giảng Tin Mừng ở Việt Nam. Như vậy, việc phong
chân phước cho Thầy Anrê sẽ đến đúng lúc : nó sẽ tạo cơ hội cho mọi
người nhận biết rõ ràng hơn những thế hệ đầu tiên của người Công
Giáo Việt Nam, và biết noi gương họ nhiều hơn.
Anrê chắc chắn sẽ gây được nguồn cảm hứng cho đồng bào của mình về
một sự đổi mới thật sự trong đời sống tâm linh và sự can đảm trong
việc làm chứng nhân trong những tình huống khó khăn mà họ đang trải
qua. Khi thầy giảng trẻ tuổi này hy sinh mạng sống tại Quảng Nam,
thì đời sống Công Giáo còn khó khăn hơn nhiều. Nhưng Thầy đã biết
đi cho đến cùng theo sự xác tín của mình, trong niềm hân hoan và sự
can đảm. Thầy là người anh cả của mọi người. Ngay từ bây giờ, chúng
ta hãy cung kính dành cho Thầy một chỗ xứng đáng trong trái tim của
chúng ta, và đừng ngại kêu cầu với Thầy như là vị bổn mạng của chúng
ta.
Linh Mục Dương Hữu Nhân, O.M.I.
Á THÁNH ANRÊ PHÚ YÊN
“Người Chứng Thứ Nhất”
(1625 - 1644)
Cosma Hoàng Văn Đạt, S.J.
“Người chứng thứ nhất” là tiếng Cha Đắc Lộ dùng để chỉ Á Thánh Anrê
Phú Yên. Thực ra, cũng theo cha Đắc Lộ, một giáo dân ở Thăng Long,
tên thánh là Phanxicô, chết vì đức tin năm 1630, mới là vị tử đạo
tiên khởi, nhưng vị này không bị kết án chính thức.
Ai cũng nghĩ cứ sự thường, Anrê Phú Yên phải được tuyên thánh trước
nhất, hay ít ra là cùng với những vị trong đợt đầu tiên. Nhưng năm
1988, khi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tuyên thánh cho 117 vị tử
đạo Việt Nam, nhiều người ngạc nhiên khi không thấy có thầy giảng
Anrê Phú Yên. Thực ra lúc ấy, ngài chưa đưọc tuyên phong Á Thánh !
Năm 1994, nhân kỷ niệm 350 năm ngài tử đạo, khoảng 1500 giáo lý viên
của các giáo xứ thuộc giáo phận TP. Hồ Chí Minh họp mặt tại nhà thờ
Đức Bà Sài Gòn đã ký tên vào đơn xin tuyên phong Á Thánh cho ngài.
Ngày 5-3-2000, ngài được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tuyên phong Á
Thánh tại Roma, thoả lòng mong ước của bao tín hữu Việt Nam, nhất là
giáo phận Đà Nẵng, giáo phận Quy Nhơn, Dòng Tên Việt Nam và các giáo
lý viên trong cả nuớc.
I. THEO CHÚA
Nếu theo Quốc Lộ 1A từ Bắc vào Nam đến cây số 1300, chúng ta sẽ gặp
cầu Ngân Sơn bắc qua sông Kỳ Lộ, dân địa phương gọi là sông Cái.
Sông này bắt nguồn từ núi Kong K’Dung, cao 1029m, trên cao nguyên
Gia Lai ở phía Tây Bắc, và chảy ra Biển Đông ở cửa Tiên Châu trong
vịnh Xuân Đài. Qua cầu Ngân Sơn, chúng ta đến thị trấn Chí Thạnh,
huyện lỵ của huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Từ Chí Thạnh, men theo con
đường dọc hữu ngạn về phía hạ lưu chừng 4km, chúng ta đến nhà thờ
Mằng Lăng. Đi thêm chừng 1km nữa, chúng ta đến một địa điểm dân địa
phương gọi là Thành Cũ.
Vào thời của Á Thánh Anrê Phú Yên, đây chính là địa điểm của Dinh
Trấn Biên. Nếu đi thêm khoảng 3-4km nữa, chúng ta sẽ đến cửa biển
Tiên Châu nước yên tĩnh và trong vắt. Hiện nay khu vực này là một
vùng nông thôn hiền hoà đầy màu xanh, dân chúng làm ruộng, đánh cá
trên sông Kỳ Lộ và vịnh Xuân Đài, kiếm củi đốt than trên hai ngọn
núi nhỏ Sơn Chà và A Mang. Nhưng vào thời của Á Thánh Anrê Phú Yên,
đây là dinh trấn tiền đồn của Chúa Nguyễn đối mặt trực tiếp với
vương quốc Chiêm Thành ở bên kia đèo Cả. Có lẽ mọi sự đã được tính
toán rất kỹ để Dinh Trấn Biên được đặt tại nơi ngày nay gọi là Thành
Cũ : biển, sông, núi, ruộng, đường bộ, đèo Cả ở phía Nam, đèo Cù
Mông ở phía Bắc ...
