Lê Duẩn
Tai ương của người Việt Nam
Tai ương của người Việt Nam
Nguyễn Quang
Các phe
đảng cộng sản luôn tìm cách hãm hại nhau, người Việt
giết người Việt, nay ghi lại về con người khởi đầu
cho sự dã man, gây nên không biết bao đau thương đối
với người Việt có tên Lê Duẩn, Lê Văn Nhuận hay anh
Ba.
Đảng Cộng sản gồm đầy
những chuyện bí mật nhưng thật ra chẳng có gì là không
bị vén màn lên, vì toàn những chuyện mờ ám, xấu xa,
tội lỗi nên luôn ém nhẹm, rồi gán cho cái tên bí mật
để mang tính chất oai hùng, bí hiểm của những sứ mệnh
bất khả thi mà chỉ có những người cộng sản mới làm
được. Nó trở thành huyền thoại ảo!
Anh hùng “lê văn tám”,
“nguyễn văn bé”…. Hồ Chí Minh vì nước non nên “hãy
còn độc thân”, Lê Duẩn bao giờ cũng lo hoạt động
cách mạng nên “chưa có vợ”. Tất cả đều không có
thật!
Các Ủy
viên Trung ương đảng, Bộ chính trị, ai cũng lấy vợ
hai, vợ ba, dựa vào quyền lực để ép duyên, hoặc dùng
thủ đoạn để lấy các thiếu nữ cỡ tuổi con mình,
như Lê Đức Thọ, Võ Quang Anh (Tham
mưu trưởng Khu 9),
Trần Văn Trà, Hà Huy Giáp, Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn
Hoan,...
Từ gia đình đã là những
cái nôi đầy mâu thuẫn, tương tranh, đánh ghen và giết
nhau, cho nên đến xã hội khi con người khởi đầu làm
sao thì thường kết thúc cũng vậy!
Nét đặc thù của nó, từ
khi đảng cộng sản ra đời tại Việt Nam đến nay, Huế,
Sài Gòn, Hà Nội luôn bị yếu tố Bắc Kỳ thống trị,
thời thượng nhất với lối nói chặn họng “chỉ có
Bắc Hà mới có lý luận”. Nó mới xứng đáng đóng vai
trò lãnh đạo cả ba miền Nam Trung Bắc. Một lối nói
càng bừa từ túi tham không đáy, gây chia rẽ dân tộc.
Bài học
lịch sử chỉ có người trong cuộc mới biết cái bí ẩn
của Nam Kỳ Khởi Nghĩa (22/11/1940),
không
phải bỗng nhiên nhóm Trung ương đảng lẩn trốn ở Hóc
Môn, Bà Điểm bị Pháp bắt trọn ổ. Đó chính là miền
Bắc "chỉ điểm cho Pháp", vì muốn dẹp cái
Trung ương đảng miền Nam để đem ra Bắc Kỳ cho người
Bắc lãnh đạo.
Họ
mượn tay người Pháp để diệt Nam Kỳ. Chính vì lẽ đó,
Phan Đăng Lưu bị bắt, bị đưa ra tòa kêu án tử hình
và Nguyễn Thị Minh Khai bị bắt trước, cũng bị hành
quyết chung (28/8/1941)
với
Nguyễn Văn Cừ (Tổng
bí thư năm 1938),
Võ Văn Tần
(người Đức Hòa, Tân An, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ),
Hà Huy Tập (Ủy
viên Trung ương đảng).
Tất cả đều phải chết vì yếu tố Nam Kỳ.
Đầu não Cộng sản dĩ
nhiên luôn nằm tại Bắc Kỳ, các đảng viên Bắc và
Trung Kỳ chia nhau nắm giữ các chức vụ then chốt trong
kháng chiến cũng như sau khi hòa bình. Đó là chủ trương
thầm kín của họ Hồ.
Ngay khi chiếm miền Nam,
cộng sản phân loại để cai trị, chỉ có loại A được
nắm các cơ quan đầu não, chức vụ chính, tất nhiên gốc
Bắc, còn các chức vụ phó giao cho loại B, thành phần
trong Nam tập kết ra Bắc trở về, và loại C là thứ yếu
thuộc thành phần miền Nam nằm vùng.
Sau khi
Nhật đầu hàng, ở Nam Kỳ, các phần tử trí thức Nam
Bộ như Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Trấn, Dương Bạch
Mai, Nguyễn Văn Tạo, Huỳnh Văn Tiểng, Ngô Tấn Nhơn,
Phạm Ngọc Thạch,...được dịp lên ngôi thao túng miền
Nam. Họ lập ra Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Nam Bộ,
muốn tách ra khỏi sự khống chế của nhóm đảng viên
Trung và Bắc Kỳ để thành lập một quốc gia CS Nam Kỳ.
