Thái Công Tụng
Biển và con người
1.Dẫn nhập
Nói đến nước là phải nghĩ ngay đến biển, đến đại dương.
Biển có nhiều đặc thù : gió biển khác với gió đất, cát biển khác với cát sông, cá biển khác với cá nước ngọt v.v. .
Các vùng ven biển chỉ chiếm 20% diện tích Trái Đất nhưng có đến 50% dân cư sống tại đó .Vài ví dụ các thành phố ven biển:
Thượng
Hải, Hong Kong nằm sát biển ở Trung Quốc; Marseille, Bordeaux nằm gần
biển ở Pháp; Barcelone ở Espagne, NewYork ở Mỹ, Lisbonne ở Portugal đều
là những thành phố quan trọng sát biển .
Đại
dương quan trọng vì chứa nhiều tài nguyên (dầu hoả, hơi đốt), vì 90%
hàng hoá thương mại trên thế giới là trên biển, vì nguồn lợi hải sản, vì
du lịch v.v.
Following introduction in section 1 about the sea and oceans with songs and Vietnamese poetry about oceans, the various roles of ocean are mentioned in section 2: supply, ecology, society and spirituality. Oceans provide a variety of fish products, shrimps and other molluscs. Oceans
regulate the earth climate with ocean currents. El Nino, earthquakes
also originate from oceans. Oceans also are important for recreational
use. Oceans can awaken, renew, or deepen spirituality washes over our inner selves that can lead to serenity and peace. .Section 3 deals with ocean issues: coastal resources are under constant stress from human activity with pollution,
overfishing, degradation of coastline forests, destruction of coral
reefs .. Climate change and rising seas go on to exacerbate existing
threats .Section 4 deals about managing coastal resources which may be summarized in 4 P: to protect, to preserve, to promote and to prevent.. In concluding remarks in section 5, the author stresses the harmony in development, that is
the fair allocation and use of coastal resources while managing these
areas sustainably, so that they can be used by future generations
1.Dẫn nhập
Nói đến nước là phải nghĩ ngay đến biển, đến đại dương.
Biển có nhiều đặc thù : gió biển khác với gió đất, cát biển khác với cát sông, cá biển khác với cá nước ngọt v.v. .
Các vùng ven biển chỉ chiếm 20% diện tích Trái Đất nhưng có đến 50% dân cư sống tại đó .Vài ví dụ các thành phố ven biển:
Thượng
Hải, Hong Kong nằm sát biển ở Trung Quốc; Marseille, Bordeaux nằm gần
biển ở Pháp; Barcelone ở Espagne, NewYork ở Mỹ, Lisbonne ở Portugal đều
là những thành phố quan trọng sát biển .
Đại
dương quan trọng vì chứa nhiều tài nguyên (dầu hoả, hơi đốt), vì 90%
hàng hoá thương mại trên thế giới là trên biển, vì nguồn lợi hải sản, vì
du lịch v.v.
Trong 5 đại dương thì
Thái Bình dương
lớn nhất, chiếm một diện tích 180 triệu km2, bao phủ 1/3 diện tích trái
đất. Nhiều hoạt động núi lửa trên mặt (Indonesia) hoặc dưới nước
Đại Tây dương
đứng hạng 2 với 106 triệu km2 , kéo dài từ bắc xuống nam với chiều rộng
trung bình 5000km, tiếp nhận nhiều nguồn nước nhạt từ các cửa sông St
Laurent, sông Congo, sông Amazone
Ấn độ dương với trên 73 triệu km2, nằm giữa Châu Phi và châu Úc
Hai đại dương còn lại là Bắc Băng dương và Nam Băng dương. Nếu tính theo tỷ số diện tích các đại dương thì Thái Bình dương đã chiếm gần 50%, Đại Tây dương với gần 30% và Ấn độ dương 20%
Nhưng biển cũng rất đa dạng: có biển nằm trong lục địa như biển Caspian, biển Aral, Biển Chết. Những biển này thực ra không thông thương với đại dương nhưng thực chất là những hồ nước mặn. Biển Chết ở Trung Đông là nơi thấp nhất trên bề mặt Trái Đất. Khu vực chứa nước bị hãm kín này có thể coi là một hồ chứa nước có độ mặn cao nhất trên thế giới.
Tỷ trọng của nước biển nằm trong khoảng 1.020 tới 1.030 nghĩa là nặng hơn nước ngọt. Nước biển có độ mặn không đồng đều trên toàn thế giới mặc dù phần lớn có độ mặn nằm trong khoảng từ 3,1% tới 3,8%.
Bờ biển
cũng thay đổi vì có chỗ hình vòng cung, có chỗ cạn, chỗ sâu nên có
nhiều danh từ địa mạo khác nhau như : vịnh, vũng, phá, eo v.v.
Vịnh (gulf) là phần biển lõm sâu vào đất liền. có kích thước khá lớn. Ví dụ: vịnh Thái Lan, vịnh Bắc Bộ
Vụng
(bay) là những vịnh có kích thước không lớn, được bảo vệ chống sóng gió
bởi các mõm nhô ra biển.Một số vụng ở Việt Nam: vụng Đà Nẵng, vụng Dung
Quất, vụng Qui Nhơn, vụng Văn Phong...
Phá (lagoon) kéo dài dọc theo bờ biển, hoàn toàn tách biệt với biển bằng các doi đất, chỉ trừ vài cửa thông với biển. Ví dụ : phá Tam Giang ở Thừa Thiên.
Eo biển (détroit, straits) là phần biển dài và hẹp nằm ở giữa hai khoảng đất, thường là hai lục địa nối liền hai vùng biển với nhau. Ví dụ: Eo biển Bering nối liền Thái Bình Dương và Bắc Băng Dương, phân cách Châu Á và Bắc Mỹ; Eo biển Gibraltar nối Địa Trung Hải với Đại Tây Dương, phân cách Châu Âu và Châu Phi; Eo biển Malacca nối Biển Đông với Ấn Độ Dương.
Sông ngòi thông ra với biển qua các cửa biển; ở Viet Nam, ta có Cửa Lò, Cửa Tùng, Cửa Việt, cửa Đại v.v.:
Biển bao la trên Trái Đất nên cũng là nguồn cảm hứng cho nhà văn, nhà thơ .
Thi bá Nguyễn Du có nói về biển ngay đầu tập thơ Kim Vân Kiều:
Trãi qua một cuộc biển dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Biển dâu, dâu biển cũng còn trong câu :
Cơ trời dâu bể đa đoan
Một nhà để chị riêng oan một mình
Dưới mắt của nhà thơ Nguyễn Khắc Hoạch, bút hiệu Trần Hồng Châu thì:
Biển là mây gió
Biển là Tự do không bờ bến
…
Biển là huynh đệ lòng người
Biển cũng có những bát ngát tư duy
................................................................................