Năm 1470, sau khi đuổi người Chăm qua phía Nam đèo Cả, vua Lê Thánh
Tông đến núi Đá Bia ở đèo Cả, cách Thành Cũ chừng 60 km về phía Nam,
đánh dấu ranh giới phía Nam của nước Đại Việt. Bên kia đèo Cả là
nước Chiêm Thành còn lại của người Chăm. Cho đến thời của Á Thánh
Anrê Phú Yên, nghĩa là gần 200 năm sau, ranh giới này vẫn giữ
nguyên. Tuy nhiên việc khai phá chỉ tiến triển từng bước. Năm 1570,
Nguyễn Hoàng được đặt làm Tổng Trấn Thuận Hoá và Quảng Nam, nhưng
thực tế, ông chỉ cai trị đến đèo Cù Mông, tức là hết tỉnh Bình Định
hiện nay, chưa đến Phú Yên. Năm 1578 ông cho đưa dân đến Phú Yên.
Năm 1629 ông cho lập Dinh Trấn Biên ở Phú Yên. Vết tích Chăm ngày
nay vẫn còn khá nhiều ở Phú Yên : Tháp Nhạn ở thị xã Tuy Hoà,
nhiều mộ người Chăm mà dân chúng địa phương gọi là mả Hời,
một số tên riêng như sông Đà Rằng, núi A Mang ...
Có thể nói, giả sử không có cha Đắc Lộ thì cũng không có Á Thánh
Anrê Phú Yên. Cha Đắc Lộ sinh năm 1593 tại Avignon, lúc ấy là lãnh
địa thuộc quyền Toà Thánh trên đất Pháp. Năm 1612 cha vào Dòng Tên
với ước nguyện được đi truyền giáo ở Viễn Đông. Sau khi thụ phong
linh mục năm 1618, cha được chỉ định đi Nhật Bản. Để chuẩn bị, cha
đến Áo Môn ở Trung Hoa để học tiếng Nhật. Nhưng lúc ấy chính quyền
Nhật Bản cấm đạo gắt gao, trong khi công cuộc truyền giáo ở Việt
Nam đang tiến triển tốt đẹp, vì thế cha được phái đến Việt Nam lần
đầu năm 1624. Cha học tiếng Việt tại Hội An và chỉ trong một thời
gian ngắn đã nghe và nói được thông thạo.
Vào thời ấy Việt Nam bị phân chia thành 2 miền, lấy sông Gianh ở
Quảng Bình làm ranh giới : miền Bắc được nhân dân gọi là Đàng Ngoài
do chúa Trịnh cai trị, miền Nam là Đàng Trong do chúa Nguyễn. Vua Lê
ở Thăng Long chỉ có hư vị. Đàng Trong lúc bấy giờ được chia thành 4
trấn : Bố Chính (Quảng Bình), Thuận Hoá (Quảng Trị và Thừa
Thiên-Huế), Quảng Nam (bao gồm cả hai phủ Quảng Ngãi và Quy Nhơn) và
Phú Yên. Đứng đầu mỗi trấn là vị trấn thủ thường là con trai hay con
rể chúa Nguyễn, trừ trấn Thuận Hoá gọi là dinh chính do chúa Nguyễn
đích thân chỉ huy.
Có thời gian một mình cha Đắc Lộ là linh mục tung hoành hoạt động
truyền giáo tại Đàng Trong : “Không bao giờ tôi thấy Thiên Chúa
phù hộ rõ rệt hơn. Chỉ mình tôi là linh mục trong lãnh thổ rộng lớn
(Đàng Trong) và tôi nói thật rằng, xứ đạo của tôi ít ra cũng rộng
tới 120 dặm. Thế nhưng trong vòng 2 năm tôi đi thăm được tất cả
không bỏ sót một nơi nào tôi biết, cần bao lâu thì tôi ở bấy lâu để
giúp đỡ các linh hồn. Tôi nói thật, hai năm đó như là một Tuần Thánh
liên tục : ở đâu tôi cũng phải làm những việc mà ở Âu Châu người ta
làm trong Tuần Thánh”. Riêng về “ba tỉnh phía Nam” tức là Quảng
Ngãi, Bình Định và Phú Yên, cha kể : “Cả ba tỉnh này đều rất đẹp,
có nhiều cửa biển và sông lớn rất thuận tiện cho việc thông thương
đi lại. Về phía tỉnh Phú Yên, chúa Nguyễn có nhiều thuyền chiến để
chống xâm lăng... ở ngay biên giới. Ngoài ra chính ở đây có thổ sản
rất quý là trầm hương và tổ yến”. Về hoạt động tông đồ, cha kể :
“Tôi bỏ ra 6 tháng để đi một vòng cả ba tỉnh, lúc thì đi đường
biển, lúc thì đi đường sông, gặp nhiều nguy hiểm. Mà đi đường bộ
cũng khó khăn và vất vả không kém. Nhưng Chúa nhân lành hằng ở cạnh
tôi và cứu tôi ở hết mọi nơi mọi chốn”.
Vị thừa sai đầu tiên đặt chân đến Phú Yên năm 1624 chính là cha
Phanxicô Buzomi. Có thể lúc ấy đã có một số giáo dân đến đó lập
nghiệp trong đà nam tiến của dân tộc. Cũng có thể lúc ấy ngài rửa
tội thêm một số tân tòng. Năm 1641 cha Đắc Lộ đến Phú Yên lần đầu.