Không ngờ HCM biết thâm ý này nên sai Cao Hồng Lĩnh
(tham gia Cách Mạng Thanh Niên Hội từ năm 1926),
Hoàng Quốc Việt vào Nam bắt cóc Trần Văn Giàu, Dương
Bạch Mai đem về giam lỏng ở Hà Nội.
Sự kiện trên khiến chúng ta sẽ không lấy gì làm lạ khi Nguyễn Phú Trọng trong lúc nắm quyền cũng tìm mọi cách tiêu trừ quyền lực của nhóm miền Nam. Chỉ khác lần này có yếu tố Hoa Nam ở phe miền Bắc, sự thâu tóm quyền lực không còn trở về tay người Việt, dù là Bắc Kỳ, nhưng để “trở về” trong vai trò “làm lẻ”, một chư hầu của Trung Quốc. Mao Trạch Đông luôn xem Việt Nam như một quận, một tỉnh lẻ ở phía Nam. Giao Chỉ Mất nước!
Lê Duẩn và Mao tính khí
thay đổi giống nhau, chỉ có tham vọng của kẻ thủ ác
không thay đổi. Với Mao khi chủ trương hòa bình, lúc cổ
vũ nhiệt liệt chiến tranh trong quan điểm đối với Việt
Nam, thâm tâm luôn muốn chia cắt nước Việt thành hai ba
phần thuộc Nam, Trung, Bắc để cho dân tộc này yếu đi.
Còn Lê Duẩn cũng thay đổi không chừng, nào chạy sang
Tàu xin đưa quân sang, có lúc hơn ba trăm ngàn quân Tàu
trong cuộc chiến Việt Nam, lúc chạy sang Nga và chửi bành
trướng Bắc Kinh thậm tệ.
Giống
nhau cùng không có cái tâm đến cái hình nhi hạ, Duẩn và
Mao để lại gồm một bầy đàn thê tử, lúc mất đi
người ta ước tính Lê Duẩn có đến ba chục người
con, lúc chịu tang, người vợ trẻ nhất nhỏ hơn ông đến
năm mươi tuổi, một y sĩ trẻ chăm sóc ông và là con của
một quan chức dưới triều của ông, cháu gái dẫn theo
đưa bé nhỏ, thay vì gọi ông cố thì gọi bằng cha Lê
Duẩn! Thật bất nhân!
Gia
tài của Lê Duẩn để lại là một đám con hoang, cùng
những nghĩa trang dày đặc các bóng ma của người lính
trẻ Việt Nam, ngày nay người ta cũng chưa kiểm tra lại
xem thật sự là bao nhiêu, chỉ biết rằng khu trung tâm
Sài Gòn, với những tòa nhà sang trọng nhất, đắt tiền
nhất đều có phần của con cái Lê Duẩn. Và hằng hà sa
số thanh niên, thiếu nữ đã chết còn nằm dọc dài trên
Trường Sơn.
Lê Duẩn giữ chức Tổng
bí thư lâu nhất hơn 25 năm, từ 1960 đến 1986. Người có
uy quyền cao nhất, trong lịch sử CSVN, chỉ thua Nguyễn
Tấn Dũng về sau về mặt giàu có. Vì mới bắt đầu
“kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa để
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội” nên của cải chưa
tập trung được nhiều để trở thành tư bản đỏ! Mặc
dù số vàng 17 tấn do Ông Thiệu để lại và các chiến
dịch đánh tư sản cũng như tịch thu tài sản của đồng
bào miền Nam hàng chục tấn vàng khác, thế rồi không
biết chảy về đâu?
Ông là
người đã vạch ra chiến lược cách mạng với cuốn “Đề
cương cách mạng miền Nam”, chủ trương sử dụng quân
sự để chiếm miền Nam, khởi động cuộc chiến người
Việt giết người Việt,
đưa đất nước vào thảm cảnh hoang tàn, núi sông xương
máu.
Người
ta có ghi lại lời phát biểu của ông về chiến tranh
Việt Nam “Ta
đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc...”
Và suốt cuộc đời Lê Duẩn mang nét đặc thù, đó là
khủng bố dân tộc dưới chiêu bài yêu nước để buộc
dân chúng đánh thuê cho ngoại bang, theo tiết lộ của CS
Hà Nội với AFP ngày 4-4-1995, thì số lượng thường dân
chết trong chiến tranh lên đến 4 triệu người, chia đều
cho hai miền Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam, nghĩa là mỗi
miền hai triệu người. Những câu văn viết lên thì đơn
giản nhưng đau thương mất mát thì không ngôn từ nào tả
hết được!
Lê Duẩn sinh ngày 7-4-1907
tại Quảng Trị trong một gia đình nông dân, cha làm nghề
thợ mộc, chủ yếu là đóng hòm, mất ngày 10-7-1986.