(Ngủ Ngon Đi Nhé Biển Tuyệt Vời – Trần Hồng Châu)
Biển cũng là nguồn cảm xúc của nhiều nhạc sĩ :
Ngày mai em đi biển nhớ tên em gọi về Gọi hồn liễu rũ lê thê Gọi bờ cát trắng đêm khuya
Ngày mai em đi biển nhớ em quay về nguồn gọi trùng dương gió ngập hồn v.v.
cũng như nỗi nhớ ray rứt:
Có kẻ nghe mưa, trạnh mối sầu
Vắt tay chờ mộng, suốt đêm thâu
Gió từ sông lại, mưa từ biển
Không biết người yêu nay ở đâu (thơ Đinh Hùng)
Vắt tay chờ mộng, suốt đêm thâu
Gió từ sông lại, mưa từ biển
Không biết người yêu nay ở đâu (thơ Đinh Hùng)
Lời mẹ ru con buồn xa vắng hay lời hát quan họ Bắc Ninh cũng nhắc đến biển: Đêm qua chớp bể
mưa nguồn, Hởi người tri kỷ có buồn hay không, Cá buồn cá lội tung
tăng, Người buồn người biết đãi đằng cùng ai, Ngày qua chung bóng chung
hơi, Bây giờ kẻ ngược người xuôi mặc lòng.
Biển có một vai trò quan trọng trong hoạt động của hệ sinh thái trái đất.
Biển
điều hòa khí hậu và điều tiết các quy trình tái tạo các yếu tố thiết
yếu của sự sống (các-bon, o-xy…), cung cấp nguồn tài nguyên và phục vụ
cho cuộc sống của con người.
2.Vai trò của đại dương
2.1. cung cấp.
Đại dương cung cấp cho loài người nhiều thức ăn hải sản như cá, mực, nghêu, ngao.. , Rong biển là nguồn nhiều dược thảo.
Nhiều xứ ở Phi Châu ven biển (Mauritanie, Sénégal, Cote d’Ivoire ..)
đang coi cá và hải sản là nguồn dinh dưỡng chính của họ. Đại dương tạo
công ăn việc làm cho bao ngành nghề khác nhau và hải sản như tôm, cá là
loại thực phẩm được buôn bán lớn nhất.
Các thềm
lục địa ven biển là nơi có nhiều phiêu sinh vật cả thực vật lẫn động
vật; nhờ nguồn thức ăn này nên tài nguyên hải sản vừa đa dạng, vừa phong
phú : gần 2 000 loài cá biển, hơn 200 loài tôm biển, vài chục loài mực,
chưa kể vài loài rùa biển, rắn biển cũng như các hải sản có tiềm năng
xuất cảng lớn : rong câu, sò điệp, hải sâm, tôm v.v.
2.1.1. Các loài cá biển .
Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực LHQ (FAO) cho biết, tổng sản lượng
đánh bắt cá toàn thế giới năm 2008 đạt hơn 141 triệu tấn, trong đó đánh
bắt cá tự nhiên đạt 90 triệu tấn, nuôi trồng thủy sản đạt 51,6 triệu
tấn.
Cá
biển rất đa dạng về chủng loại, hình thái, kích thước, điều kiện sinh
thái, sinh trưởng, sinh sản và khác nhau về giá trị kinh tế:
-theo chiều dọc, có thể phân loại:
. cá nổi, cá tầng giữa như cá đé (Ilisha elongata) là một loại cá nhiều ở vịnh Bắc Bộ được liệt vào hạng cá tứ quý ở vùng biển phía bắc Việt Nam: cá chim, cá thu, cá nhụ, cá đé.
.cá tầng gần đáy và cá đáy; cá đáy cũng còn bao hàm luôn các loài cá khai thác được bằng lưới kéo đáy như cá hồng còn có tên khác là cá hanh, cá mối .
-theo chiều ngang, cá phân chia thành:
. cá cửa sông, cá ven bờ (như cá trích, cá cơm, cá đé, cá nục..)
.cá đại dương (cá thu, cá ngừ, cá chuồn, cá bạc má, cá nhám..) .
Tuy
có hàng ngàn loài cá thuộc khoảng 200 họ nhưng chỉ có chừng 100 loài là
có giá trị kinh tế. Cá đại dương có giá trị kinh tế ở biển Đông là cá
thu, cá ngừ, cá mòi và vô số loài cá khác; nhiều loại cá chuyên sống ở
đáy biển như cá hồng, cá mú, cá đuối, cá kẽm
Cá cơm (Anchoviella) là cá cỡ nhỏ chủ yếu làm nước mắm, cá dưa (Muraenesox) thuờng gặp khắp vùng bờ biển Việt Nam .
Cá hồng (Lutianus erythropterus) cũng là một loài cá kinh tế thường dùng ăn tươi
Cá khế ( thuộc họ Carangidae) gồm nhiều loài có giá trị kinh tế như cá nục (Decapterus)
Cá mòi (Clupanodon)
là cá tầng trên ở các vùng nước ven bờ biển; trước kia Việt Nam có
nhiều nhưng nguồn lợi này bị giảm sút nặng do đánh cá quá mức khi cá đi
đẻ..Cá mòi được gợi lại trong ca dao sau đây :
Tiếng đồn con gái Phú Yên
Đồng Nai đi cưới, một thiên mắm mòi
Chẳng tin giở hộp ra coi
Rau răm ở dưới, mắm mòi ở trên
Cá mú ( thuộc họ Serranidae)
gồm nhiều loài . Phần lớn các loài thuộc họ Cá Mú đều có giá trị kinh
tế; các loài này thường sống trong các rạn san hô và rạn đá.
Cá ngừ ( thuộc họ Thunnidae) bề ngoài gần giống cá thu, ở Nhật Bản dùng ăn tươi với món gỏi cá ngừ sashimi . Cá ngừ ngâm dầu, đóng hộp, có khi xông khói
Cá nục (Decapterus) thuộc họ Cá Khế (Carangidae) có vài loài có giá trị kinh tế ở Việt Nam như cá nục sò (Decapterus maruadsi) và cá nục đỏ (Decapterus kurroides), phân bố chủ yếu miền Trung .
Cá thu (mackerel) là tên gọi chung chỉ một nhóm cá biển có nhiều loai như : cá thu ảo (Scomberomorus commersoni), cá thu sọc (Rastrelliger brachyosoma), cá thu bạc má (Rastrelliger kanagurta). Thịt cá thu ngon nên được xếp vào hàng tứ quý :chim, thu, nhụ, đé .
Cá chuồn
(họ Exocoetidae) tập trung nhiều biển miền Trung; cá chuồn có thể bay
trong không khí, mỗi lần bay chỉ kéo vài chục giây trên vài chục mét Tuy
có hàng ngàn loài cá thuộc khoảng 200 họ nhưng chỉ có chừng 100 loài là
có giá trị kinh tế như cá mú, cá chim, cá chình, cá chuồn; cá chuồn
là loại cá nổi, thân nhỏ, ít thịt nhiều xương với hai vây lưng rất to.
Loài cá này chỉ xuất hiện rộ vào mùa biển lặng từ tháng hai âm lịch. Cá
chuồn có thể chế biến được nhiều món và dành làm thực phẩm cho mùa mưa
gió. Ở xứ Quảng có câu ca:
Ai về nhắn với bạn nguồn
Mít non gửi xuống, cá chuồn gửi lên.
