TRƯỚC NHỮNG TÌNH HUỐNG KHÓ XỬ
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
Đoàn Xuân Kiên
Trong một thiên khảo luận về hai mươi năm văn học miền nam 1954-1975,
Võ Phiến có ý ngậm ngùi về sự bất hạnh của văn học miền nam, rằng nó
thiếu những nhà phê bình và nghiên cứu chuyên nghiệp nên đã không được
vinh dự lưu giữ trong lịch sử sau này. Tác giả có lí phần nào khi tỏ
ra quan ngại về thủ đoạn của nhà cầm quyền cộng sản trong âm mưu đánh
tráo văn học không tiền khoáng hậu trong lịch sử. (1)
Quả thật, qua bao nhiêu thời kì chia cắt, các triều đại phong kiến xưa
chưa từng có ý thủ tiêu nền văn học của kẻ bại trận để cưỡng bức quần
chúng nhận một nền văn học xa lạ với họ. Sau khi trung hưng, các vua
Lê không bao giờ ra lệnh cấm đoán lưu hành các tác phẩm thơ ca từ phú
của các tác giả nho sĩ theo phù nhà Mạc. Cũng thế, Gia long chỉ có ý
trả thù Quang trung vì lí do cá nhân chứ không hề có tâm địa giải tán
hoặc hăm dọa khủng bố các văn nhân thi sĩ cộng tác với nhà Tây sơn
trước kia. Phan Huy Ích hay Ngô Thì Nhậm có bị trừng trị thì chỉ với
tư cách là những trọng thần của vua Tây sơn, hoàn toàn không phải vì
lí do văn học. Chỉ có người cộng sản Việt nam mới nhẫn tâm thủ tiêu
nền văn học miền nam để thay thế bằng bộ phận gọi là “văn học giải
phóng miền Nam”. Âm mưu đó đã được thực hiện khá chu đáo.
Hành động thủ tiêu cả một nền văn học dù có dự mưu chu đáo và có
chuyên chế cỡ nhà cầm quyền Việt nam hiện nay dù sao cũng chỉ là một
sự cưỡng bức có tính cách chính trị hay hành chính. Sự thực thì nền
văn học đó không bao giờ có thể bị thủ tiêu được, vì lẽ nó vẫn được
người đọc hai miền nam bắc gìn giữ các tác phẩm văn học ra đời từ 1930
đến 1975, dù đảng Cộng sản không công nhận chúng. Trường hợp văn học
lãng mạn thời kì 1930-1945 là một thí dụ. Trong một thời kì dài, đảng
và nhà cầm quyền đã chỉ thị các nhà nghiên cứu và phê bình cố tình phủ
nhận giá trị của mảng văn học này. Văn khố thư viện đã là phương tiện
lưu trữ khá an toàn để đợi những đợt sóng chính trị cuồng nhiệt và mù
quáng trôi đi, tất cả những gì “đứng” được với thời gian sẽ vẫn tồn
tại.
Đáng buồn chăng là tình trạng khiếm khuyết trầm trọng một truyền thống
lưu giữ di sản văn học ở xứ ta. Thiên nhiên có thừa phương tiện để
tiêu huỷ tài liệu văn học: khí hậu nhiệt đới, thiên tai; thêm những
tai họa do con người gây nên như chiến tranh, hoả hoạn, những đợt càn
quét văn hoá phẩm do các nhà cầm quyền kém ý thức... Chừng ấy cũng đủ
bất hạnh cho di sản văn học lắm rồi. Đến như sự thờ ơ đối với việc giữ
gìn tài liệu thì quả thật đã làm thiệt thòi rất nhiều cho các thế hệ
sau trong việc nhận diện các thế hệ văn học thời quá khứ xa xăm. Đừng
nói gì đến việc tìm bản thảo hay nguyên cảo những bản in tác phẩm
Truyện Kiều nổi tiếng của Nguyễn Du ở thế kỉ trước, ngay cả của những
tác giả cùng thời với chúng ta như Vũ Hoàng Chương hay Thanh Tâm Tuyền
chẳng hạn, cũng không dễ gì tìm được để lưu trữ vào một thứ bảo tàng
văn học liên quan đến các tác giả nói trên. Hậu quả của sự thờ ơ thiếu
sót truyền thống lưu trữ tài liệu văn học này thật là nghiêm trọng.
Những ai đã từng kinh nghiệm về nghiên cứu, giảng dạy văn học Việt nam
đều gặp rất nhiều trường hợp khó xử vì những quyết đoán văn học lại
thường chỉ dựa vào cơ sở tục truyền, hoặc những khẩu thuyết vô bằng.
Đại để, có thể chia các trường hợp khó xử nói trên thành ba nhóm như
sau:
(1) Vấn đề liên quan đến tác giả. Có hay không một Hồ Xuân Hương -tác
giả của những bài thơ nôm nổi tiếng thường được truyền tụng? Có mấy
nhà văn cùng tên là Điểm, và bà Điểm nào là người có thể đã dịch nôm
Chinh phụ ngâm khúc sớm nhất? Có thể tìm được bút chứng nào xác
định rõ tâm sự Nguyễn Du khi viết Truyện Kiều? Mọi xác quyết
trong các sách nghiên cứu đều không dựa trên một bút chứng nào ngoại
trừ những tục truyền.
(2) Vấn đề liên quan đến tác phẩm. Những bài thơ nào trong di cảo
Quốc âm thi tập do Trần Khắc Kiệm khắc in năm 1868 thực sự là của
Nguyễn Trãi? Bài Văn tế Nghiã sĩ Cần giuộc của Nguyễn Đình
Chiểu cũng như các sáng tác khác của ông đều là những sáng tác ứng
khẩu và do người thân của nhà thơ chấp bút. Vậy thì có thể có được một
văn bản nào gần với phong cách ngôn ngữ của ông hay không?