Trình độ học vấn tiểu học. Có tài liệu viết ông
học được đến lớp 6, nghĩa là cho nâng lên được cấp
2 của bậc trung học. Có câu chuyện liên quan đến Trần
Đức Thảo về sau, lúc ông làm Bí thư, đã mời triết
gia vào để nghe ông đọc một bài tham luận, theo người
thư ký của Lê Duẩn kể lại ông đã chuẩn bị rất kỹ,
chỉ có một mình ông thuyết trình thao thao bất tuyệt và
Trần Đức Thảo là khách mời duy nhất để thẩm định.
Chẳng may khi nghe xong vị triết gia này cho ý kiến “Tôi
không hiểu ông muốn nói cái gì cả”. Lê Duẩn trố
mắt, thất vọng nhưng chỉ nói “Có lẽ tôi nói tiếng
Quảng Trị khó nghe”, rồi bỏ sang phòng khác. Trần Đức
Thảo lẳng lặng ra về và triết gia phải đi nông trường
chăn bò từ đó!
Năm 1926, Lê Duẩn làm
nhân viên sở hỏa xa, bẻ ghi đường rầy xe lửa Đà
Nẵng, người đứng phất cờ mỗi khi tàu ra vào ga. Năm
1930 ông gia nhập đảng CS Đông Dương, ông ra vào khám
nhiều lần và tiến thân nhanh vì được xem là thành phần
cố nông, ít học, trung kiên của đảng.
Năm 1954 ông được phân
công ở lại miền Nam lãnh đạo, tới 1957 Lê Duẩn được
Hồ Chí Minh gọi ra Hà Nội gấp để giữ chức quyền
Tổng bí thư đảng thay thế Trường Chinh bị ép từ
chức vì Cải cách ruộng đất. Tháng 9-1960 tại Đại hội
toàn quốc lần thứ III, ông được bầu vào BCHTƯ và Bộ
chính trị, giữ chức Bí thư thứ nhất. Từ 1960 theo một
số nhận định HCM sức khỏe yếu, Lê Duẩn trở thành
người có quyền hành cao nhất.
Duẩn là người khao khát
quyền lực tuyệt đối như Stalin, Mao Trạch Đông và ông
ta cô lập Hồ, Giáp để thiết lập một bộ máy chính
trị trung thành. Lê Đức Thọ cánh tay mặt của Duẩn.
Những hàng tướng như Lê Đức Anh, lúc vào chào Lê Duẩn
khi ra về thường giữ lễ theo cách đi xà lui, còn Đỗ
Mười, một “Thưa anh Ba”, hai “Dạ anh Ba”.
Mãi sau
nhiều thập niên, khi Thọ Duẩn không còn, tiếng oan khiên
vẫn còn giữa các đồng chí, người ta được biết đến
qua lá thư xin minh oan của Đại tá Lê Trọng Nghĩa, sinh
năm 1922, là một trong ba nhà lãnh đạo của Việt Minh ở
Thủ đô Hà Nội trong những ngày sôi nổi của Cách mạng
tháng Tám. Sau đó ông làm thư ký cho tướng Võ Nguyên
Giáp, Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng, rồi Cục trưởng
Cục Quân báo (Cục II) thuộc Bộ Tổng Tham mưu, rồi cũng
là Trưởng Ban Quân báo trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
Vào năm 1968 ông lâm đại nạn, bị bắt giam không xét
xử, suốt 8 năm đi lao động cải tạo trong cái gọi là
“Vụ án Xét lại – chống đảng, làm gián điệp cho
nước ngoài (Liên Xô)”, một vụ án dựng đứng không
hề có thật của cặp Lê Đức Thọ – Lê Duẩn nhằm hạ
bệ tướng Giáp. Và hàng trăm cán bộ đảng viên như
tướng Lê Liêm; tướng Đặng Kim Giang; 2 cha con ông Vũ
Đình Huỳnh – Vũ Thư Hiên; ông Hoàng Minh Chính; ông
Nguyễn Minh Cần, phó chủ tịch Ủy ban hành chính thủ
đô; Thượng tá Văn Doãn, Tổng Biên tập báo Quân Đội
Nhân Dân; Đại tá Lê Vinh Quốc….
Các nạn nhân trên đây
và gia đình đã gửi hàng trăm, hàng ngàn đơn thư khiếu
nại suốt hơn 60 năm nay nhưng không hề được hồi âm.
Họ bị vu cáo và yêu cầu đảng và nhà nước phải phục
hồi danh dự cho họ. Đó là ông Nguyễn Trung Thành, nguyên
Vụ trưởng Vụ Bảo vệ chính trị Trung ương đảng; ông
Lê Hồng Hà, nguyên Chánh văn phòng Bộ Công an; các Đại
tướng Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn… Ở đây nói lên
tính chất bất nhân ngay cả với những người cùng chiến
đấu với họ, chỉ vì tranh giành quyền lực tối thượng.