Mít
non nấu canh cá chuồn là món ăn dân dã, mộc mạc đã gắn bó bao đời nay
với người dân xứ Quảng, như một mối tình gắn bó keo sơn giữa rừng với
biển - mít non gửi xuống, cá chuồn gửi lên
cá trích (Clupeidae) thường được khai thác bằng kết hợp ánh sáng và lưới kéo, ban đ êm thường nổi lên mặt, ban ngày ở lớp gần đáy
cá mú (Serranidae) sống
chủ yếu vùng rạn đá và rạn san hô nên cá này khó đánh bắt bằng lưới kéo
đáy . Loài cá được ưa chuộng nhất trong các loài cá biển vì thịt trắng,
ngon, dai
cá ngừ vây vàng (tuna) dùng làm món ăn sushi, sashimi
Ngoài cá biển, còn gặp thêm:
2.1.2. các loài thân giáp (Crustacea) như cua biển, tôm hùm (homard), tôm rồng (langouste)
Rủ nhau xuống biển mò cua
Đem về hái quả mơ chua trên rừng
Dĩ nhiên, tài nguyên biển Đông phải kể thêm tôm
vì tôm là một sản phẩm được xuất cảng nhiều nhất trong các hải sản.
Ngoài đánh bắt ở biển, hiện nay nghề nuôi tôm bằng giống tự nhiên và
giống nhân tạo đang được phát triển.Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii
) tuy là tôm nước ngọt, nhưng vào mùa sinh sản, tôm này phải di chuyển
đến vùng cửa sông, vùng nước lợ để đẻ; hiện nay, tôm càng xanh đã có
trại sản xuất tôm giống và nuôi tôm thịt xuất cảng.
Cua biển (Scylla serrata)
là loài cua sống ở biển cạn có thể bơi lên mặt nước hoặc bò ở đáy tìm
thức ăn. Người ta khai thác cua biển bằng nơm, lờ, bẫy có mồi; hiện một
vài nơi ở Việt Nam đã có thể nuôi cua biển trong các đầm nước lợ, vùng
hạ triều, nuôi đơn hay ghép với cá măng (Chanos chanos). Thịt cua biển rất ngon và ngon nhất phải kể đến cua gạch.
Ngoài cua biển, còn có còng (Ocypoda), cáy (Uca), rạm (Sesarma), ghẹ. Ghẹ
là tên chung chỉ một số thuộc họ Cua bơi (Portunidae) ở biển, có 10
chân. Thịt thơm ngon, các phế thải được dùng làm bột thức ăn chăn nuôi. Ở
dưới biển, ghẹ lao nhanh như tên bắn nên bắt ghẹ khó.
Ngoài biển, phía gần bờ còn có con ruốc, còn gọi là tép biển Acetes, chi Tôm biển cỡ nhỏ, họ Sergestidae, bộ Thân giáp mười chân (Decapoda). Ruốc sống thành đàn lớn chứa nhiều protein
2.1.3 các loài thân mềm (Mollusque) có các đặc điểm như cơ thể mềm, không xương sống,có thể có vỏ đá vôi che chở và nâng đỡ như trai, sò, ốc, hến, ngao..
Trong các loài ngành Thân Mềm, ta phân biệt:
-các loài thuộc lớp Chân đầu (Cephalopoda), bao gồm phần lớn các động vật sống trong biển với đặc trưng là cơ thể đối xứng, phần đầu nổi bật, và có nhiều tua được phát triển từ chân của các động vật thân mềm nguyên thủy như mực (cuttlefish, squid, octopus) mực ống, bạch tuộc, và mực nang
-các loài thuộc lớp Chân bụng (Gasteropoda) như ốc ( ốc giấm, ốc nón, ốc gai , ốc mỡ, ốc giác, ốc bàn tay, ốc móng tay, ốc đỏ ) ngao, sò .. sống cửa sông, bãi bùn, bãi triều ..
Ốc lông xấu xí nhưng thịt ốc thì rất ngon. Ảnh: T.T.
|
Nghêu (tên khác : ngao) là tên gọi chung các động vật thân mềm với 2 mảnh vỏ, họ Ngao (Verenidae).
Phân bố vùng triều giữa đến cuối tuyến triều thấp, nơi đáy cát hoặc cát
bùn, sống vùi mình trong đáy. Ở miền Nam thì Bến Tre nhiều nghêu nhất. Ở
Việt Nam, các loài ngao có giá trị hơn cả là : ngao dầu (Meretrix meretrix), ngao mật (Meretrix lusoria ).
Hàu (huitre).
Hàu có chừng 25 loài, họ Hàu (Ostreidae), có 2 mảnh vỏ và sống chủ yếu ở vùng triều cửa sông, các rạn đá ven bờ, cả trong nước mặn và nước lợ .
Đầm Ô Loan giữa Qui Nhơn và Tuy Hoà có nhiều sò huyết và hàu đến nỗi Tản Đà có thơ rằng :
Lấy chi vui với thu tàn
Phú Câu cước cá, Ô Loan miếng hàu
Sò (palourde) cũng là tên gọi chung các động vật thân mềm với 2 mảnh vỏ, họ Sò (Arcidae)
Sò huyết (Arca granosa, họ Arcidae),
cũng gặp ở vùng triều, có đáy bùn, thường gặp ven biển Bình Định, Ninh
Thuận, Khánh Hoà. Đầm Ô Loan phía bắc Tuy Hoà, đầm Lăng Cô phía Nam Huế
có nhiều sò huyết.
Sò điệp (pétoncle) cũng có 2 mảnh vỏ; ở Việt Nam, loài sò điệp có sản lượng lớn hơn cả là điệp nhật nguyệt (Amussium japonica),
có nhiều ở vùng biển Quảng Ninh, Nghệ Tĩnh, Phan Thiết. Thịt điệp ngon,
thường làm khô hoặc ăn tươi . Nguồn lợi điệp đã và đang bị khai thác
quá mức : cần hạn chế khai hác trong mùa sinh sản, cấm khai thác điệp
con, khai thác luân phiên các bãi .
Trai ngọc cũng là động vật thân mềm, 2 mảnh vỏ, gồm nhiều loài thuộc hai chi ( Pinctada
và Pteria
) sống ở các biển cạn ở độ sâu 5-60 mét, có khả năng sinh ra ngọc trai
(perle). Hiện nay, nhiều nước nuôi để lấy ngọc, ngoài ra còn lấy vỏ cung
cấp cho nghề khảm xà cừ
Bào ngư, có tên khác ốc chín lổ, là nhóm ốc biển,. Sống trong các khe đá dưới biển. Thịt bào ngư ngon, vỏ làm đồ mỹ nghệ
Sứa (méduse, jellly fish) là một lớp nhuyễn thể, thân mềm, sống ở môi trường nước. Có địa phương gọi là con nuốt. Một số loại sứa có thể được sử dụng làm các món ăn như bún sứa, gỏi sứa.