Dịp này một thiếu niên 16 tuổi đã tìm đến xin được rửa tội và được
cha rửa tội cho. Lễ rửa tội cho chừng 90 người được cử hành khoảng
tháng 5 tại tư dinh công chúa Ngọc Liên, người đã theo đạo từ trước
với tên thánh là Maria Madalena, và lúc ấy là vợ của tướng Nguyễn
Phúc Vinh, quan trấn thủ Phú Yên. Khi được rửa tội, thiếu niên ấy
mang tên thánh Anrê. Sau này cha Đắc Lộ chỉ gọi bằng tên ấy, nên
chúng ta không biết tên thật của ngài. Có lẽ ở nhà ngài được gọi
bằng “Út” theo thói quen địa phương. Còn tên chính thức của ngài
trong sổ sách thì cho đến nay vẫn chưa ai tìm được. Lúc ấy Anrê chỉ
là một chú bé giữa bao người khác, chưa có gì nổi bật khiến cha Đắc
Lộ phải nhắc đến.
Cha Đắc Lộ phấn khởi : “Năm 1625 đạo Chúa Kitô đưọc truyền bá
khắp nơi ở Đàng Trong. Chúng tôi có 10 tu sĩ chuyên cần hoạt động và
công việc không gặp cản trở”. Đó chính là năm Anrê chào đời.
Ngài là con út trong gia đình đông anh chị em, có lẽ cha mất sớm, mẹ
là bà Gioanna, một phụ nữ đảm đang và được cha Đắc Lộ gọi là “rất
nhiệt thành”. Bà chăm lo nuôi nấng dạy dỗ đàn con nói chung, rất
chăm sóc việc giáo dục cho Anrê nói riêng, cả về đường đức hạnh cũng
như học vấn. Bà “đã lo cho Anrê ngày từ những năm đầu được học
chữ nghĩa, kinh sử”. Điều này chúng ta sẽ thấy rõ hơn khi ngài
học với thầy Inhaxu. Ngoài ra, hầu như chúng ta không biết gì hơn về
tuổi nhỏ của ngài. Có lẽ ngài cũng lên núi Sơn Chà kiếm củi hoặc ra
ruộng cày cấy phụ giúp cha mẹ như bao thiếu niên đồng trang lứa. Đặc
biệt sau này cha Đắc Lộ cho biết ngài chèo thuyền rất giỏi. Hẳn là
ngài đã được tập luyện khi điều khiển những chiếc “xổng”, tức là
thuyền nhỏ làm bằng tre trên sông Cái. Vì mẹ ngài rất đạo đức nên
chắc chắn gia đình phải đọc kinh cầu nguyện hằng ngày. Chẳng những
vậy, có thể ngài còn được mẹ dạy những điều cơ bản về đạo nữa. Tóm
lại ngài là mảnh đất tốt, chỉ chờ cha Đắc Lộ đến gieo hạt giống
thiêng liêng vào là nảy mầm để rồi sinh hoa kết quả dồi dào.
Có lẽ gia đình bà Gioanna đã cùng với một số gia đình khác chuyển
đến Phú Yên từ trước đó khá lâu. Cha Đắc Lộ cho biết là cha mẹ Anrê
đều có đạo. Có thể vì ở quê mới không có nhà thờ, không có linh mục,
không có ai dạy dỗ, nên phải chờ tới khi cha Đắc Lộ đến, Anrê mới
được rửa tội. Có thể xác định, theo chứng từ có được, gia đình ngài
ở xóm Lò Giấy, cách nhà thờ Mằng Lăng hiện nay khoảng 3km về phía
Tây Bắc, bên kia sông, là xóm đạo đầu tiên ở Phú Yên. Như vậy, có
thể Anrê ở xóm này. Hiện nay xóm Lò Giấy chỉ còn lại vài gia đình
Công Giáo. Ngôi nhà thờ làng, không biết được dựng từ khi nào, nay
không còn dấu vết gì khác ngoài nền lát gạch dùng làm sân phơi lúa.
Chuyến thăm Phú Yên lần đầu của cha Đắc Lộ thành công rực rỗ. Cha
cho biết : “Khi tôi ngồi toà
thì các kẻ giảng làm phận sự dạy người tân tòng. Tôi cũng tìm thời
giờ để giảng mỗi ngày 2 lần. Lương dân kéo đến lũ lượt và Thiên Chúa
phán trong lòng họ. Số người chịu phép rửa tội nhiều khi quá đông
không làm trong nhà thờ được, mặc dù nhà thờ khá rộng lớn, đành phải
dạy dỗ và rửa tội cho họ ở sân lớn trước cửa nhà thờ. Thế mà trong
công việc này, tôi không cảm thấy mệt mỏi, không ngã bệnh. Tôi vui
sướng đến nỗi không biết tôi còn ở dưới đất hay là đã lên trời”.
Dù vậy chỉ ở Đàng Trong được 7 tháng, cha buộc phải rời Việt nam
theo lệnh quan trấn thủ Quảng Nam.
II. DÂNG MÌNH CHO CHÚA
Chỉ mấy tháng sau, vào đầu năm 1642, cha Đắc Lộ lại quay về với đoàn
chiên Đàng Trong. Lần này Anrê đến xin theo cha và được nhập Hội
Thầy Giảng.
Khi chính thức khởi sự công cuộc truyền giáo ở Việt Nam năm 1615,
các cha Dòng Tên đặt trụ sở tại Hội An, nơi có thương cảng quốc tế,
có nhiều người Nhật Bản và Bồ Đào Nha đến làm ăn buôn bán. Cha
Phanxicô Buzomi mà cha Đắc Lộ kính cẩn gọi là “vị tông đồ Đàng
Trong” ngay từ đầu đã mời gọi và huấn luyện một số giáo dân làm
kẻ giảng tức là giáo lý viên, để cộng tác với các thừa
sai trong hoạt động tông đồ.