Từ cuối 1965 đến
1975, khi quyền lực của Lê Duẩn lên đỉnh tối cao, công
cuộc nướng quân “Sinh Bắc tử Nam”, ngày càng nhiều
các sư đoàn bộ binh chính quy được đưa từ miền
Bắc vào Nam.
Đề cương cách mạng
miền Nam
Tài liệu này dài hơn 30
trang, được soạn tháng 8-1956 gồm có 5 phần, không có
gì là sáng tạo, thật sự chỉ là phản biện duy ý chí
đối với tình hình miền Nam, nhằm quyết tâm dùng bạo
lực đánh phá và áp đặt chế độ cộng sản trên toàn
lãnh thổ Việt Nam dưới chiêu bài ngụy dân tộc, phản
dân chủ, chống lại tự do.
Một
là củng cố miền Bắc, đẩy mạnh đấu tranh cách mạng
ở miền Nam, tranh thủ ủng hộ trên thế giới, đó là
ba nhiệm vụ chính của cả nước. Củng
cố miền Bắc qua đấu tố Cải cách ruộng đất, tạo
nên sự sợ hãi trong dân chúng để dễ bề cai trị độc
tài; đẩy mạnh cách mạng ở miền Nam với không biết
bao vụ ám sát, khủng bố khiến miền Nam không còn cuộc
sống trong hòa bình. Nói láo và nói láo để tạo chính
nghĩa khiến mọi người nhầm tưởng kẻ đi xâm lược
có chính nghĩa, còn nạn nhân những người miền Nam trong
cuộc chiến tự vệ trở thành kẻ hiếu chiến dưới cái
nhìn của quốc tế và nhiều người trên thế giới đã
ngây ngô tin như vậy!
Hai
là mục đích, nhiệm vụ, đối tượng cách mạng miền
Nam giữ gìn hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành
độc lập, dân chủ trong cả nước. Nhân dân miền nam bị
Đế quốc Mỹ áp bức, bóc lột nên phải đứng lên đập
tan chế độ độc tài phát xít Mỹ -Diệm.
Sự
thật hoàn toàn ngược lại như vậy như một chân lý
hiển nhiên qua hình ành cộng sản đến đâu người dân
miền Nam bỏ chạy đền đó.
Ba là
chế độ Ngô Đình Diệm ra sức phá hoại tổng tuyển
cử, nhân dân sẽ đứng lên đập tan âm mưu Mỹ-Diệm.
Tự do, dân chủ là yêu cầu bức thiết bảo đảm tài
sản, tính mạng nhân dân.
Thật
ra chế độ miền Nam đâu có ký vào Hiệp Định Geneva mà
bảo họ phải thi hành. Và nhân dân miền Nam qua cuộc tấn
công Tết Mậu Thân, cũng như mùa Hè Đỏ lửa 1972 của
phe miền Bắc, Việt cộng đi đến đâu đều gieo chết
chóc kinh hoàng.
Bốn
là hình thức đấu tranh, khả năng phát triển cách mạng,
đấu tranh hòa bình có khả năng đánh lùi những bạo lực
Mỹ-Diệm, đẩy mạnh cách mạng bằng đường lối hòa
bình phù hợp với nguyện vọng của nhân dân thế giới
“lấy nhân nghĩa thắng cường bạo”. Thực
tế, cộng sản mới là những kẻ dùng bạo lực để
khủng bố hòng nhuộm đỏ miền Nam, thực thi đường lối
của Cộng sản Quốc tế.
Năm
là bài học lịch sử, những nhiệm vụ cơ bản của cách
mạng miền Nam: Nay ta mới thành công giải phóng dân tộc
được một nửa nước, nhiệm vụ cách mạng phải hoàn
thành trong cả nước. Đảng ta là đảng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Ở nông thôn nhiệm vụ
chiến lược của ta là đoàn kết trung, bần cố nông
liên hiệp với phú nông, đánh đổ địa chủ phong kiến,
xây dựng một nước VN hòa bình thống nhất. Đúng
là xây dựng một đất nước thống nhất bằng bạo lực
nên hà tất không thể có hòa bình. Ở nông thôn, khi hòa
bình lập lại, họ bị cán bộ cộng sản lợi dụng chức
quyền chiếm đoạt đất đai. Nông dân trở thành dân oan
dưới chế độ cộng sản! Đối với công nhân mãi mãi
dưới sự cai trị của những người cộng sản sẽ không
bao giờ có được Công Đoàn độc lập để bảo vệ
quyền lợi cho công nhân.