Ngoài các loài Thân Giáp và Thân Mềm nói trên, có thể kể Rùa biển thuộc loài Bò Sát hầu như suốt đời sống ở biển, chỉ lên bờ để đẻ trứng.Việt Nam có nhiều loài rùa biển.
Hải sâm, tên gọi dân gian là đỉa biển, còn gọi là dưa biển do thân hình loài vật này giống quả dưa. Tên tiếng Anh của loài này là Sea cucumber .
Hải sâm là loài vật chuyên ăn xác chết của động vật dưới biển, Thức ăn
của chúng là loài phù du và các chất hữu cơ tìm thấy dưới biển. Hải sâm
được khai thác nhiều nhất ở Phú Yên, Khánh Hoà cũng như Vủng Tàu Côn
Sơn. Người ta phát hiện gần đây trong hải sâm chất holothurine có tác
dụng ức chế sự phân bào, có khả năng sử dụng trị ung thư.
Nhiều nguồn động vật biển được tái chế thành bột cá, dầu cá..Bột
cá sử dụng như phân bón hoặc dùng làm thức ăn chăn nuôi, thức ăn thuỷ
sản. Dầu cá nhiều Omega 3 cũng là nguồn cung cấp năng lượng rất tốt
trong thức ăn
2.1.4 Ngoài hải sản còn có thực vật nằm dưới biển như các loại rong biển, cỏ biển.
Rong biển là những loài thực vật sinh sống ở biển, thuộc nhóm tảo biển.
Rong biển có thế sống ở cả hai môi trường nước mặn và nước lợ. Chúng
mọc trên các rạn san hô hoặc trên các vách đá, hoặc có thể mọc dưới tầng
nước sâu với điều kiện có ánh sáng mặt trời chiếu tới để quang hợp.
Rong
biển đã được sử dụng trong bữa ăn của con người từ thời tiền sử.Và sau
đó trở nên phổ biến trên các quốc gia như Nhật Bản hay Hàn Quốc.
Rong câu (Gracilaria) là một loài tảo. Ở Việt Nam, có nhiều loài, đặc biệt có rong câu chỉ vàng (Gracilaria asiatica)
có giá trị kinh tế lớn, sống ở môi trường nước lợ, thích mặt nước lặng,
không có sóng gió. Đầm Ô Loan ở Phú Yên có nhiều rong câu . Rong câu
cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp sản xuất aga
và các chế phẩm khác. Việt Nam có nhiều tiềm năng sản xuất rong câu,
tuy nhiên còn thua xa Đài Loan về mặt năng xuất (8-10 tấn rong câu khô/
ha / năm ở Đài Loan, 1-1.2 tấn/ ha/ năm ở Việt Nam)
Vì
biển Đông nhiều cá nên một trong những hình thức dự trữ là dưới dạng
chế biến thành nước mắm (nước mắm Phan Thiết, nước mắm Phú Quốc ..) hoặc
mắm. Mắm cá được gợi lại trong nhiều câu thơ; các thuyền ghe ở Nghệ An
chuyên chở mắm trong thuyền, rất hôi nên Cao Bá Quát đã có câu sau đây,
ám chỉ chê thơ của vài thi sĩ cùng thời với ông :
Câu thơ thi xã, con thuyền Nghệ An
Tản Đà khen mắm Long Xuyên như sau :
Hà tươi cửa bể Tourane
Long Xuyên chén mắm, Nghệ An chén cà
Các
hải đảo biển Đông như các cù lao ngoài khơi Nha Trang, Đà Nẳng thì
phong phú yến sào, món đứng đầu bát trân của người Trung Hoa.
Nước biển cho vào ruộng muối, để bốc hơi , còn lại là muối
Nước biển có thể chế biến thành nước nhạt để uống qua hệ thống thẩm
thấu ngược . Nhiều thành phố lớn ven biển như London, Barcelone ..hay
hải đảo (St Martin) đều có nhà máy chế nước biển thành nước uống ..
Thềm lục địa chứa dầu hoả và hơi đốt .
2.2. sinh thái .
Biển
chiếm đến 71% diện tích Trái Đất, như vậy dĩ nhiên 71% này có ảnh hưởng
lớn đến 29% đất còn lại. Biển với gió biển, bão biển, thuỷ triều, các
dòng hải lưu .. ảnh hưởng đến hệ sinh thái của Trái Đất.
Chỉ
cần một thay đổi nhỏ về năng lượng ở bề mặt nước biển thì sự tác động
của sự thay đổi nhỏ này cũng tạo nên những sự thay đổi rất lớn của khí
hậu trên đất liền. Như vậy, đại dương cũng quan trọng như khí quyển trong sự vận hành khí hậu toàn cầu. Sự nối kết giữa đại dương và khí quyển đã ảnh hưởng sâu xa đến các sự thay đổi khí hậu về lâu về dài.
Chu kỳ nước
cũng phải kể nước biển: năng lượng mặt trời nóng ở vùng xích đạo, nước
biển bốc hơi, gió chở vào lục địa, gây ra mưa to, gió lớn, ‘nước trôi ra biển lại mưa về nguồn’ (Tản Đà), nước nóng theo các dòng hải lưu lên miền lạnh và nước lạnh miền cực trao đổi với dòng nước nóng xích đạo
Chu kỳ cacbon cũng phải kể đến biển: nhờ các loài tảo quang hợp, hút CO2 và nhả ra oxy nên h ợp trạng không khí không thay đổi
Trong diện tích biển thì biển Thái Bình Dương là lớn nhất:
Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình
đúng như lời ca một bài hát nọ. Thái Bình Dương có tác động mạnh nhất
đến khí hậu toàn cầu: các bão lụt, hạn hán đã xảy ra từ Mỹ đến Honduras,
từ Indonesia đến Việt Nam.. đều do các sự thay đổi ở vùng nhiệt đới
Thái Bình Dương.
2.2.1. Hiện tượng El Nino
cũng xuất phát từ Thái Bình Dương. Thực vậy, dòng nước ấm ở phía đông
Thái Bình dương chạy dọc theo các nước Chili, Pérou đã đẩy vào không khí
một lượng hơi nước rất lớn.Hậu quả là nhiều nước ở Nam Mỹ phải hứng
chịu một lượng mưa lớn bất thường. Và vì mây tập trung vào một chỗ quá
cao nên phần còn lại của thế giới (Úc châu, Á châu) bị khô hạn, làm mùa
màng bị thiệt hại nặng nề.
2.2.2.Động đất
cũng xuất phát từ sự va chạm các mảng kiến tạo. Dưới đại dương có
những giãy núi ngầm phun ra lửa với nhiều đá basalt; các giãy núi ngầm
chia bề mặt rắn chắc quả đất thành nhiều mảng (tectonic plate) như mảng
Âu Á, mảng Phi Châu, mảng Bắc Mỹ . Sự va chạm các mảng ngầm dưới biển
tạo nên động đất . Động đất ngoài biển tạo nên sóng thần (tsunami), giết hại hàng trăm ngàn sinh linh, từ Indonesia đến miền nam Thái Lan, hàng chục ngàn người Nhật (Fukushima) .