Khi hoạt động truyền giáo ở Đàng Ngoài, từ 1627 đến 1630, cha Đắc Lộ
đi xa hơn một bước nữa : lập Hội Thầy Giảng. Chẳng những các
giáo lý viên họp thành một cộng đoàn mà mỗi người còn
tuyên khấn nữa. Cha Đắc Lộ kể : “Trước mặt giáo đoàn, trong
thánh lễ, họ đã thề suốt đời phụng sự Hội Thánh, không lập gia đình
và vâng lời các Cha Dòng đến giảng Tin Mừng. Thấy nghi lễ long trọng
này, mọi giáo dân đều phấn khởi và trọng kính các tôi tớ Chúa. Còn
họ, thực sự họ làm trọn sứ mạng rất xứng đáng. Phần lớn thành quả
thâu lượm được ở xứ này là nhờ họ”. Nhờ đó khi có các thừa sai,
các thầy giúp các cha. Đặc biệt khi không có các thừa sai, các thầy
điều hành cộng đoàn tín hữu trong khi vẫn tiếp tục hoạt động truyền
giáo cho những người chưa tin Chúa. Rút kinh nghiệm ở Đàng Ngoài,
khi trở lại Đàng Trong, cha cũng thành lập Hội Thầy Giảng. Hẳn là
qua đời sống và hoạt động của cha Đắc Lộ nói riêng và các kẻ giảng
nói chung, người con út của bà Gioanna nhiệt thành đã nghe được
tiếng gọi thầm kín nhưng mãnh liệt của Chúa Giêsu : “Hãy theo Ta,
Ta sẽ làm cho con trở thành kẻ lưới người”.
Theo cha Đắc lộ thì Anrê lúc ấy là một thiếu niên không được khoẻ
mạnh lắm, đã biết chữ khá, chắc là chữ Nôm, khéo tay, thông minh,
khôn ngoan và rất nhiệt thành. Tuy nhiên chú bé này còn trẻ quá.
Thầy giảng Inhaxu đã trên 30 tuổi, đã từng là quan ở triều đình,
trong khi Anrê mới 17 tuổi, học hành chưa đến đâu, còn non nớt quá.
Cha Đắc Lộ từ chối nhưng chú bé ở vào “tuổi bẻ gãy sừng trâu” ấy
không chịu đầu hàng. Mẹ ngài là bà Gioanna - mà cha Đắc Lộ rất quý
mến - đến xin cho con. Thế là ngài được nhận rồi theo cha Đắc Lộ và
các thầy giảng khác đi Hội An, trụ sở của đoàn truyền giáo.
Hội Thầy Giảng Đàng Trong lúc ấy có 10 anh em do thầy Inhaxu đứng
đầu. Cha Đắc Lộ kể về thầy Inhaxu : “...con nhà sang trọng, từng
là thẩm phán, thông minh, rất giỏi chữ Nho, nhất là rất đạo đức, một
vị thánh đích thực, gốc ở miền Bắc, sau khi chịu phép rửa tội thì
không muốn rời tôi, và thực ra tôi gặp được Inhaxu thì không lấy gì
làm sung sướng hơn”. Như vậy là sau khi theo đạo, thầy Inhaxu bỏ
cả đường công danh đang rộng mở để theo cha Đắc Lộ làm kẻ giảng.
Anrê được giao cho thầy để học văn chương. Có lẽ là học chữ Nho và
Tứ Thư Ngũ Kinh của Trung Hoa. Anrê học hành có kết quả đến nỗi thầy
Inhaxu nói với cha Đắc Lộ : “Trong tất cả các môn sinh, không một
người nào đọ kịp trí tuệ của Anrê : linh lợi thông minh, học đâu
hiểu đó”.
Chính cha Đắc lộ kể khá nhiều điều về giai đoạn này của Anrê :
“Người anh không khoẻ mạnh lắm, thế mà việc khó mấy trong nhà anh
cũng làm luôn, nhiều khi lại làm quá sức, anh quên mình để giúp kẻ
khác... Anrê ở nhà tôi chỉ ít lâu, nhân đức trong linh hồn anh đã
biểu lộ ra ngoài. Anh sống giữa chúng tôi như một vị thánh nhỏ. Anh
có tư thái hiền hậu, đức vâng lời mau lẹ, rất kính trọng mọi người
khiến ai cũng đều cảm phục... Anh coi mình như kém hết mọi người và
không có gì làm cho anh bằng lòng hơn là được dịp phục vụ người
khác”. Ngoài ra, cha cũng cho biết là ngài khéo tay và chèo
thuyền rất giỏi.
Năm 1643, lễ thánh Inhã, tổ phụ Dòng Tên, được tổ chức long trọng
tại nhà thờ Hội An. Cha Đắc Lộ đã nhận được lệnh trục xuất. Không
thể bỏ một đoàn chiên bơ vơ. Trong thánh lễ, tất cả 10 anh em, kể cả
Anrê lúc ấy 18 tuổi, tay cầm nến sáng, quỳ trước bàn thờ, “tuyên
thệ suốt đời phục vụ Hội Thánh, không bao giờ lấy vợ, và sẽ vâng lời
các cha Dòng Tên đến giảng đạo trong nước hoặc những vị thay mặt các
cha”. Chính các kẻ giảng sẽ thay mặt cha, vừa thăm viếng các
cộng đoàn, vừa truyền giáo cho những người chưa tin Chúa.