Thực
tế đã diễn ra như TT Ngô Đình Diệm đã từng tuyên bố
trong diễn
văn buổi khánh thành đập Đồng Cam - Tuy Hòa 17-9-1955 :
“Nếu
bọn Việt Cộng thắng, thì quốc-gia Việt-Nam cũng sẽ bị
tiêu-diệt và sẽ biến thành một tỉnh nhỏ của
Trung-hoa Cộng-sản. Hơn nữa toàn-dân sẽ phải sống mãi
mãi dưới ách độc tài của một bọn vong bản vô gia
đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo."
Cuộc chiến Đông Dương
lần thứ hai 1960-1975
Cuộc chiến 1946-1954 được
gọi là cuộc chiến Đông dương lần thứ nhất và giai
đoạn 1960-1975 là Cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai.
Những đoàn quân miền
Bắc tiến vào xâm lược miền Nam từ năm 1959, sau khi Lê
Duẩn làm quyền bí thư thay thế Trường Chinh được hai
năm và ngày 20-12-1960 Mặt trận Giải phóng Miền Nam được
thành lập tại xã Tân Lập Tây Ninh, một công cụ của
Hà Nội. Cuộc chiến vẫn chưa qui mô vì thế chiến lược
toàn cầu lúc bấy giờ, đó là Nga chủ trương hòa hoãn
với Mỹ, nên Lê Duẩn chỉ tổ chức khủng bố, ám sát
các viên chức địa phương khắp miền Nam để tạo sự
hoang mang, sợ hãi trong dân chúng.
Cuộc
Tổng tấn công Tết Mậu Thân.
Lê Duẩn là người chỉ
đạo chiến dịch này, nhằm đánh thẳng vào các trung tâm
đông đúc dân cư của miền Nam, gồm 6 thành phố lớn,
44 thị xã, hàng trăm quận lỵ. Duẩn là người chủ
trương đánh lớn để tạo khúc quanh cuộc chiến. Nhất
là Hà Nội nghĩ rằng, nhân dân miền Nam sẽ vùng lên ủng
hộ cộng sản, nhưng Việt cộng đến đâu người dân bỏ
chạy đến đó.
Con số thật buồn cho
mẫu số chung là người Việt, Lê Duẩn huy động khoảng
100 tiểu đoàn, tổng cộng 84,000 người, bị tan rã gần
hết, có tới 70% bị tử thương, 11% bị bắt làm tù
binh, các cơ sở nằm vùng bại lộ, bị tiêu diệt. VNCH
có 4,950 người tử trận, 926 người bị mất tích, 15,097
người bị thương. Phía Đồng minh có 4,120 người tử
trận, 19, 265 bị thương, 600 người mất tích.
Miền Nam bị thiệt hại
nặng về kinh tế toàn quốc có trên 60,000 căn nhà bị
hủy, 13 xưởng kỹ nghệ đổ nát vì bom đạn, 20 hãng
xưởng khác bị hư hại, thiệt hại lên tới 25 triệu Mỹ
kim. Nạn nhân chiến tranh lên gần 700,000 người.
Cuộc Tổng cộng kích cho
thấy chính sách thí quân dã man và tính đa sát điên
cuồng của Lê Duẩn: nhiều chục vạn thanh niên bị đẩy
vào tử địa, phố xá bị đốt phá, hàng vạn người
dân vô tội bị tàn sát để thỏa mãn tham vọng tột
cùng của kẻ độc tài xuất thân có truyền thống cha
làm nghề đóng hòm.
.
Hoang tưởng kỳ quái
của Lê Duẫn: đánh vỗ mặt.
Cuộc Tổng tấn công
1972, miền Nam VN thường gọi là trận Mùa hè đỏ lửa,
phía CS gọi là “Chiến dịch xuân hè 1972”, kéo dài từ
30-3-1972 tới 31-1-1973, mặt trận diễn ra ở Trị- Thiên,
Bắc Tây nguyên, miền Đông Nam bộ và Nam bộ. Chỉ huy
chiến dịch gồm Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái, Văn Tiến
Dũng.
Đây là
trận Tổng tấn công lớn và đại qui mô gấp bội lần
cuộc tổng công kích Mậu Thân, lần này Duẩn đổi sang
chiến tranh qui ước với hơn chục sư đoàn có sự yểm
trợ của xe tăng, đại bác. Sử dụng những đại đơn
vị chính qui do Lê Duẩn chủ trương và:“Để
giành thắng lợi, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã
huy động rất nhiều tân binh cho trận quyết chiến này.
Rất đông những người lính lên đường mùa hè 1972 ấy
là những thanh niên từ 30 trường đại học – cao đẳng
của Hà
Nội: gần 10.000 bộ đội gồm sinh viên và cả giảng
viên trẻ. Hiện nay ở Nghĩa
trang Trường Sơn, ở Thành
cổ Quảng Trị có rất nhiều bia mộ của những
người lính Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ghi năm
sinh là 1953 hay 1954”
Hậu quả từ quyết định
này việc tập trung nhiều lực lượng xung quanh mục tiêu
trước khi tấn công đã bị hỏa lực khủng khiếp của
Hạm đội 7 nả pháo, khiến VC đưa lưng hứng trọn trước
khi nổ súng. Ngoài ra, hàng trăm ngàn cán binh CS đã làm
mồi cho B-52, pháo binh, không quân VNCH, quả là trận
đánh thí quân qui mô lớn, sai lầm và đầy tội ác của
Lê Duẩn.