2.2.3.bão nhiệt đới (hurricane, typhon)
Những
trung tâm phát sinh ra bão nhiệt đới luôn luôn ở các vùng nhiệt độ nước
biển nóng, ở giữa các vĩ tuyến từ 5 độ đến 15 độ vì tại đây, nhiệt độ
nước biển thường 27 độ hay cao hơn nên bốc hơi rất mạnh. Mắt bão là nơi
hạ áp lớn nên không khí nóng và ẩm bị hút mạnh vào đó, tạo ra gió cuốn
như trôn ốc và vì không khí nóng bốc lên cao sẽ gặp lạnh , tạo ra nhiều
mây dày đặc nên tạo ra mưa to gió lớn.. Từ ngoài khơi Phi Luật Tân, bão
nhiệt đới thổi vào đất liền, từ Trung Hoa, Đài Loan đến miền Trung Việt
Nam, gây nhiều lụt lội, tàn phá mùa màng. Bão nhiệt đới cơ bản là những
cỗ máy nhiệt khổng lồ, được tiếp sức bằng việc chuyển tiếp sức nóng từ
đại dương lên khí quyển tầng cao.
2.2.4.dòng hải lưu.
Biển điều hoà khí hậu nhờ các dòng hải lưu. Chính vì có sự chênh lệch về nhiệt độ mới có các dòng hải lưu . Ở
xích đạo nhận được nhiều nhiệt từ mặt trời hơn, đại dương bị đốt nóng
hơn nên tỷ trọng của nước biển ở đây nhẹ hơn và ngược lại đối với các
vùng cực và gần cực. Sự chênh lệch tỷ trọng này dẫn đến sự hình thành
các dòng hải lưu mà hướng chảy của chúng phụ thuộc rất nhiều yếu tố như
sự phân bố các lục địa, địa hình. Nhưng nói chung là dòng hải lưu ấm nóng chảy từ xích đạo về hai cực và dòng hải lưu lạnh chảy từ hai cực về xích đạo.
Ví
dụ dòng Gulf Stream chuyển vận nước nóng miền nhiệt đới đến miền biển
Đông Canada và lên tận các xứ Bắc Au làm nhiệt độ các vùng ven biển Bắc
Âu ấm áp hơn .
2.2.5 Biến đổi khí hậu do quả đất đang nóng lên vì khí nhà kính, sẽ kéo theo nhiều hậu qủa như sau :
-các băng hà sẽ tan
nhiều, chẩy xuống đại dương, nên dòng hải lưu nóng từ xích đạo đi lên
Bắc bán cầu sẽ bị chậm hoặc ngưng lại, do không có hải lưu nóng sưởi ấm
nữa nên thời tiết về mùa Đông ở Bắc Âu, và một số nước Tây Âu như Anh,
Pháp, sẽ rất lạnh. Đặc biệt, nước ngọt tạo ra do sự tan chảy của các núi băng ở Bắc Băng Dương có
thể làm loãng nước của hải lưu Gulf Stream và làm cho nó nhẹ đi nên
không chìm xuống. Kết quả là một sự thay đổi lớn trong khí hậu của châu Âu, với những hậu quả chưa thể tính trước.
- bão
ngày càng nhiều và mạnh: nào là bão tàn phá vùng Nam nước Mỹ
(Louisiana), miền Đông nưóc Mỹ như New York. Gần đây ta thấy bão Hải Yến
tàn phá luôn cả một thành phố ở Philippines. Bão mạnh xâm thực bờ biển
khiến đất thổ cư, đất trồng trọt cư dân ven biển bị mất đi
- mực nước biển dâng ngày một cao nên nhiều chỗ thấp vùng châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long sẽ bị nước mặn xâm nhập.
- mực nước biển dâng ngày một cao nên nhiều chỗ thấp vùng châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long sẽ bị nước mặn xâm nhập.
2.2.6 Thuỷ triều. Nói đến biển là nghỉ ngay đến thuỷ triều, cũng thường gọi là con nước như trong câu:
Trông vời con nước mênh mông
Nước
biển có thể dâng lên hay hạ xuống do tác động giữa mặt trời, mặt trăng
với trái đất. Trong văn thơ Việt có nhiều đoạn nói về các chuyển động
lên xuống của thuỷ triều:
Bốn bề bát ngát mênh mông
Triều dâng hôm sớm, mây lồng trước sau
N ỗi buồn của nàng Kiều khi ở lầu Ngưng Bích: Buồn trông ngọn nước mới sa
Thời điểm mà dòng triều ngừng chuyển động: ta gọi là nước đứng. Ở miền châu thổ sông Cửu Long, thường có câu đố : nước không chân, sao gọi là nước đứng
Chế độ thủy triều có thể nhật triều ( một ngày chỉ có một lần thủy triều lên, một lần thủy triều xuống ) hoặc bán nhật triều (một ngày có hai lần thủy triều lên xuống)
Những vùng chịu ảnh hưởng của loại triều này thường nằm ở vĩ tuyến gần xích
đạo. .có nơi có chế độ nhật triều rất rõ rệt như Vịnh Bắc Bộ, Vịnh Thái
Lan. . Thủy triều biển Đông ở bờ biển Việt Nam khá phức tạp vì bị chi
phối bởi địa hình bờ biển và đáy biển gần bờ, dạng bờ biển, chiều sâu
đại dương ..
Dưới
tác dụng của dòng triều, nước biển xâm nhập vào sông, đi về hướng
thượng nguồn. Chiều dài xâm nhập phụ thuộc vào cường độ của dòng triều
và lượng nước trên thượng lưu đổ về .
Trên sông Hồng, khoảng cách truyền triều chừng 180km; trên sông Cửu Long, nước lên/nước xuống đến tận Nam Vang. Hình ảnh thuỷ triều có mặt trong các câu sau trong đó người con gái trách nhẹ kẻ chậm chân:
-Nước ròng chảy đến Nam Vang
L àm thơ để lại em khoan lấy chồng
-Tay bưng chậu cúc trăm bông
Chờ anh chẳng đặng em trồng xuống đây !
Nhà nhạc sĩ cũng dùng hình ảnh thuỷ triều như trong bài Tình Nhớ:
Tình ngỡ đã quên đi như lòng cố lạnh lùng
Người ngỡ đã xa xăm bỗng về quá thênh thang
Ôi áo xưa lồng lộng đã xô dạt trời chiều
Như từng con nước ròng xoá một ngày đìu hiu
Gặp lúc trăng rằm hay trăng ba mươi/mồng một (trăng non) nghĩa là khi Mặt Trời, Mặt Trăng và Trái Đất cùng thẳng hàng thì lực tạo thủy triều sẽ lớn; ta gọi là triều cường (vives-eaux; spring tide) hay là nước phát vì
là tổng của hai lực hấp dẫn Mặt Trời và Mặt Trăng thay vì chỉ có một
lực hấp dẫn của Trăng như thông thường. Triều lên/xuống rất mạnh
Vào lúc trăng thượng tuần (mồng 7 âm lịch) hay hạ tuần (23 âm lịch) nghĩa là khi mặt trời và Mặt trăng cách biệt nhau 90 độ nhìn từ trái đất thi sự khác biệt giữa nước lớn và nước ròng cũng nhỏ đi (mortes- eaux; neap tide) vì lực hút yếu. Ta gọi là nước sính
Độ
mặn nưóc sông dao động theo sự lên xuống của thủy triều. Ở nơi có chế
độ bán nhật triều thì có 2 đỉnh mặn (một vào buổi sáng, một buổi chiều)
và 2 chân mặn trong một ngàỵ.