Cha Đắc Lộ cho biết : “Từ ngày khấn, Anrê tự cho mình có bổn
phận sống trọn lành hơn khi trước nhiều lắm. Sự thật thì suốt năm ấy
chính là năm cuối đời, anh tiến rất cao trên đường thực hành mọi
nhân đức, khiến chúng tôi chẳng hiểu ý Chúa dự định về anh như thế
nào, nhưng chúng tôi biết rõ những tác động ấy của ơn thánh
sủng chẳng phải là sự thường”.
Sau đó, cha Đắc Lộ cho một mình thầy Inhaxu mặc áo dòng và được gọi
là thầy. Ngài chia 10 anh em làm hai nhóm : một nhóm do thầy Inhaxu
cầm đầu đi hoạt động ở ba tỉnh phía Bắc là Bố Chính (Quảng Bình),
Thuận Hoá (Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế), Quảng Nam (Đà Nẵng và Quảng
Nam) ; một nhóm do anh Đamasô cầm đầu đi hoạt động ở ba tỉnh phía
Nam là Quảng Ngãi, Quy Nhơn (Bình Định) và Phú Yên. Anrê ở nhóm
trước. Cha Đắc Lộ cho biết : “Tôi trở về Áo Môn vào tháng 9-1643,
còn họ trung thành làm tròn nhiệm vụ tôi uỷ thác cho. Thoạt đầu tất
cả 10 người cùng nhau ở lại một tháng trong nhà chúng tôi ở Đà Nẵng,
mà vì nhà cửa đã bị lương dân phá huỷ bình địa nên phải làm lại.
Trong dịp ấy, có mấy người yếu hơn ngã bệnh. Anrê người rất hăng hái
nhưng sức yếu nên cũng ngã bệnh. Inhaxu làm bề trên nhưng lại làm
đầy tớ tất cả, đêm ngày săn sóc mọi người, không quản khó nhọc và
không ngại việc hèn mọn để chữa chạy cho các tôi tớ tốt lành của vị
Thầy độc nhất là Đức Kitô”. Khi khỏi bệnh, họ chia tay đi các
nơi như cha Đắc Lộ đã chỉ định. Cả hai nhóm đều thu được những kết
quả tông đồ đáng khích lệ. Năm anh em đi về phía nam hoạt động rất
đắc lực : trong 2 tháng đã rửa tội được 293 tân tòng. Riêng nhóm
bắc, chỉ trong ít ngày mà đã rửa tội được 303 người. Anrê làm gì ?
Cha Đắc Lộ kể : “Anrê giảng đạo cho người ngoại giáo, dạy dỗ kẻ
tân tòng, dọn dẹp nhà thờ rất sạch sẽ, trang hoàng nhà thờ những
ngày lễ lớn quanh năm, khéo léo đến nỗi làm cho bổn đạo tăng thêm
lòng sốt sắng và cả người ngoại giáo cũng phải trọng kính mầu nhiệm
của Đạo”. Vào Lễ Giáng Sinh năm 1643, tại Thuận Hoá, Anrê vốn
khéo tay, đã dựng một hang đá rất đẹp, có tượng Chúa Hài Đồng, Đức
Mẹ và thánh Giuse. Hai nhóm “đi khắp các tỉnh, các làng, các xã ở
Đàng Trong. Thiên Chúa phù hộ, ban ơn, giúp đỡ chúng tôi, nên số
giáo dân trong một thời gian ngắn đã thêm được hơn 1.000 người”.
Đã diễn ra những cuộc bách hại lẻ tẻ, nhưng giáo dân vẫn vững vàng.
Điều này cho thấy các kẻ giảng đã thực sự là nhóm lãnh đạo và chứng
nhân kiên cường.
Như thế, có thể nói, cuộc đời tận hiến và hoạt động tông đồ đã thu
hút toàn bộ trái tim, khối óc và sức lực của người thiếu niên tưởng
chừng còn rất non nớt. Và ngài cũng chứng tỏ là một tông đồ đầy
triển vọng : mới 19 tuổi, và mới theo đoàn truyền giáo được hai năm,
mà đã biết chèo thuyền, biết làm hang đá, biết giảng giáo lý, có học
hành, rất đạo đức, ham làm việc, dám xông pha khắp nơi, không ngại
khó khăn và nguy hiểm. Giả như mọi sự diễn tiến bình thường, biết
đâu ngài sẽ chẳng trở thành người kế thừa xứng đáng vị tông đồ thời
danh Đắc Lộ !
III. LỄ TOÀN THIÊU
“Nếu thế gian ghét anh em, hãy nhớ là nó đã ghét Thầy trước”
(Ga 15,18), Chúa Giêsu đã nói như vậy với các môn đệ. Qua dòng thời
gian, bao giờ và ở đâu cũng vậy, các tín hữu được nhiều người thương
mến nhưng cũng bị một số thù ghét.