Trận chiến 1975
Hiệp định Paris ký ngày
27-1-1973, Hà Nội vi phạm hiệp định sau ngày ngưng bắn,
VNCH chống lại. Tháng 2-1973 đã có 175 xe vận tải, 223 xe
tăng BV vào Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh, BV gia tăng xâm
nhập.
Trong khi đó Viện trợ
quân sự của khối CS cho BV không thay đổi. Giai đoạn
1969-72 Tổng số 684,666 tấn vũ khí, giai đoạn 1973-75
649,246 tấn coi như tương đương.
Nga
khuyến khích gây hấn, chiến tranh qua chuyến đi của Tổng
tham mưu trưởng Nga Viktor Kulikov đến Hà Nội vào tháng
12/1974 và sau đó đã tăng viện trợ quân sự gấp 4
lần. Lê Duẩn lên tinh thần và ra lệnh khi quân Bắc Việt
tràn vào Sài Gòn, nay vẫn còn ghi lại tính vô nhân đạo,
bất nhân của Lê Duẩn đối với phe miền Nam: “Không
được, phải đánh chết những con chó, kể cả khi nó đã
rơi xuống nước. Tất cả bọn Mỹ, dù là cán bộ ngoại
giao hay Lầu Năm Góc đều là kẻ thù của nhân dân Việt
Nam. Vì thế, phải chiến đấu quét sạch chúng đi, không
để một tên xâm lược nào trên mảnh đất chúng ta”.
Thời hậu chiến
Sau khi chiếm miền Nam bức
màn bí mật đầy gian dối của cộng sản giống như
chiếc hộp đen nay được mở bung ra, người miền Nam
tuyệt vọng liều chết vượt biển tìm tự do trong khi
người miền Bắc thất vọng, miền Nam quá sung túc văn
minh so với cảnh cơ hàn của miền Bắc. Họ đã thấy nó
hoàn toàn ngược lại với sự tuyên truyền láo của cộng
sản trước đây.
Mười năm đầu từ chiến
tranh sang hòa bình dưới sự lãnh đạo một cai thầu
chiến tranh, chuyên nghề đánh phá của Lê Duẩn, người
dân sống trong cơ hàn, một nước nông nghiệp nhưng dân
không có gạo để ăn, phải ăn bo bo, Việt Nam trong khoảng
thời gian này được xếp trong số 10 nước nghèo đói
nhất thế giới.
Đỗ
Mười, Phó thủ tướng Trưởng ban Cải tạo công thương
nghiệp theo chỉ đạo của Lê Duẩn tiến hành đánh tư
sản tại miền Nam VN đã gây ra thảm cảnh màn trời
chiếu đất cho không biết bao nhiêu gia đình, kiểm kê
các nhà tư sản rồi lấy nhà đuổi đi kinh tế mới,
hàng chục ngàn cơ sở thương mại bị đóng cửa trong
ngày đầu xuất quân.
Chiến dịch thất nhân
tâm này khiến nhiều người phải tự tử hoặc đi vượt
biên, một cuộc ăn cướp vĩ đại trắng trợn, trấn lột
tài sản các thương gia để bỏ túi chia chác nhau, lấy
nhà cửa phân phối cho các đảng viên từ ngoài Bắc vào.
Ước lượng có hai triệu người đi vượt biên, mấy
trăm nghìn người thiệt mạng ngoài biển khơi.
Thật sự là những vụ
khủng bố, cướp cạn sau khi hòa bình.
Nguyên tắc hàng đầu của
các chiến dịch này là bí mật, bất ngờ. Những ông
chủ, bà chủ chỉ bàng hoàng nhận biết những gì xảy
ra khi cửa mở và tổ công tác đặc biệt bất ngờ có
mặt, đọc quyết định "kê biên tài sản" của
họ. Những cửa hàng, nhà cửa bị tịch thu trở thành
tài sản công và thường sẽ thành một cửa hàng quốc
doanh hoặc thậm chí nhà ở cho cán bộ. Tài sản bị niêm
phong xong, mọi người trong gia đình đó phải chuẩn bị
nhận quyết định đi "xây dựng vùng kinh tế mới".
Đỗ Mười múa tay, múa
chân có sự phụ họa của Võ Văn Kiệt, cùng hô hào thực
hiện rất quyết liệt theo lệnh của Lê Duẩn.