Đỉnh
mặn (độ mặn lớn nhất trong một con triều) và chân mặn (độ mặn nhỏ nhất
trong một con triều) thường xuất hiện sau đỉnh triều (mực nước lớn nhất)
và chân triều. Ở nơi có chế độ nhật triều, đỉnh mặn thường xuất hiện
vào buổi sáng và chân mặn thường vào chiều .
Mực nước thủy triều có ảnh hưởng lớn đến đồng bằng, từ chuyên chở trên sông rạch đến nông nghiệp.
Vùng nước dao động do thủy triều lên xuống giữa mức nước lớn và nước ròng. Những bãi biển xoải cát, cửa sông hoặc những mỏm đá thấp thường được gom vào khu vực này.
Triều cường
làm các vùng thấp duyên hải bị ngập, làm hư hại các đê bao ngăn mặn,
gây ngập úng các đầm nuôi tôm, các vườn cây ăn trái, các nhà cửa ven
kinh rạch.
Khi triều cường vào cửa sông thì độ mặn lan truyền, khuyếch tán vào trong sâu nội địa, nhất là lúc cao điểm đỉnh triều cường vào
con nước rằm và ba mươi tháng Giêng âm lịch, thì sẽ gây thiệt hại cho
nhiều diện tích lúa đông xuân đang trong giai đoạn làm đòng, trổ bông .
Triều cường và sóng lớn làm phá vỡ bờ cây xanh chắn sóng dọc theo bờ
biển, lấn sâu vào đất liền
Nước
lên-nước xuống chi phối đời sống dân ven biển. Một chu kỳ biến động của
mực nước-từ lúc nước biển rút xuống đến lúc nước biển lên cao đến mức
tối đa- kéo dài 15 ngày và được gọi là một con nước. Như vậy, mỗi tháng có 2 con nước.
Trông về con nước vơi đầy
Nỗi sầu xa cách biết ngày nào vơi
Lênh đênh duyên phận bọt bèo
Đành cho con nước thuỷ triều đầy vui
Trăng lên con nước rong đầy
Anh đừng đến nữa, má rầy khổ em
Nhìn nước lớn, nước ròng, nhìn cuộc đời sớm còn, tối mất, người ta ca rằng:
Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi
Buôn bán không lời, chèo chống mỏi mê
Trước khi đổi con nước, dòng sông ngưng hẳn, gọi là nước đứng :
Nước không chưn sao kêu bằng nước đứng
Cá không giò sao gọi con cá leo ?
Khi nưóc mặn xâm nhập vào cửa sông thì đất bị nhiễm mặn và năng suất lúa bị giảm và không trồng lúa được vào mùa khô.
2.3. Xã hội .Ở Việt Nam, nhiều làng đánh cá ven biển thường tổ chức đầu năm âm lịch lễ Cầu Ngư,
mục đích cầu cho mưa thuận gió hoà trước khi thuyền đánh cá ra khơi .
Sau phần nghi lễ là phần hội với nhiều màn biểu diễn diễn tả gồm
nhiều hoạt động tái hiện sinh hoạt văn hóa của ngư dân vùng biển cùng
hội đua ghe truyền thống . Còn có lễ hội Nghinh Ông
trong đó, hoạt động chính là lễ rước Ông từ biển vào Lăng thờ với ý
nghĩa cầu ngư, cầu cho mưa thuận gió hòa để ngư dân an tâm ra khơi.
Ngoài việc cầu mong ra khơi thuận buồm xuôi gió, lễ hội Nghinh Ông còn
là dịp để người dân miền biển vui chơi, giao lưu văn hóa trước khi khởi
hành chuyến biển đầu năm mới.
Biển
cũng giúp sự truyền bá các tôn giáo: Phật giáo lan truyền qua nhiều xứ ở
Đông Nam Á như Thai Lan, Mien Điện qua đường biển với các sa môn từ Ấn
Độ.
Biển
tác động đến sự phân phối cư dân : Bắc Mỹ do dân Irlande qua đầu tiên;
miền Quebec do dân Pháp ; Nam Mỹ thì dân Tây Ban Nha và dân Portugal.
Dân Phi Châu bị bắt đi qua Mỹ Châu cũng đi trên thuyền xuyên qua Đại Tây
Dương, đến Haiti đầu tiên để trồng mía đường, từ đó nhiều điền chủ
Mỹ qua mua nô lệ về Mỹ trồng bông vải..
Thành
phố Alexandria ở Ai Cập ngày nay trên bờ Địa Trung Hải là do Alexandre
Đại Đế của Hi Lạp dựng nên 300 năm trưóc Công Nguyên và là một trung tâm
quan trọng của văn hoá Hi Lạp và La Mã gần 1000 năm .
Vai trò của biển trong các hoạt động thương mại, du lịch rất rõ rệt . Như tại Việt
Nam, thành phố Hội An đã có chùa Nhật từ hàng trăm năm trước, khi họ
tới giao thương buôn bán, còn để lại nhiều di tích văn hoá.
2.4 kinh tế . Tại
các nước đang phát triển, có khoảng một tỷ người đang coi cá và hải sản
là nguồn dinh dưỡng chính của họ và có tới hơn một nửa tỷ người coi
đánh cá là nghề kiếm sống của họ. Các hải sản dồi
dào ở đại dương tạo nguyên liệu cho kỷ nghệ hải sản : tôm đông lạnh,
nước mắm, mực khô, cá khô.. góp phần tạo được công ăn việc làm cho dân
cư sống dọc bờ biển và đóng góp vào xuất cảng.
Viet Nam, với bờ biển dài hơn 3.260 km, nhiều làng mạc phải nhờ biển mà sống:
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá ( Tế Hanh)
Xưa kia, các thuyền đánh cá chỉ dùng buồm để di chuyển:
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm giưong to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió (Tế Hanh)
Ngày
nay, các thuyền đánh cá dù gần bờ hay xa bờ đều chạy bằng máy dầu
diesel để đánh bắt hải sản. Tuy nhiên, phần lớn tàu của ngư dân Việt
chỉ trang bị động cơ nhỏ nên chỉ đánh bắt gần bờ.
2.5. du lịch . Du
lịch đóng vai trò quan trọng với các quốc gia sống gần biển . Cac hải
đảo vùng Caraibes chỉ sống nhờ du lịch, phần lớn du lịch từ Mỹ và
Canada. Các du thuyền chở hàng ngàn khách du lịch đi từ cảng này sang
cảng nọ, khắp nơi dọc bờ biển Địa Trung Hải, bờ biển Bắc Âu. Biển cũng
đóng vai trò du lịch với giải trí như bơi lội, trượt sóng, lặn, câu
cá
2.6. tâm linh. Về
biển, con người gần với thiên nhiên bao la, thấy mình chỉ là một sinh
vật nhỏ bé trong vũ trụ bao la; biển với trời cao mây rộng giúp ta khiêm
tốn.