(3) Vấn đề liên quan đến niên đại, thời đại. Đã có nhiều tranh luận về
thời điểm sáng tác Truyện Kiều, người thì cho rằng Nguyễn Du
viết tác phẩm này trước năm 1813 là khi ông nhận ra làm quan với triều
đình nhà Nguyễn; nhưng đến nay vẫn không tìm được tài liệu nào khả dĩ
soi sáng vấn đề này. Những tác phẩm truyện nôm như Lâm tuyền kì
ngộ, Tô công phụng sứ, Truyện Vương Tường ra đời lúc nào? Thiết
tưởng đối với một tác phẩm như Truyện Kiều thì thời điểm sáng
tác xê xích một khoảng thời gian ngắn không làm thay đổi giá trị tác
phẩm, có chăng là hiểu được thêm tâm sự của Nguyễn Du đối với thời
thế. Ngược lại, đối với những tác phẩm truyện nôm viết dưới hình thức
các bài bát cú đường luật là một hiện tượng thú vị, và giải được những
câu hỏi về niên đại sẽ đóng góp rất nhiều vào việc tìm hiểu ý nghĩa và
giá trị của tác phẩm.
Thông thường, khi gặp những trường hợp khó xử như thế, người nghiên
cứu hay giảng dạy đành dựa vào truyền ngôn từ những tác giả “có thẩm
quyền”. Bảo rằng bản dịch quốc âm Chinh phụ ngâm khúc là của
Phan Huy Ích ư ? Nhưng sách vở xưa nay vẫn bảo là của Đoàn Thị Điểm
cả! Hoặc giả, làm sao tin được rằng một giai thoại nào đó là thật sự
nói về Nguyễn Công Trứ? Thì cụ Lê Thước đã bảo thế! Ở những nơi có
truyền thống nghiên cứu văn học thường có những học giả chuyên nghiên
cứu về một tác giả hay một tác phẩm, cho nên những tìm tòi phát hiện
về tác giả và tác phẩm có thể là những kiến giải có giá trị, “có thẩm
quyền”. Truyền thống này chưa có ở Việt nam. Kể từ khi sinh hoạt
nghiên cứu văn học được quan tâm trong hoạt động học thuật và giảng
dạy, ở nước ta đã hình thành một đội ngũ nhà nghiên cứu văn học sử
đông đảo. Sinh hoạt phê bình văn học cũng tiến những bước dài. Nhưng
chưa có nhà nghiên cứu nào dốc cả đời mình để nghiên cứu Nguyễn Du hay
nhóm nhà văn Nguyễn Tiên điền. Chưa có ai bỏ công nghiên cứu nhóm nhà
văn trong gia đình Ngô Thì, Nguyễn Huy, và Phan Huy. Cũng chưa thấy có
nhà nghiên cứu nào quan tâm chuyên biệt đến một thế hệ, một khuynh
hướng văn học thời hiện đại, một tác giả hiện đại như Nhất linh,
Nguyễn Tuân, Vũ Hoàng Chương...
Trong hoàn cảnh sinh hoạt nghiên cứu phê bình như thế kể cũng khó mà
nói được ai là người “ có thẩm quyền” để có tiếng nói quyết định về
những vấn đề văn học Việt nam. Chúng ta không bội bạc để lên tiếng phủ
nhận công phu sưu tập tư liệu của cụ Lê Thước khi biên soạn tập sách
về Nguyễn Công Trứ ấn hành năm 1928, nhưng không vì thế mà có thể bảo
cụ là người có thẩm quyền về các vấn đề liên quan đến Uy viễn tướng
công. Và đấy thật là một điều đáng tiếc cho sinh hoạt nghiên cứu phê
bình văn học Việt nam. Xin đơn cử trường hợp dưới đây để làm cơ sở
thảo luận.
2
Tại sao các sách nghiên cứu văn học Việt nam lại thường ghi chép tên
người dịch nôm bài thơ dài Tì bà hành là Phan Huy Vịnh?
Ngược thời gian thì có thể thấy sự bất nhất đã xảy ra từ khi có một số
sách báo chữ quốc ngữ ấn hành vào đầu thế kỉ xx trong điều kiện văn
học Việt chưa có vị trí xứng đáng trong sinh hoạt giáo dục và nghiên
cứu, sinh hoạt học thuật chưa có nền nếp nghiên cứu văn học dân tộc.
Trong sách nói về sự nghiệp và thơ văn Nguyễn Công Trứ in năm 1928, Lê
Thước cho là tác giả này đã diễn nôm bài thơ của Bạch Cư Dị. Bản quốc
ngữ Tì bà hành trong sách của Nguyễn Quang Oánh in năm 1930 (2)
ghi là của Phan Huy Vịnh. Sau đó, ông George Cordier ghi theo Lê Thước
mà cũng cho rằng Nguyễn Công Trứ là dịch giả (3), và Trần Trung Viên
(4) cũng nối theo mà ghi Phan Huy Vịnh là soạn giả. Không thể nào dò
tìm được là các soạn giả nói trên đây dựa vào tài liệu đích xác nào để
công bố như thế.
Từ đó đến nay, nhiều sách giáo khoa tiếp nhau ghi theo ba nhà trên mà
mặc nhiên thưà nhận Phan Huy Vịnh là soạn giả. Sự kiện này cho biết
rằng chứng cứ - nếu có thể gọi đấy là chứng cứ - lắm khi chỉ là một
vài lời ghi chép không lấy gì làm xác quyết của một tác giả đi trước
nhưng đã ngẫu nhiên đóng vai trò một nguồn tư liệu trích dẫn cho người
sau. Trong khi đi tìm tư liệu về dòng họ Phan Huy, chúng tôi thấy chỉ
riêng trong một quyển Lược truyện các tác gia Việt nam của nhóm
Trần Văn Giáp (5) thôi đã có mấy lần mâu thuẫn trong việc cung cấp sử
kiện, dễ làm lạc hướng tìm tòi: tên cha Phan Huy Ích được ghi là Phan
Huy Áng (t. 1, tr. 334 và 336), nhưng chỗ khác lại ghi là Phan Huy Cẩn
( tr. 338); Phan Huy Thực thì có chỗ ghi là em của Phan Huy Ích (trong
khi ông chỉ là con), chỗ khác lại ghi là con của Phan Huy Vịnh ( trong
khi ông là cha ). Trong lần tái bản năm 1971, những sai lầm vừa nói đã
được đính chính, nhưng nghi vấn về tác giả bản diễn nôm Tì bà hành
vẫn chưa được giải toả khi nhóm soạn giả đều ghi hai cha con Huy Thực
và Huy Vịnh là dịch giả. (t.1, tr. 381 và 389). Không ai phủ nhận công
phu và kinh nghiệm nghiên cứu của cụ Trần Văn Giáp, nhưng trường hợp
nhỏ vừa nêu cho thấy giá trị của tài liệu rất cần phải được thẩm định
cẩn thận thì mới tránh được những sai sót lớn.