Kẻ thù số một của các tín hữu Đàng Trong thời đó là bà vương phi
Tống Thị Toại, một phụ nữ rất có thế lực ở phủ chúa. Bà nguyên
là vợ thứ của thế tử Nguyễn Phúc Kỳ, trấn thủ Quảng Nam. Lẽ ra thế
tử Kỳ lên kế vị chúa Sãi (1614-1635), nhưng lại qua đời năm 1631,
trước chúa Sãi 4 năm. Vương tử Lan, em kế thế tử Kỳ, lên ngôi kế vị,
tức Công Thượng Vương hay chúa Thượng. Bà Toại ra vào
phủ chúa tự do và ăn ở với chúa Thượng như vợ chồng. Chuyện loạn
luân này làm cho nhiều người phẫn nộ. Con thứ tư của chúa Sãi là
vương tử Trung đã có ý định quét sạch hai kẻ loạn luân khỏi phủ
chúa, nhưng việc không thành. Phần nào giống thánh Gioan Tẩy Giả
trong Tin Mừng, thầy Inhaxu đã phê phán người phụ nữ tội lỗi ấy và
bị bà căm ghét nên tìm dịp trả thù. Bà rất sợ các thừa sai làm cho
chúa Thượng theo đạo, vì lúc ấy bà sẽ mất hết. Bà tìm được một người
đồng loã là ông Nghè Bộ ở Quảng Nam. “Ông Nghè Bộ” thật ra
không phải là một tên riêng, nhưng là tiếng dân chúng thường dùng để
chỉ viên cai bạ, hay cai bộ, tức là người đứng đầu
ngành tài chính và thuế khoá ở một trấn. Thực ra, chức năng của viên
quan này không liên hệ gì đến vấn đề tôn giáo, nhưng vốn đã ghét
đạo, lại muốn nhờ cậy bà Toại, nên sẵn lòng làm tay sai cho người
phụ nữ nhiều thế lực.
Những dấu hiệu đầu tiên bộc lộ từ năm 1639. Ông Nghè Bộ xin chúa
Thượng trục xuất các thừa sai, vì các cha cho giáo dân tôn thờ ảnh
Thánh Giá chứ không sùng bái chư thần trong đất nước. Ông cho người
đến cướp một ảnh Thánh Giá rất đẹp các cha vẫn giữ để thờ. Họ đem
tới trình chúa và bày ra trăm mưu ngàn chước để làm cho chúa hoảng
sợ. Chúa liền truyền cho đốt ảnh đi và đe doạ “người nào còn đưa
vào đất nước này những vật khả ố đó thì hãy coi chừng mạng sống...”
Người Bồ Đào Nha chuộc được Thánh Giá nhưng các cha bị trục xuất.
Chính vì vậy, có thời gian cha Đắc Lộ và các thầy giảng phải hoạt
động lén lút chứ không dám xuất đầu lộ diện.
Ngày 25-7-1644, Á Thánh Anrê bị bắt. Thực ra, người bà Toại nhắm đến
là thầy Inhaxu, vừa nổi tiếng, vừa có ảnh hưởng lớn. Ông Nghè Bộ cho
lính xông vào nhà các cha Dòng Tên ở Hội An để bắt thầy. Không tìm
được thầy, lính đập phá nhà cửa, ảnh tượng. Hôm ấy, Anrê ở nhà coi
sóc 4 anh em đang đau bệnh, trong khi cha Đắc Lộ và các anh em khác
đi làm việc tông đồ. Muốn ngăn cản lính ngừng tay đập phá bừa bãi,
ngài nói với họ : “Nếu các ông muốn bắt thầy Inhaxu thì vô ích,
vì thầy không có ở nhà. Còn muốn bắt tôi thì rất dễ dàng : tôi là
giáo hữu, hơn nữa cũng là kẻ giảng. Tôi có cả hai tội mà các ông
khép cho thầy Inhaxu để bắt thầy ấy. Nếu thầy ấy có tội thì làm sao
tôi lại vô tội được ?”. Thế là họ bắt và trói ngài. Lính định
bắt cả mấy thầy đang đau ốm, nhưng ngài cương quyết phản đối, nên họ
thôi. Nhưng họ vẫn tiếp tục đập phá ảnh tượng đạo. Ngài đề nghị được
cởi trói để xếp ảnh tượng lại cho dễ mang đi, họ cũng chấp thuận.
Sau đó, họ trói ngài lại và dẫn về giam ở dinh trấn Quảng Nam trong
huyện Điện Bàn ngày nay. Cha Đắc Lộ kể : “Anrê vui vẻ theo họ và
trên suốt quãng đường không ngừng giảng cho những người dẫn mình vào
ngục biết đường tránh địa ngục và lên thiên đàng”.
Trước đó, lính cũng đã bắt một giáo dân 73 tuổi là ông Anrê Sơn. Hai
Anrê cùng thức suốt đêm cầu nguyện và khích lệ nhau. Sáng hôm sau,
quan trấn thủ đưa cả hai ra xét xử và kết án tử hình cả hai. Nghe
tin ấy, cha Đắc Lộ vận động người Bồ Đào Nha đến xin quan rút lại
bản án. Cha kể : “Ông bằng lòng tha cho cụ già, vì còn con cháu ;
nhưng về người thanh niên trai tráng xưng mình là giáo hữu và dù có
chết cũng không bỏ danh hiệu ấy, thì sẽ phải chết như đã xin, để dạy
cho mọi người biết vâng lệnh chúa”.
Nhiều giáo dân Việt Nam cũng như Bồø Đào Nha đến quỳ dưới chân ngài
vừa hôn vừa khóc ròng, xin ngài về thiên đàng nhớ cầu nguyện cho
mình. Ngài đáp lại : “Tôi là kẻ rất có tội”. Rồi ngài khích
lệ họ : “Hỡi anh em, đối với Chúa Giêsu yêu dấu của chúng ta,
chúng ta hãy lấy tình yêu đáp lại tình yêu. Chúa đã chịu chết đau
khổ vì chúng ta, nên chúng ta hãy lấy mạng sống đáp đền mạng sống...