Sự thinh lặng vô biên là một điều kiện giúp cho con người dễ đi sâu vào nội tâm, vào mầu nhiệm của Chân Như:
Nỗi buồn của nàng Kiều khi nhìn biển:
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gọt rửa bao giờ cho phai ?
hoặc :
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Nhờ
thinh lặng vô biên của biển, con người bớt căng thẳng trong cuộc sống
xô bồ ngày nay . Căng thẳng (stress) chính là yếu tố gây nhiều bệnh.
Thực vậy, ngày nay, con người sống xa rời thiên nhiên, thích đua đòi,
lái xe quá nhanh, đọc sách rất ít, xem truyền hình và internet quá nhi
ều, hết facebook rồi tweeter, hiếm khi ngồi trong thinh lặng. Con người
ngày nay như vậy là người lang thang số hoá (nomade numérique) .Nhiều
căn bệnh tâm thần phát sinh vì thiếu giao tiếp. Ta chinh phục được thế giới bên ngoài nhưng không biết gì về thế giới bên trong.
Khi
đi dạo ven biển, người nhàn tản đơn độc còn hít thở cả hương thơm đất
trời hài hòa cùng nhau, không thở bụi bặm và ô nhiễm của các ‘phố phường chật hẹp, người đông đúc’, tìm lại sự yên tỉnh của tâm hồn, vứt bỏ những ý nghĩ bất tịnh, tương tranh, thù hận, đố kỵ, ..tức là các ô nhiễm của tâm hồn. Từ thanh tịnh mà có thanh thản. Vì thanh thản cho nên không động tâm. Không động tâm cho nên an lành, ít gây đổ vỡ.
Sự thinh lặng nội tâm như mặt biển yên lặng, phẳng lờ, rộng rãi, bao la bát ngát như đoạn thơ sau của nhà thơ Tô Thùy Yên:
Lòng ta vô sự, ta vui vẻ,
Bướm với hoa cùng bay nhởn nhơ
Mùa hạ tàn trôi trôi đóm lửa
Dòng ngày tháng trắng chảy lơ mơ,
Quên quên, nhớ nhớ tiền sinh kiếp
Thiên cổ mang mang, thế sự nhoà
Trận lốc cười tròn trên quá vãng
Ta làm lại cả tâm hồn ta
Làm
lại cả tâm hồn ta, có nghĩa là mỗi ngày gắng nhặt một niềm vui trong
ánh mắt quen chào nhau, tách trà ấm, nụ cười bè bạn, nhiều niềm vui nho
nhỏ sẽ tạo niềm an lạc lón như những d òng sông con quy tụ ở biển khơi
.Lúc đó, ta được giải thoát khỏi những hệ lụy ưu phiền và phiền não và
khổ đau sẽ không đến. Thực vậy, cuộc đời vốn thế, xin cứ thanh thản như
mây, xin đừng quá vui cũng chẳng quá buồn, rắc rối làm chi, những điều
đơn giản.
Hạnh phúc đích thực có được từ sự biết hài lòng và hòa bình nội tại.
Sự hài lòng và hòa bình nội tại chỉ có thể đạt được thông qua sự phát triển tinh thần vị tha về tình thương, từ bi .Nói về biển, người Việt không thể quên hàng vạn thuyền nhân đi tìm tự do đã bị chôn vùi dưới lòng biển sâu khi vượt biên bằng thuyền với
Sự hài lòng và hòa bình nội tại chỉ có thể đạt được thông qua sự phát triển tinh thần vị tha về tình thương, từ bi .Nói về biển, người Việt không thể quên hàng vạn thuyền nhân đi tìm tự do đã bị chôn vùi dưới lòng biển sâu khi vượt biên bằng thuyền với
sóng vật vờ
sóng thành đỉnh Hy Mã
sóng thành vực A Tỳ
..
nhưng dưới sâu
sâu nữa
vạn hồn thuyền nhân
sớm đi tối về
vẫn oan khiên
ngập tràn biển Đông!
……………………….
dưới sâu vẫn vô vàn cánh tay
dằn dặc
dây xích oan khiên
về lòng đất
ai đây tiếp dẫn
chúng sinh hồn trầm lạc?
……………………..
(Biển Oan Khiên - Trần Hồng Châu)
3. Biển tiến, biển thoái.
Tưởng cũng cần biết là Trái Đất đã có nhiều kỷ băng hà và mỗi kỷ băng hà kéo dài cả 100 ngàn năm và giữa các kỷ băng hà có thời kỳ tan băng
. Trong kỷ băng hà thì vì nước biển nằm trong tảng băng nên thể tích
nước biển nhỏ lại, khiến mực nước biển rút xuống : ta có biển thoái hay
còn gọi là biển lùi (regression)
Ngược lại cũng có thời kỳ tan băng vì khí hậu nóng, làm mực nước biển dâng lên tràn ngập vào đất liền: ta gọi đó là biển tiến (transgression)
Trong
kỷ băng hà, nước đại dương bị đông lại thành những tảng băng rất dày .
Đã có thời kỳ miền Bắc Mỹ và Canada đều nằm dưới những tảng băng dày
trên 1500 mét . Lúc đó, mực nước biển sụt xuống đến 120 mét, do đó :
-miền châu thổ Cửu Long dính liền với nhiều hải đảo Indonesia .
-eo biển Bhering
giữa Nga và Mỹ vì biển thoái nên nhiều cư dân gốc Bắc Á đã đi bộ qua
eo biển này và từ từ di chuyển xuống Hoa Kỳ, Trung Mỹ và Nam Mỹ: đó là
thổ dân Canada, thường gọi là người Indian
Lúc
đó nhiều xứ Âu Châu như Anh quốc, Nga, Finlande, Đức cũng bị bao trùm
bởi băng giá . Còn những vùng lạnh không bị băng giá thì đất đai bị đông
đặc có chỗ sâu dày đến 300 mét và khi những cơn gió l ạnh thổi qua sẽ
kéo theo rất nhiều bụi, tích tụ thành hoàng thổ như ở miền Bắc Trung Quốc hay Tây Âu g ày nay.
Việt
Nam thì cũng bị ảnh hưởng của băng hà nên bờ biển cũng như mực nước
biển ngày nay kh ông giống như ngày xưa . Thực vậy, nhiều vùng như miền
châu thổ sông Cửu Long, châu thổ sông Hồng xưa kia còn nằm dưới biển vì
có thời kỳ biển tiến, nước biển bao phủ nhiều vùng và có thời kỳ biển thoái, biển thoái với nước biển rút ra, còn để lại ngày nay các thềm biển
vói các cao độ khác nhau . Nhiều ngọn núi giữa các đồng bằng duyên hải
miền Trung thì trước kia là những hải đảo ngoài biển, nay nằm trong đất
liền . Giãy núi Thất Sơn miền Châu Đốc trước kia cũng là ngọn núi ngoài
khơi, nay vì biển thoái nên hiện nay ở trong nội địa. Trên chân vách đá
nằm nhan nhãn trong đồng bằng miền Bắc, miền Trung, miền Hà Tiên .. còn
thấy những vết tích bào mòn của sóng biển cũng như vỏ sò ốc. Ngoài ra,
nếu khoan đất hay khi khai thác sét để sản xuất gạch ngói tại đồng bằng
duyên hải còn thấy những vết tích cây tràm, cây đước bị chôn vùi, chứng
tỏ trước kia, vùng này còn là biển.