Trở lại trường hợp bản dịch Tì bà hành, như đã thấy,có nhiều
người biên soạn sách đã chép tên người dịch là Phan Huy Vịnh. Nhưng
lại cũng có tác giả ghi là của Phương đình Nguyễn Văn Siêu (theo Hoa
bằng), có người lại ghi là của Hi văn Nguyễn Công Trứ (theo Lê Thước),
có người lại đề khuyết danh (theo Bùi Kỷ và Nguyễn Hữu Ái). Ngoại trừ
Trần Trung Viên bảo là có tham khảo gia phả họ Phan, các tác giả khác
đều dựa theo tục truyền. Và dường như từ đấy đến khi Thê Húc duyệt lại
vấn đề khi xuất bản quyển sách nhỏ Bài hát Tỳ bà, không thấy có
ai xem lại các chứng cứ xem có gì đáng bàn cãi. Tuy nhiên,ở mức độ một
quyển sách giáo khoa bậc trung học, Thê Húc không thể làm hơn được nữa
so với lời kết luận khiêm tốn của ông: “... ta có thể dựa vào chứng
ngôn nhà họ Phan và cùng với vài nhà ưa thích (trong Nam phong tạp
chí, trong cuốn Ngâm Khúc của Nguyễn Quang Oánh và trong cuốn
Văn đàn bảo giám của Trần Trung Viên, do Trần Trọng Kim và Trần
Tuấn Khải nhuận sắc...) tạm nhận Phan Huy Vịnh là dịch giả bài Tỳ
bà, nhất là dòng họ Phan đều nổi tiếng giỏi thơ nôm: Huy Vịnh với
thân phụ là Huy Thực và tổ phụ là Huy Ích.” (6)
Xét kĩ ra thì có lẽ Trần Trung Viên đã nhầm khi bảo rằng ông căn cứ
vào gia phả để xác quyết danh tính dịch giả bài hát Tì bà. Hiện
nay còn truyền hai bản Gia phả dòng họ Phan Huy, một bản tựa là Phan
gia thế phả tự lục do Phan Huy Quýnh (1775-1844) soạn và viết lời tựa
năm 1826, một bản có tựa là Phan tộc công phả, do Phan Huy Dũng
soạn năm 1890, sau lại viết thêm bài tựa vào năm Duy Tân thứ nhất
(1907) và đổi thành Bản tộc công phả tân biên, có ghi chép các
nhân vật đời sau (7). Phần viết về Phan Huy Thực, gia phả ghi rõ ràng
như sau: “... Tác phẩm gồm có: Hoa thiều tạp vịnh, Tì bà hành diễn âm,
Nhân ảnh vấn đáp và một số khá nhiều các tấu nghị về điển lễ, thơ văn
thù ứng khá nhiều nhưng nay thất lạc cả.”
Quyển Nghiên cứu và phê bình bản dịch Tì bà hành của Hoàng Ly
và Trương Linh Tử (8) có chụp in lại trang gia phả này cùng với chân
dung truyền thần của Phan Huy Thực do một họa sĩ Trung quốc vẽ nhân
khi ông đi sứ bên đó. Ngoài ra, ông Hoàng Xuân Hãn cũng cho biết là
Phan Huy Thực soạn cả Bần nữ thán (9) và một người con cháu
dòng Phan Huy là Phan Huy Chiêm cũng cho biết Phan Huy Thực là tác giả
Nhân nguyệt vấn đáp nữa (10). Hai tác phẩm sau này không thấy
nhắc trong tiểu sử, không rõ các vị trên căn cứ trên tài liệu nào. Duy
có điều chắc chắn là gia phả dòng họ Phan Huy không hề nhắc đến tác
phẩm nôm nào của người con là Phan Huy Vịnh mà chỉ nhắc tới một trước
tác bằng chữ hán nhan đề Nhân trình tuỳ bút tập. Ông Phan Huy
Chiêm chính là người đầu tiên đặt lại vấn đề danh tính người dịch
Tì bà hành và Chinh phụ ngâm khúc diễn ca. Trong lá thư gửi
tạp chí Nam phong, ông đính chính vấn đề dịch giả các bài văn
nổi tiếng vừa kể, dựa trên gia phả và các tài liệu còn giữ được trong
dòng họ (11). Tiếc thay, bỉnh bút báo Nam phong đã không đặt
vấn đề một cách rõ ràng, xứng với tầm vóc của nó, có lẽ vì hoàn cảnh
năm 1926 chưa thuận lợi cho việc nghiên cứu học hỏi văn học nước nhà
nên học giới chẳng buồn quan tâm? Ngày nay, chúng ta có thể xem nội
dung bài báo của ông Nguyễn Hữu Tiến viết trên mục “Văn uyển” của tạp
chí Nam phong nói trên như một chứng cứ văn liệu có tầm vóc
quan trọng.