Anh chị em thấy rõ tôi đây bị bắt và sắp phải chết, chẳng phải vì ăn
cướp, giết người hay làm thiệt hại ai, mà chỉ vì tôi đã nhìn nhận
Chúa Tể Trời Đất và Con Một Người xuống thế chịu chết chuộc tội cho
chúng ta. Mọi sự chúng ta có đều do nơi Người. Thế mà người ta lại
muốn tôi xúc phạm đến Người. Tôi chẳng sợ bất cứ hình phạt nào người
ta có thể bắt tôi phải chịu, tôi chỉ sợ lửa hoả ngục đời đời là hình
phạt dành cho kẻ từ chối không tin thờ Chúa Giêsu Kitô là Đức Chúa
Trời thật. Hỡi anh chị em, hãy coi chừng, đừng từ chối ơn Đức Chúa
Trời muốn ban cho anh chị em, phải liệu sao cho khỏi bị xử phạt đời
đời”.
Cũng cha Đắc Lộ cho biết : “Sau khi bị kết án tử hình, Anrê hớn
hở lạ lùng... Anh xưng tội, quỳ xuống cầu nguyện, vĩnh biệt mọi
người, rồi nhanh nhẹn theo toán lính dẫn anh tới thửa ruộng cách
thành chừng nửa dặm”. Thành đây là thành Thanh Chiêm, trong
huyện Điện Bàn, nơi có dinh trấn thủ ở khoảng km 952 trên quốc lộ 1A
hiện nay. Còn thửa ruộng ấy được dân chúng gọi là Gò Xử, nay
nói trại đi thành Gò Sứ, ở địa điểm gọi là Chợ Củi, cách
thành chừng 1km, theo cách nói của cha Đắc Lộ là 2000 bước.
Trên đường ra pháp trường, ngài khích lệ các tín hữu theo ngài :
“Hỡi anh chị em, hãy giữ nghĩa cùng Chúa Giêsu cho đến chết. Không
một điều gì có thể dập tắt lòng kính mến Chúa Giêsu trong trái tim
chúng ta”.
Cha Đắc Lộ kể tiếp : “Tôi hằng ở bên anh, và tôi không theo kịp,
vì anh đi rất nhanh, mặc dù phải mang gông nặng. Tới địa điểm chiến
thắng, anh quỳ xuống để chiến đấu cho can đảm hơn. Lính gác bao
quanh anh. Họ không cho tôi ở bên trong vòng lính, nhưng viên đội
trưởng cho phép tôi vào và đứng cạnh anh. Anh vẫn quỳ dưới đất, mắt
nhìn trời, miệng luôn hé mở và kêu tên Chúa Giêsu. Một người lính
lấy giáo đâm anh từ phía lưng thâu qua ngực chừng hai bàn tay. Lúc
đó Anrê nhìn tôi âu yếm như thể vĩnh biệt tôi. Tôi bảo anh hãy nhìn
lên trời, nơi anh sắp tới và có
Chúa Giêsu chờ đón anh. Anh ngước mắt lên trời cao và không nhìn
xuống nữa. Cũng tên lính rút giáo ra đâm lần thứ hai, rồi lại đâm
lần nữa như thể đi tìm trái tim anh. Nhưng con người vô tội ấy vẫn
không lay chuyển, thật là kỳ diệu. Sau cùng, một người lính khác
thấy lưỡi giáo không làm cho anh ngã xuống đất, liền lấy mã tấu chém
cổ. Nhưng một nhát vẫn chưa xong, phải thêm nhát nữa làm đứt hẳn cổ,
đầu rơi về bên tay phải, chỉ còn vướng mảnh da. Nhưng tôi nghe rất
rõ, cùng lúc đầu lìa khỏi cổ thì Thánh Danh Chúa Giêsu không phải từ
miệng anh thốt ra, mà qua vết chém ở cổ. Và cùng lúc hồn anh
bay về trời thì xác anh ngã xuống đất”.
Sau đó cha Đắc Lộ gửi phần thân vị tử đạo sang Áo Môn để lưu giữ
cùng với hài cốt các vị tử đạo Nhật Bản. Không may một lần kia, nhà
lưu giữ bị cháy, mặc dù hài cốt các vị tử đạo không bị thiêu huỷ,
nhưng bị lẫn lộn không phân biệt được nữa. Riêng đầu của vị tử đạo,
cha Đắc Lộ luôn đem theo bên mình, và khi đến Roma, đã đặt chung vào
nhà lưu trữ hài cốt các vị tử đạo Dòng Tên ở trụ sở trung ương Dòng,
ngày nay vẫn còn nguyên vẹn.
Vậy là ngài đã trở thành người của Hội Thánh, của nhân loại : một
người con dân Việt Nam mà đầu ở Châu Âu, mình ở Châu Á. Cha Đắc Lộ
kể nhiều điều về cha gọi là phép lạ sau cuộc tử đạo của ngài cũng
như trong hành trình đưa di hài đến Áo Môn và đến Roma. Tuy nhiên,
có lẽ “phép lạ” lớn nhất chính là chỉ trong ba năm, một thiếu niên
vô danh đã trở thành một môn đệ tuyệt vời và một chứng nhân anh dũng
của Chúa Giêsu.
Xưa, trên đà nam tiến của dân tộc Việt Nam, Á Thánh Anrê Phú Yên đã
mở ra một chiều kích mới cho cả dân tộc là tiến đến với Thiên Chúa.