Chiêu bài đu dây Cộng
Sản Hà Nội
Quan hệ Việt-Trung-Sô
Năm 1975 Lê Duẩn thăm Bắc
Kinh, Trung Quốc muốn Duẩn chống Nga nhưng ông ta vẫn
theo chính sách đu dây. Bắc Kinh cho là VN vô ơn phản bội.
Duẩn ngày càng thân Nga khiến Băc Kinh lo ngại CSVN mạnh
ở Đông Dương. Ngày 1-11-1977 Nhân Dân nhật báo của Bắc
Kinh coi Mỹ là bạn coi Nga là thù. Ngày 30-7-1977 Bắc Kinh
tuyên bố ủng hộ Miên chống VN và sau đó cắt hết viện
trợ cho CSBV.
Ngày 3-11-1978 Hà Nội ký
hiệp ước hữu nghị với Nga (Việt – Sô) trong đó có
cả phòng thủ chung. Nga tăng viện trợ kinh tế cho Hà Nội
từ 450 triệu USD năm 1975 lên 1,1 tỷ năm 1979, viện trợ
quân sự tăng mạnh khi có chiến tranh Việt-Miên từ
125 triệu năm 1977 lên 600 triệu năm 1978, 900 triệu năm
1979. Ngày nay người ta vẫn chưa tìm thây có công trình
nhân văn nào có giá trị để khai hóa văn minh cho người
Việt, sự viện trợ người Nga không ngoài số vũ khí đủ
loại để đánh nhau, người Việt giết người Việt.
Cuộc chiến Việt –Miên
Từ tháng 4 -1975 một toán
Khmer đỏ đột kích Phú Quốc 6 ngày, sau đó hành quyết
hơn 500 người dân Việt tại đảo Thổ Chu. CSVN phản
công tái chiếm, quan hệ Việt –Hoa xấu đi, Trung Quốc
tăng cường viện trợ cho Miên. Tháng 9-1977 quân chính qui
Khmer đỏ gồm 4 sư đoàn chiếm nhiều địa điểm tại
các huyện Tân Biên, Bến Cầu, Châu Thành Tây Ninh đốt
gần 500 căn nhà, giết gần 800 người.
Năm 1977, Lê Duẩn sang
Trung Quốc hội đàm với Hoa Quốc Phong để tìm một
giải pháp cho Campuchia nhưng thất bại và ra về trong sự
tẻ nhạt..
Ngày 31-12-1977, sáu sư
đoàn CSVN đánh sâu vào đất Miên, năm ngày sau rút về.
Sau đó Pol Pốt liên tục cho tấn công vào VN, tháng 4-1978
hơn 3,000 người dân VN bị giết tại Ba Chúc.
Tổng
cọng từ 1975-1978 Khmer đỏ tấn công biên giới và giết
hại khoảng 30,000 người Việt Nam.
Ngày 13-12-1978 Pol Pot huy
động 19 sư đoàn, một sư đoàn Khmer đỏ chỉ có 4,000
người, tấn công xâm lược và tàn sát thường dân, CSVN
chận đứng bước tiến của địch, khoảng 38,000 quân
Khmer đỏ bị giết, gần 6,000 tên bị bắt.
Từ đầu tới cuối tháng
12 -1978 Việt Nam huy động tổng cộng 18 sư đoàn với xe
tăng, pháo bính, không quân yểm trợ tiến vào đất Chùa
tháp. Ngày 7-1-1979 quân Khmer đỏ tan rã, chính phủ Pol Pot
rút khỏi Nam Vang. Cuối tháng 3-1979 CSVN chiếm được hết
những tỉnh thành quan trọng của Campuchia và tiến sát
biên giới Thái Lan.
CSVN chiếm đóng xứ Chùa
Tháp 10 năm cho tới cuối năm 1989 mới hoàn toàn rút khỏi
Campuchia. Phía CSVN cho biết họ thiệt hại 55,300 người
tử thương, phía Khmer đỏ khoảng 100,000 người bị giết.
Chiến tranh Việt-Trung
Đây chỉ là một cuộc
chiến ngắn nhưng khốc liệt, bắt đầu ngày 17-2-1979 và
kết thúc ngày 16-3-1979 Trung Cộng rút sau khi đã chiếm
Lạng Sơn, Lào cai, Cao Bằng, song mục đích bắt VN rút
khỏi Campuchia không thành.
Tưởng cũng nên nhắc
lại, ngày 3-11-1978 CSVN ký Hiệp ước hữu nghị Việt-Sô
trong đó có cả phòng thủ chung. Nhưng quả là đau lòng
cho các hiệp ước ký kết với cộng sản, khi Trung Quốc
đánh Việt Nam, Liên Xô không đưa quân sang cứu giúp.
Ngoài Phi đoàn vận tải của Nga chở Quân đoàn 2 CSVN từ
Campuchia về Lạng Sơn.