Trường hợp danh tính người diễn âm Tì bà hành đáng ra không
phải là chuyện cần nhiều giấy mực đến vậy, nếu như các nhà nghiên cứu
đi trước thận trọng và chịu khó tìm đến những tài liệu đáng tin nhất
như những bút chứng, bản thảo, hay gia phả chẳng hạn. Tài liệu còn đó,
chỉ cần thẩm tra tài liệu là đủ để xác nhận hay bác bỏ một tục truyền
vô căn cứ. Cho nên thật đáng tiếc khi Phan Huy Chiêm gửi một lá thư
đến toà báo Nam phong yêu cầu đính chính một số ngộ nhận do học
giới gây nên lúc bấy giờ thì người bỉnh bút Nam phong tạp chí đã không
nêu bật được tầm quan trọng của một lá thư như thế. Và cũng thật là
đáng tiếc khi Sở Văn hóa-Thông tin Hà sơn bình cho ấn hành quyển
Phan Huy Chú và dòng văn Phan Huy (12) đã không giúp giới nghiên
cứu các nơi bằng cách trưng dẫn những tài liệu còn lại và rất quí giá
đó để làm sáng tỏ những vấn đề đang là những nghi vấn của học giới.
Trường hợp dịch giả Tì bà hành cho ta hiểu rằng tính khoa học
của công việc nghiên cứu văn học thể hiện ở tính cách xác thực của tài
liệu tồn trữ. Và trong một chừng mực nào đó các nhà nghiên cứu Việt
học có thể làm được điều này với khối tài liệu hán nôm còn tồn tại đến
nay. Giới nghiên cứu có thể viện dẫn những khó khăn, thiếu thốn tư
liệu để bằng lòng với những luận chứng dè dặt nước đôi, nhưng là với
những trường hợp nào khác, không phải đối với loại vấn đề như dịch giả
Tì bà hành nêu trên.
3
Tuy nhiên, như đã trình bày, văn học Việt nam đã trải qua bao nhiêu
tai họa làm tiêu tán nhiều dấu vết tài liệu gọi là “tài liệu gốc”.
Nghiên cứu văn học - nhất là văn học thời cổ điển - mà nhất mực đòi
hỏi những chứng liệu xác thực như vậy thì lắm khi vĩnh viễn không tìm
ra được hi vọng, bởi lẽ hoàn cảnh đất nước chúng ta đã khiến cho rất
nhiều sách vở cũ tiêu tán đi nhiều, chẳng còn bao nhiêu để mà giở ra
đối chứng. Nếu cứ nhất mực đòi hỏi chứng liệu minh nhiên thì không
khỏi rơi vào căn bệnh giáo điều, duy sử một cách cố chấp. Tưởng không
là thưà khi nhắc lại ở đây một sự việc đáng cho những nhà duy sử cảnh
giác: những năm đầu thế kỉ xx, ở Hà nội có một dạo các gia đình còn
tồn trữ được nhiều sách cũ (cả Nôm lẫn Hán) đã có phen phát tài nhờ
những đợt rao mua sách do Trừơng Viễn Đông Bác Cổ phát động để sung
vào thư viện Hán-Nôm của Trường. Đã có nhiều tay lái buôn thuê chép
những sách vở cuả Trung Hoa hay của nước ta, nhưng bất chấp nghĩa lí,
bất chấp sự thực, họ đã ngụy tạo nhiều sách vở để kiếm tiền bỏ túi.
Sách Lĩnh Nam dật sử là một trường hợp như vậy, kẻ bán sách đã
chép nguyên vẹn một cuốn tiểu thuyết cuả Trung Hoa, chỉ sửa đổi tên họ
tác giả để biến một quyển truyện của người Hoa vào triều đại nhà Thanh
thành một quyển truyện cuả người Việt viết ra từ đời nhà Trần! Chúng
ta tự hỏi: còn bao nhiêu những ngụy thư như vậy đang yên ổn nằm trong
kho sách Hán-Nôm ở thư viện Bác Cổ cũ mà chưa được nhận diện?
Nước ta chưa có truyền thống hiệu khám học và khảo đính văn bản học
với những đòi hỏi nghiêm ngặt của khoa học này. Giới sinh hoạt văn hóa
của ta thường có thành kiến sai lầm rằng những người nghiên cứu kiểu
“tờ a tờ b” ấy thật là một sự thừa thãi vô ích của sinh hoạt chữ
nghĩa. Tất nhiên là thành kiến không phải tự nhiên mà có, mà đã xuất
phát từ những công trình khảo đính của một số người đi trước có rất
nhiều khuyết điểm vì nặng óc chủ quan. Chủ quan, đó là một sa lầy
nghiêm trọng đối với người nghiên cứu văn bản học.
Trong bầu không khí học thuật như vậy, những công trình của Hoàng Xuân
Hãn thường được đón nhận một cách dè dặt, thờ ơ. Ông đã có phần cống
hiến xuất sắc vào việc đặt nền móng cho ngành nghiên cứu văn bản học
cổ Việt nam qua một số công trình lớn, đáng kể nhất là: Chinh phụ
ngâm bị khảo (Nxb Minh tân, Paris, 1953, 332 tr.) và Bích Câu
kì ngộ (Nxb Đại học, Huế, 1964, 182 tr.). Quyển Bị khảo cho
đến nay vẫn còn là một công trình tạo ra nhiều tranh luận về những kết
quả khảo chứng cuả nó. Tác giả đã sử dụng nhiều nguồn tài liệu cổ khác
nhau, ở nhiều tầm mức quan trọng khác nhau, để xét lại một nghi án
tưởng chừng không còn cách gì khảo chứng nữa. Tác giả đã “trị” tài
liệu trong sách cũ một cách thông minh, và đi đến kết luận rằng bản
Chinh phụ ngâm hiện nay chính là bản dịch mới nhất và do Phan Huy
Ích diễn âm. Luận điểm cuả Hoàng Xuân Hãn rất chặt chẽ, có đầy đủ tính
cách thuyết phục, nhưng chẳng may là những kết luận kia đi ngược lại
những tục truyền đã bắt rễ từ ngót nửa thế kỉ nay. Các nhà nghiên cứu
phê bình văn học thường dựa trên tục truyền để không công nhận ức
thuyết cuả tác giả, đồng thời để giữ lại một niềm tin ít nhiều dịu
dàng, huyền hoặc về một tài danh nữ giới. Bỏ sang một bên cái niềm tin
đáng mến ấy, hãy chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu văn học với những
đòi hỏi khoa học, chúng ta có thể làm gì hơn những gì đã ghi chép
trong sách Bị khảo?