Đúng một năm sau, hai thầy giảng Inhaxu và Vinxentê cũng lãnh triều
thiên tử đạo. Rồi đoàn chứng nhân hơn một trăm ngàn vị tử đạo trong
những thế kỷ tiếp theo. Nay, trên đà phát triển kinh tế và văn hoá,
có thể dân tộc Việt Nam cũng như cả loài người vẫn chờ mong những
Anrê Phú Yên mới, những con người chân đứng trên mặt đất, mắt hướng
lên trời cao, Thánh Danh Chúa Giêsu trào dâng từ những trái tim vừa
trong sáng, vừa nồng hậu. Với dáng dấp nhỏ nhắn nhưng rắn rỏi, như
chính Hội Thánh và dân tộc Việt Nam hôm nay, mặc dù đi trước về sau,
ngài mãi mãi là “người chứng thứ nhất”, một tín hữu
Việt Nam tiêu biểu mà chúng ta ước mong là Chúa Giêsu cũng như nhân
loại có thể tìm lại được trong hàng triệu cháu con của dòng giống
Lạc Hồng hôm nay.
Hiển Linh, 19-2-2000
Cosma Hoàng Văn Đạt, S.J.
Đôi điều về
Chân Phước Anrê Phú Yên
Minh Đạo
Những sử liệu quý giá còn lại cho chúng ta biết Chân Phước Anrê Phú
Yên được sinh ra tại vùng đất nay thuộc giáo xứ Mằng Lăng, tỉnh Phú
Yên, giáo phận Quy Nhơn và chịu tử đạo tại vùng đất thuộc giáo xứ
Vĩnh Điện, tỉnh Quảng Nam, giáo phận Đà Nẵng.
ĐỊA DANH MẰNG LĂNG
Tương truyền, xưa kia nơi này được gọi là truông Mằng Lăng, một nẻo
đi gợi hình ảnh u tịch, rậm rạp cây cối. Mằng Lăng là tên của loài
cây lớn, mọc nhiều ở đó. Không rõ Mằng Lăng có thuộc họ Bằng Lăng,
một loại cây to, tán dày, lá hình bầu dục, hoa mọc thành cụm đầu
cành, màu tím hồng, gỗ nâu vàng, có thể dùng để đóng thuyền và đồ
dùng ? Ta có thể tin được có một cây đại danh mộc tên Mằng Lăng vì
cây gỗ ấy hiện nay còn một mặt bàn tròn tại nhà xứ Mằng Lăng, đường
kính hơn 1,5m. Giáo xứ này hiện nay thuộc thôn Hội Tín, xã An Thạch,
huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Giáo xứ do linh mục Phaolô Nguyễn Minh
Chính quản nhiệm, với số giáo dân là 2416 người.
THÁNH TÍCH CỦA CHÂN PHƯỚC ANRÊ PHÚ YÊN
Sau khi Thầy Anrê bị hành quyết, cha Đắc Lộ đã xin được thi hài Thầy
Anrê và trao cho ông João de Rezende de Figneiroa, thuyền trưởng
chiếc tàu Bồ Đào Nha, chở về Macao.
Tàu tới đảo Macao ngày 13-8-1644. Toà Giám mục Macao tổ chức đón
rước thi hài thầy Anrê rất trọng thể. Khởi đầu, tất cả thi hài các
vị tử đạo có liên quan đến các vị thừa sai Dòng Tên đều được cất giữ
và tôn kính trong Nhà Nguyện dâng kính Đức Mẹ của Học Viện Dòng Tên
tại Macao. Tuy nhiên vào 1837 (?), khi nhà nguyện này đã bị cháy,
thi hài các vị tử đạo cất giữ ở đó đã được chuyển đi nơi khác trước
khi bị ngọn lửa thiêu rụi. Rủi ro là trong lúc hoả hoạn, tất cả
xương cốt, thi hài đã bị gom chung vào một chỗ, ta không còn phân
biệt xương nào là của ai nữa. Sau cùng người ta đã đưa tất cả xương
thánh đó ra nhà thờ Chính Toà. Do đó, các xương thánh của Chân Phước
Anrê hiện còn ở Goa nhưng chưa được xác định.
Riêng chiếc đầu thầy Anrê, sau khi bị chém lìa khỏi thân, đã được
cha Đắc Lộ cất trong một chiếc rương quý giá để mang về Roma và giữ
tại trụ sở của cha Bề Trên Cả Dòng Tên. Hiện nay, sọ của thầy Anrê
được đặt trong nguyện đường Nhà Mẹ của các cha Dòng Tên ở Roma để
người ta đến kính viếng và ngưỡng mộ. Với những phương tiện kỹ thuật
và khoa học hiện nay, chúng ta tin là người ta có thể xác định xương
cốt của thầy Anrê ở Goa nhờ những mẫu xương sọ còn lại ở Roma. Nhưng
ai sẽ đứng ra thực hiện công việc này ?
Nhân dịp Giáo Hội toàn cầu tuyên dương vị anh hùng tử đạo đầu tiên
của Giáo Hội Việt Nam, chúng ta cùng ôn lại những trang sử hào hùng
của dân tộc và Giáo Hội để biết can đảm làm chứng cho Đức Giêsu Kitô
giữa lòng dân tộc và nhân loại hôm nay, giữa bao thăng trầm và thử
thách trong cuộc sống. Chúng ta cũng luôn cầu nguyện để xin Chúa
tiếp tục tôn vinh Chân Phước Anrê theo đúng ý Ngài.