Mục đích của cuộc
chiến theo Thượng tướng không quân (Bắc Kinh) Lưu Á
Châu nói Đặng Tiểu Bình gây chiến để xác nhận quyền
lực tuyệt đối của ông ta trong đảng, sau đó trả thù
cho Mỹ đã tháo chạy nhục nhã tháng 4-1975 cần rửa hận
để được Mỹ viện trợ ồ ạt. Nhờ cuộc chiến
này Mỹ đã viện trợ cho Tầu về kinh tế, khoa học,
quân sự, tiền vốn…
Nguyên văn
“Cuộc
chiến này đem lại cho Trung Quốc những gì? Đó là một
lượng lớn thời gian, tiền bạc và kỹ thuật. Nhờ
những yếu tố này, Trung Quốc tiếp tục đứng vững sau
khi Liên Xô sụp đổ. Đây là thành công vĩ đại. Thậm
chí có thể nói, bước đi đầu tiên của cải cách mở
cửa Trung Quốc chính là từ cuộc chiến tranh này”
Trung Cộng cho biết CSVN
tử thương 50,000 người và họ có 20,000 người thiệt
mạng. Tháng 4 năm 1979, Báo Quân đội Nhân dân của Việt
Nam ước lượng tổng cộng thương vong của quân Trung
Quốc là 62,500 người.
Cả hai
phía đều nói chiến thắng nhưng cuộc chiến gây thiệt
hại trầm trọng cho kinh tế Việt Nam: các thị xã Lạng
Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam Đường bị hủy diệt hoàn
toàn: 320 xã, 735 trường học, 428 bệnh viện, bệnh xá,
41 nông trường, 38 lâm trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ và
80,000 héc ta hoa màu bị tàn phá, 400,000 gia súc bị
giết và bị cướp.. Khoảng
một nửa trong số 3.5 triệu dân bị mất nhà cửa, tài
sản. Sau cuộc chiến CSVN nhường cho tầu chiến Liên Xô
đóng ở cảng Cam
Ranh để
đổi lấy viện trợ tái thiết. Cuộc chiến ngắn này
khiến Bắc Kinh tốn kém khoảng 1,3 tỷ USD ảnh hưởng
tới quá trình cải tổ kinh tế.
Kết
luận
Trong suốt thời gian dài
từ 1954 đến 1964, Trung Cộng là nguồn cung cấp duy nhất
cho CS Bắc Việt, không chỉ từ chén cơm manh áo mà cả
lý luận tư tưởng, từ vật chất đến tinh thần của
đảng CSVN lệ thuộc sâu xa vào đảng CSTQ. Khắp miền
Bắc, từ công sở đến gia đình, hình ảnh của Mao được
đặt trên mức linh thiêng.
Dó đó CSVN đã thi hành
một cách nghiêm chỉnh hầu hết các mệnh lệnh đầy tai
họa từ Mao và các chính sách phi nhân đã dẫn đến cái
chết oan uổng của nhiều trăm ngàn người dân Việt Nam
vô tội qua các chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất, hàng
triệu người bỏ mình trong cuộc chiến tranh huynh đệ
tương tàn để người Việt giết người Việt. Đã có
lúc Mao sai Đặng Tiểu Bình, lúc đó là Tổng Bí Thư đảng
CSTQ, bí mật thăm Hà Nội và hứa viện trợ một tỉ
yuan nếu Hà Nội chịu trong vòng ảnh hưởng của Trung
Quốc và tiến hành chiến tranh. Đến tháng Ba 1968, tổng
số quân Trung Cộng có mặt tại miền Bắc là 320 ngàn
quân với tất cả phương tiện yểm trợ và trang bị vũ
khí đầy đủ. Tất cả đều là Mao từ sách vở đến
đường lối và đã từng áp dụng tại Trung Quốc.
Từ Mao đến Mao, phản
bội Mao rồi trở về với Mao, chứng tỏ đường lối
thiếu uyển chuyển, luôn cực đoan thái quá của Lê Duẩn,
cũng như sự kiêu ngạo của kẻ ít học, xuất thân
thường thuộc thành phần ở đợ như Võ Văn Kiệt, đã
đưa đất nước từ thảm hại này đến đau thương
khác. Nhất là sự thất bại trong công cuộc kiến thiết
đất nước thời hòa bình, lòng có đầy miệng mới nói
ra, khi ông phát biểu “cứ in tiền, chúng ta xã hội chủ
nghĩa, không sợ lạm phát”, đủ hiểu ông thừa kế đầy
đủ cái tố chất di truyền của nghề đóng hòm đối
với một nền kinh tế. Nó đã
làm tiêu tan uy tín, sự nghiệp của ông tới mức khi ông
chết phần lớn người dân VN, cũng như những người
trong đảng của ông, đều cảm thấy thở phào nhẹ nhõm.
Nguyễn Quang Hồng Nhân