Trường hợp Chinh phụ ngâm diễn ca chính là trường hợp mà sự
giải đáp các nghi án không chỉ nằm ở việc thẩm định sử liệu (như đã
được làm trong sách Bị khảo) mà còn có thể đi tìm những chứng
cứ bên trong văn bản. Mỗi tác phẩm văn học là một cấu trúc tự thể có
đủ những tính cách riêng biệt của nó. Một tác phẩm hay là một chỉnh
thể rõ nét hơn nữa, vì nó đã hình thành cho nó một dáng vẻ riêng không
thể tan lẫn. Những tính cách riêng biệt cuả một tác phẩm làm nên phong
cách riêng của nó. Cũng thế, một tác giả có những phong cách riêng
không thể lẫn được khi ta so sánh nhiều người với nhau. Vậy thì, nắm
bắt văn phong cuả một tác giả hay một tác phẩm sẽ có nhiều ý nghĩa
trong việc nghiên cưú văn học, vì nắm được văn phong là giữ được một
chứng cứ nội tại rất cơ bản, một loại chứng cứ cấp một trong nghiên
cứu.
Trở lại Chinh phụ ngâm, có thể nêu được phương hướng tìm tòi
mới, bổ sung thêm những thành tựu trong công trình bị khảo trước đây:
nếu có thể nắm bắt được phong cách sáng tác của tác phẩm và các tác
giả liên quan đến nghi án này thì có thể giải quyết được vấn đề dịch
giả bài thơ nôm nổi tiếng được truyền tụng lâu nay là ai. Trước nay
cũng đã có người áp dụng phong cách học vào việc nghiên cứu vấn đề
này. Soạn giả dựa trên một giả định khoa học là: mỗi giai đoạn văn học
có một phong cách thể loại riêng. Từ đó, ông đưa ra một đề thuyết:
trong số nhiều bài diễn ca Chinh phụ ngâm, bài nào mang tính cách hoàn
chỉnh nhất cuả thể loại ngâm và thủ đắc nhiều nhất những phong cách
thể loại này sẽ là bài diễn ca sau cùng. Nội dung toàn bộ quyển sách
Thử giải quyết vấn đề diễn giả Chinh phụ ngâm cuả Nguyễn Văn
Dương (Nxb Đại học, Huế, 1964) chính là tìm hiểu sự tiến hoá cuả thể
văn song thất lục bát và trình độ nghệ thuật diễn ca của bốn bài
Chinh phụ ngâm mà Hoàng Xuân Hãn sưu tập được. Tác giả đi đến kết
luận là: bài A (tức bài diễn ca quen thuộc lâu nay) thừa hưởng các ưu
điểm gặt hái được qua quá trình tiến hóa của thể loại song thất lục
bát, đòng thời cũng đạt được nhiều nhất những tiến bộ về mặt nghệ
thuật diễn ca so với các bài khác. Cả hai luận cứ đều cho thấy bài
diễn ca hay nhất là bài ra đời muộn hơn cả, và chỉ có thể là cuả người
sinh sau đẻ muộn hơn cả - tức là Phan Huy Ích (1750-1822); còn bài B
là bài ra đời sớm nhất, chỉ có thể là của một người thuộc lớp lão tiền
bối - tức là có thể của bà Đoàn Thị Điểm (1705-1749). Cách giải quyết
vấn đề như thế là dựa trên phong cách học lịch sử (stylistique
diachronique ).
Ngoài hướng nghiên cứu theo chiều lịch đại, còn có thể đi tìm những
chứng cứ tiềm tàng bên trong cấu trúc nghệ thuật tác phẩm. Đó là hướng
nghiên cứu phong cách học cấu trúc (stylistique synchronique ). Ngôn
ngữ là phương tiện biểu hiện thế giới nội tâm. Mỗi nhà văn thường có
những lối chọn lựa khác nhau những cách diễn đạt cho riêng mình. Những
kiểu chọn lựa đó chính là dấu hiệu của phong cách tác giả. Chính là từ
sự chọn lựa phong cách đó mà cùng tả màu áo, hai tác giả đã sử dụng
hai lối diễn đạt khác nhau:
Áo chàng đỏ tựa ráng pha,
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết
in.
(Chinh phụ ngâm)
Tuyết in sắc ngựa câu dòn,
Cỏ pha mùi áo nhuộm non da trời.
(Truyện Kiều)
Vậy thì người nghiên cứu có thể đi ngược lại quá trình tâm lí sáng tạo
của người sáng tác để phân tích và hệ thống hóa, mô hình hóa những
kiểu chọn lựa ngôn ngữ mà các tác giả sử dụng để nhận diện phong cách
từng người. Phong cách một tác giả đã hình thành từ bối cảnh tâm lí,
văn hoá mà tác giả thừa hưởng được trong cuộc sống; cho nên ở những
tác giả độc đáo, rất dễ nhận ra phong cách sáng tác cuả họ đã thể hiện
trong những nét vẻ riêng về nội dung cũng như về nghệ thuật tác phẩm.
Tâm lí học sáng tạo nghệ thuật đã có những cơ sở vững chắc để kết luận
rằng vốn sống, vốn nhận thức và tâm sự cuả một tác giả (tức những yếu
tố thuộc bối cảnh tâm lí, văn hoá của một nhà văn) đã thể hiện ngay từ
những tác phẩm đầu tay, và càng về sau sẽ chỉ càng hoàn chỉnh thêm mà
thôi chứ cốt lõi của phong cách đã hình thành từ buổi đầu. Những
truyện ngắn đầu tay cuả Võ Phiến thời kì viết Người tù hoặc
Mưa đêm cuối năm đã có những nét rất riêng của Võ Phiến: những
phân tích tâm lí sắc sảo, óc hóm hỉnh, nỗi cô đơn ám ảnh không nguôi
một kẻ “thiếu quê hương”... Sau này, ông viết Thư nhà hay
Đêm xuân trăng sáng, Về một xóm quê... khi ngòi bút đã già
giặn thêm, nhưng hầu như những chủ đề, những nghệ thuật diễn đạt đều
vẫn giữ nguyên vẹn những dáng vẻ riêng hình thành từ buổi đầu. Cũng
thế, đọc văn Nguyễn Tuân những thời kì sau, người ta vẫn thấy rõ ràng
những phong thái đã một lần tìm thấy trong Vang bóng một thời.
Cứ thế, các tác phẩm kế tiếp nhau ra đời chỉ định hình rõ thêm, làm
chín chắn hơn phong cách tác giả mà thôi. Cho nên, nếu nắm bắt được
những tác phẩm đầu tay của một tác giả, người nghiên cứu có thể tìm
hiểu chính xác hơn những tính cách riêng cuả phong cách một tác giả.
Như thế thì một tác phẩm nghệ thuật, một nghệ sĩ sáng tác đều mang
phong cách của mình, làm nên cái độc đáo cuả một tác phẩm hay một tác
giả. Tuy vậy, người ta cũng còn có thể nhận ra phong cách cuả một thể
loại sáng tác văn học nghệ thuật, phong cách nghệ thuật của một thời
kì văn học nghệ thuật nữa. Cũng là phong cách Nguyễn Du nhưng thơ chữ
hán cuả ông có khác với Truyện Kiều hay Văn tế thập loại
chúng sinh. Cũng như thế, nhưng nhìn ở góc cạnh khác, ta lại thấy
thơ chữ hán và những bài thơ nôm cuả Phan Huy Ích khác nhau nhiều
nhưng góp chung lại thì chúng có những nét riêng so với thơ văn người
nào khác. Ở một bậc khác, thi ca Nguyễn Du lẫn Phan Huy Ích cũng có
những nét phong cách giống nhau nếu ta so sánh họ với các tác giả khác
ở một thời kì sau như Nguyễn Công Trứ chẳng hạn. Trưởng thành trong
thời buổi sôi sục những dông bão cuả lịch sử, Nguyễn Du và Phan Huy
Ích có những “nếp gấp tình cảm” cuả một thế hệ mà tâm sự đoạn trường
không thể nào có được đầy đủ những tính cách cuả nó ở thế hệ hòa bình,
hăm hở trong không khí xây dựng mà Nguyễn Công Trứ hay Cao Bá Quát
chia sẻ sau này.
Phong cách một thời kì văn học nào đó ở Việt nam vẫn thường luôn tác
động đến phong cách thể loại sáng tác trong mối quan hệ biện chứng.
Hát nói là một đặc sắc cuả thế hệ nhà văn đời Nguyễn hiểu là một thể
loại đã viên mãn những dáng vẻ riêng; dù cho trước đó, hát nói đã manh
nha từ lối hát cửa đình, nhưng chưa bao giờ nó được chuẩn nhận là một
thể loại hoàn chỉnh. Thể loại song thất lục bát cũng thế, nó đã được
hình thành từ rất lâu, ngược lên mãi tận thế kỉ xvi, với những bài hát
chúc làng kiểu như Bát giáp thưởng đào văn của Lê Đức Mao, nhưng mãi
đến thời Lê mạt- Nguyễn sơ, khi tâm sự cô đơn, khi sự mất mát niềm
hạnh phúc đã đến mức cao điểm sau bao nhiêu năm li loạn và phân hóa
trầm trọng, thể loại song thất lục bát mới đủ chín muồi những yếu tố
khách quan để định hình phong cách cho nó: thể loại sáng tác ngâm khúc
đã hoàn chỉnh và có những sáng tác tuyệt vời.
Những khác biệt giữa các tác giả, tác phẩm, thể loại hay các thời kì
văn học là sự khác biệt xuất phát từ những điều kiện cuả lịch sử chứ
không phải là những sự kiện tình cờ may rủi. Những yếu tố cuả hoàn
cảnh bên ngoài xã hội đã góp phần tạo nên những dáng vẻ riêng cuả tâm
tình con người và thế hệ những con người. Nhấn mạnh như thế để thấy rõ
là nghiên cứu phong cách văn học chẳng phải là hướng nghiên cứu hình
thức thuần túy theo kiểu Roland Barthes khi nghiên cứu Racine, hay như
Jean-Pierre Richard khi nghiên cứu thơ Mallarmé. Tách một tác giả hay
một tác phẩm ra khỏi hoàn cảnh lịch sử, xã hội, ta sẽ không hiểu được
khuôn mặt thật cuả đối tượng nghiên cứu nữa. Thành thử, chúng tôi hiểu
những chứng cứ bên trong như một cấu trúc hoàn chỉnh những dáng vẻ
riêng những nét phong cách nghệ thuật đã được hình thành trong những
điều kiện nào đó của lịch sử xã hội và văn hóa.
Nói thế không có nghĩa là chỉ chú tâm đi tìm những yếu tố bên ngoài
xem chúng tác động đến cấu trúc nghệ thuật như thế nào. Đấy là một
biến tướng khác của quan điểm duy sử. Phải xuất phát từ chính tác
phẩm, chính sự nghiệp một tác giả mới có thể phân tích và hệ thống hóa
được phong cách của tác phẩm hay một tác giả. Cho nên, phong cách nhà
văn không phải là một sản phẩm xa lạ gì, nó rất hiện thực trong sự
nghiệp một tác giả, một thời đại, một thể loại sáng tác. Và -dĩ nhiên-
trong mỗi tác phẩm nghệ thuật đúng nghĩa, đã hình thành một phong cách
của nó, không thể có hai ba tác phẩm đồng dạng. Vậy thì, phong cách là
lí lịch thật nhất cuả tác phẩm, tác giả, thể loại, hoặc cả thời đại
văn học. Nghiên cứu phong cách, do vậy, có ý nghĩa tích cực, nhất là
đối với văn học Việt nam, khi mà tài liệu văn bản, sử liệu còn lại quá
mỏng manh và thiếu chính xác.
Có một điều kiện cần yếu đòi hỏi ở nghiên cứu phong cách nghệ thuật
là: phải dựa trên tác phẩm chính xác, không qua tay nhào nặn cuả những
kẻ sao chép tùy tiện đến mức biến dạng hẳn khuôn mặt ban đầu. Vì thế
mà nghiên cứu phong cách thơ Hồ Xuân Hương không thể không đếm xiả đến
tập Lưu hương kí của bà; các nhà nghiên cứu xưa nay thường vẫn
chỉ bằng lòng với những phân tích các bài thơ “tương truyền” là cuả
bà, nhưng nếu đối chiếu với chính tác phẩm còn lưu lại và có phần chắc
là cuả bà, tất sẽ nhận ra hai phong cách khác hẳn nhau, đưa đến một
mối hoài nghi lớn về dáng vẻ “bà chúa thơ nôm” trước nay vẫn thường
được vẽ ra và gán cho bà. Cũng có khi một tác phẩm bị sửa đổi nhiều
như Lục Vân Tiên cuả Nguyễn Đình Chiểu tỏ ra không mất giá trị
nghiên cứu phong cách, vì chính tác phẩm này đã ra đời trong điều kiện
truyền miệng, và nội dung tác phẩm đã là dữ kiện chính xác hơn là văn
từ cuả nó. Phong cách Đồ Chiểu -do vậy- vẫn hiện lên sáng tỏ trong tác
phẩm đầu tay nàỵ
Cho đến nay, một số sách khảo luận về văn học thời Tây Sơn vẫn còn bày
tỏ một nỗi hoài nghi lớn về nghệ thuật thơ Phan Huy Ích, nhất là nghệ
thuật thơ nôm cuả ông. Ấy thế mà chưa có một nỗ lực phân tích phong
cách văn chương cuả chính tác phẩm Dụ am ngâm lục cuả ông hiện
nay vẫn còn tồn trữ ở các thư viện hán nôm. Các nhà nghiên cứu đã truy
tìm rất kĩ trong các tài liệu thư tịch để rồi cũng phải thừa nhận cùng
với Hoàng Xuân Hãn rằng các sách vở cũ (cùng thời và đời sau) đều
không có chứng cứ thuận lợi cho việc giành tác quyền bản dịch nôm
Chinh phụ ngâm cho bà Đoàn Thị Điểm, ngoại trừ một bút chứng mong
manh cuả Vũ Hoạt trong lời bạt cho bản khắc in năm 1909. Và mặc dù các
phân tích của Hoàng Xuân Hãn rất chặt chẽ, theo quy cách cuả khoa văn
bản học, cộng thêm với những phân tích nghiêm túc ở cách đặt vấn đề và
giải quyết vấn đề theo hướng phong cách học lịch đại, số đông các nhà
nghiên cứu vẫn cho rằng “chưa có đầy đủ bằng chứng đáng tin”. Nếu hiểu
“bằng chứng đáng tin” theo nghĩa là có đủ bằng chứng khoa học thì -như
đã trình bày- cần phải phân biệt hai thứ luận cứ: một thứ chứng cứ
minh nhiên như trường hợp tên tuổi người dịch Tì bà hành trên
kia, một thứ khác dựa trên những suy lí từ trên chỗ dựa là chính các
tài liệu văn bản.
Vấn đề là: nếu chưa hài lòng với những chứng cứ đã có với lí do là
chưa đủ tính cách thuyết phục, thì phải có những nỗ lực mới đi tìm
những dữ kiện mới. Các chứng cứ mới kia phải nói lên được các bản sắc
thi ca Phan Huy Ích, dựa trên cơ sở văn bản xác tín cuả ông là Dụ
am ngâm lục. Ngày nào ta chưa có phân tích văn phong Dụ am một
cách thấu đáo mà chỉ dựa vào những nhận định vội vã cuả vài nhà nghiên
cứu thiếu công tâm, thì ngày ấy vẫn chưa thể khẳng quyết như ai đó
rằng “văn nôm Phan Huy Ích nặng về sáo ngữ và kém thanh thoát tự
nhiên”, hay là vu khoát hơn, cho rằng “thơ văn nôm của Phan Huy Ích
chưa đạt tới kĩ thuật điêu luyện” (13). Đọc những bài văn tế nôm và
thơ chữ hán cuả ông một cách thấu đáo, chỉ thấy một tâm hồn thơ đã
định hình từ những ngày tuổi trẻ, tỏ ra một tài nghệ sử dụng ngôn ngữ
chuốt lọc và giàu hình tượng. Bước quan trọng kế tiếp phải là mô hình
hóa những nét phong cách thơ đó xem có khả năng nào trùng hợp giữa hai
phong cách thơ trong Dụ am ngâm lục và Chinh phụ ngâm khúc
hay không. Đây chính là một giả thuyết khoa học cần đi đến những nỗ
lực thực tế mà ngôn ngữ học có thể góp phần của mình.
4
Một vài trường hợp khó xử được lượm lặt trên kia đang phản ảnh một
tình hình khó khăn cuả bộ môn nghiên cứu văn học cổ cuả Việt nam, làm
cản trở nhiều cho những tìm hiểu kho tàng văn học phong phú cuả cha
ông chúng ta. Không phải như thế đã là hết hi vọng giải đáp những việc
tồn nghi. Nếu gần đây, Nguyễn Lang, trong khi tìm hiểu kho tàng thơ
văn đời Lý Trần, đã phát hiện rằng Tuệ Trung Thượng Sĩ không phải
người mà Bùi Huy Bích đã lẫn lộn khi viết về tác giả Phóng cuồng
ngâm (14), thì giới nghiên cứu mới tỉnh ra rằng người uyên bác như
cụ Bùi Tồn-am không hẳn là không lầm lẫn, và người sau không thể không
tỉnh táo thẩm định sử liệu khi hiểu rằng truyền thống biên tập và san
định sách vở ngày xưa ở ta chưa có nền nếp tham khảo thư tịch rộng
rãi, mà chỉ dựa phần lớn trên truyền ngôn hay những ghi chép không đầy
đủ; tính cách cẩu thả đó thể hiện ở sinh hoạt nghề in bản khắc các
sách truyện thơ nôm: thường chỉ quan tâm tới chính văn hơn là phần lạc
khoản, và ngay chính văn cũng bị khắc lầm do hiểu biết hạn hẹp cuả
người thợ khắc... Nghiên cứu văn bản học Việt nam không thể bỏ qua
tình trạng này. Công việc hiệu đính và khảo đính học tất nhiên là cần
thiết, và đòi hỏi những chuẩn mực khoa học cuả nó, chứ không hề là sự
sửa chữa tùy tiện như công chúng độc giả thường nghi ngại.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu văn phong cũng sẽ góp phần giải tỏa những
ngoa truyền, những lầm lẫn trong sách vở cũ trong chừng mực nào đó. Có
một ngày nào, với những đóng góp của ngôn ngữ học, có thể một số những
bài thơ được ghi chép trong Quốc âm thi tập cuả Nguyễn Trãi sẽ
bị loại ra, chẳng phải vì nó không hay, nhưng là vì chúng không mang
“chất Nguyễn Trãi”.
Ngày nay, chúng ta không dễ tin vào những tục truyền nữa rồi. Để tạo
dựng tiền đề cho những thành quả mới dựa trên nhận thức chính xác về
mặt khoa học, công việc nghiên cứu văn học cần dựa trên nhiều tìm tòi
cuả nhiều ngành học, mà một trong số những ngành học đó là ngôn ngữ
học. Hiện nay, công việc tìm hiểu lịch sử tiếng Việt và ngữ âm học
lịch sử đã có những bước tiến đầu tiên rất có ý nghiã cho việc nghiên
cứu văn bản cổ. Nghiên cứu văn phong các tác giả cổ điển cũng giúp ích
cho việc giải gỡ những vấn nạn còn đọng lại đó đây. Cũng từ ý nghĩa
này, đặt vấn đề nghiên cứu văn phong những gia đình dòng họ văn học
nổi tiếng cuả ta -một hiện tượng nổi bật cuả thế kỉ XVIIII, XIX- như
dòng họ Nguyễn Tiên-điền, gia đình Nguyễn Huy, gia đình Ngô Thì, gia
đình Phan Huy... tưởng không phải việc thừa. Đạt được những thành tựu
về mặt này, mới có thể đẩy lùi vào bóng tối căn bệnh “tục truyền” tuỳ
tiện trong nghiên cứu văn học. Chẳng hạn, có thể một ngày nào đó, nhà
nghiên cứu dựa vào văn phong gia đình Phan Huy để bảo rằng tác giả bài
Ai tư vãn (vẫn “tương truyền” là của công chúa Ngọc Hân) phải
là người ở trong gia đình Phan Huy vì những nét khá thống nhất văn
phong giữa mấy khúc ngâm do gia đình này chế tác. Hẳn là những kết
luận như thế không phải không có trọng lượng.
____________________________________________
(1) Võ
Phiến, Hai mươi năm văn học miền Nam 1954-1975 - Tổng quan. Nxb.
Văn nghệ, California,1986, tr. 17-24.
(2)
Nguyễn Quang Oánh (hiệu khảo), Ngâm Khúc. Vĩnh hưng long thư
quán, Hà nội, 1930.
(3)
George Cordier, Morceaux choisis d'auteurs annamites. Lê Văn
Tân, Hanoi, 1932.
(4) Trần
Trung Viên (sao lục), Văn đàn bảo giám, q. 2. , Nam ký thư quán,
Hà nội, 1934.
(5) Trần
Văn Giáp (chủ biên), Lược truyện các tác gia Việt nam. t.1. Nxb.
KHXH, Hà nội, 1964( bản in kì nhất), 1971 (bản in kì hai có sửa
chữa,bổ sung).
(6) Thê
Húc (hiệu đính và bình chú), Bài hát Tỳ bà. Nxb. Nam việt,
1952.
(7) Trần
Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách hán nôm. t. 1. Nxb. Văn hóa, Hà nội,
1984, tr. 318-322.
(8) Hoàng
Ly và Trương Linh Tử, Nghiên cứu và phê bình bản dịch Tỳ bà hành.
Nxb. Thế giới, Hà nội, 1953, tr.5-6.
(9) Hoàng
Xuân Hãn, Chinh phụ ngâm khúc bị khảo. Nxb. Minh tân, 1953, tr.
56.
(10)
Nguyễn Hữu Tiến, “ Phan Dụ am tiên sinh văn tập”, Nam phong tạp chí,
Hà nội, tập XVIII, số 106 ( tháng 6, 1926), tr. 494-495.
(11)
Nguyễn Hữu Tiến, “ Phan Dụ am tiên sinh văn tập”, Bđd.
(12) Trần
Lê Văn (biên tập), Phan Huy Chú và dòng văn PhanHuy. Sở Văn
hóa-Thông tin, Hà sơn bình, 1983.
(13) Phạm
Văn Đang, Văn học Tây sơn. Nxb. Lửa thiêng, Sài gòn, 1973, tr.
118.
(14)
Nguyễn Lang, Việt nam Phật giáo sử luận. t.1.
Nxb. Lá bối, 1974, tr. 273-274.