Truyền
thuyết Sơn Tinh, Thuỷ Tinh ứng với hiện tượng địa chất. Khi biển tiến,
người Việt cổ phải lên núi, miền Trung Du để ở và khi biển thoái, trở
lại đồng bằng
4. Các vấn nạn của môi trường biển.
Trong khi nguồn
cá là một trong những tài sản thiên nhiên quan trọng nhất của con người
thì đáng tiếc là con người đang hủy hoại chính nguốn sống của mình vì
các lý do sau:
4.1. Ô nhiễm. Vùng ven biển thường là nơi tập trung các chất thải sinh hoạt dân cư theo sông đổ ra, như chai lọ, vỏ lon bia, rác thải của kỷ nghệ, y tế, giao thông v.v. nên gây ảnh hưởng đến phẩm (chất lượng) nước biển, làm
nước biển thiếu ô-xy, sinh sôi nhiều loài tảo độc và sinh vật có hại.
Biển là nơi tụ tập cuối cùng của các phế thải môi trường; nếu môi trường
các dòng sông bị ô nhiễm bởi các phế thải kỹ nghệ với các kim loại nặng
(đồng, chì, thủy ngân...) thì biển sẽ 'lãnh đủ'. Chất lượng môi trường
biển Việt Nam hiện nay tiếp tục suy giảm theo chiều hướng xấu với các
rác đô thị, các chất thải sinh hoạt từ các khách sạn, từ các khu gia cư
đổ thẳng ra biển, các vết dầu loang từ các tàu chở dầu hoặc từ hoạt
động thăm dò dầu khí gây ra v.v. khiến nhiều sinh vật sống trong nước
biển chết hàng loạt. Chỉ tính riêng tại Vịnh Hạ Long hiện có tới hàng
chục làng chài lớn nhỏ đang “tọa lạc” trên biển. Các làng chài thải toàn
bộ rác sinh hoạt xuống mặt biển chưa qua xử lý, rất khó thu gom, dẫn
tới một số xuồng lạch đã xảy ra hiện tượng tắc dòng chảy vì rác..Chất
lượng trầm tích đáy biển ven bờ, -nơi cư trú nhiều loài hải sản-, cũng
giảm dần do đó đa dạng sinh học động vật đáy ở ven biển cũng suy giảm .
4.2. Đánh bắt cá quá mức.
Việc đánh bắt cá bằng lưới quét mắt nhỏ, bằng chất nổ, thuốc độc... đã
tiêu diệt các loại cá nhỏ, khiến số lượng đàn cá không kịp phục hồi Do
đó, phải quy định về cỡ lưới sao cho những con cá con có thể thoát ra
được để phục hồi đàn cá; giới hạn tổng sản lượng đánh bắt; đóng cửa một
số ngư trường; cấp giấy phép đánh bắt cá; chia đều sản lượng đánh bắt
cho các ngư dân trong một khu vực đã được xác định.
4.3 Rừng ngập mặn giảm sút
Rừng
ngập mặn với các cây mắm, sú, vẹt, bần, đước,v.v. sống đan xen nhau,
chồng chéo lên nhau và nhờ giải rừng dày đặc này mà đất không bị sói
mòn, sạt lở bởi sóng, triều cường v.v.
Loại
rừng này có vai trò bảo vệ vùng cửa sông, cửa biển để chống xói lở, hạn
chế tác hại của gió bão; mở rộng đất liền. Rừng ngập mặn còn giúp cho
bầu không khí bớt ô nhiễm vì rừng này với những cây bần, đước, sú, vẹt
v.v. hấp thụ khí CO2 do hoạt động kỷ nghệ và sinh hoạt thải ra và sinh
ra một lượng ô-xy rất lớn. Rừng này còn cung cấp gỗ, than, chim và nhiều
hải sản như tôm, cua. Thế nhưng, hiện nay nhiều loại rừng này bị phá
huỷ để làm hồ nuôi tôm, cua, cá; làm đất nông nghiệp, đường sá, nhà cửa
và từ đó, đẩy mạnh sự xâm nhập nước mặn vào đất nội địa.
4.4 Phá hủy các rạn san hô. Cũng
như rừng ngập mặn, “rừng” san hô còn có tác dụng che chắn, giảm nhẹ
sóng mạnh đánh vào bờ nên bờ biển bớt xói lở.. Rạn san hô là 'rừng dưới
biển' với nhiều loài, đủ các dạng như dạng bàn, dạng phiến, dạng khối,
dạng dĩa với nhiều hình thù khác nhau như cái hình cây nấm, cái hình
những ngón tay, với nhiều sắc mầu kỳ ảo. Rạn
san hô cũng là nơi trú ẩn nhiều loài cá như cá thia, cá bàn chải, cá
hồng .. cũng như các loài động vật thân mềm (trai, ốc, mực ..), các loài
thuộc lớp chân bụng (ốc), thuộc lớp hai mảnh vỏ (hàu, sò, điệp..), hoặc
loài giáp xác (tôm, cua ..) Các rạn san hô đóng vai trò quan trọng đối
với môi trường biển nhưng hệ sinh thái này đang bị khai thác qúa mức
bằng lưu đạn, mìn, thuốc nổ, hoá chất độc để đánh bắt hải sản sống trong rạn san hô, để khai thác san hô cứng (cung cấp cho một số nhà máy sản xuất xi măng) hay san hô mềm, còn gọi là bông đá . Thuốc
nổ chẳng những hủy diệt tất cả những gì có trong rạn, trong lòng đại
dương, gây ô nhiễm môi trường, mà còn để lại hậu quả lâu dài đối với sự
phục hồi và phát triển (vốn rất chậm) của san hô.
San hô bị tàn phá thì:
-không còn chỗ cho các loài thuỷ sản sinh sống
-mất ghềnh đá san hô chắn sóng nên bờ biển dễ bị xói mòn
.
Ngoài
ra, trong các rạn san hô có hàng trăm loài sinh vật biển như: tảo,
rong, cua, cá, tôm hùm, hải sâm, đồi mồi, động vật thân mềm, chưa kể
nhiều cá cảnh. Rạn san hô có tiềm năng du lịch to lớn.
4.5 Đại dương đang nóng lên
.Sự biến đổi khí hậu với khí thải CO2 tăng lên do hoạt động của con
người đã làm đại dương nóng lên, gây ra những trận bão nhiệt đới tàn phá
gây thiệt hại tài sản và nhân mạng như trận bão Hải Yến phá hủy luôn cả
một thành phố ở Phi Luật Tân, trận bão Sandy đến tận New York năm 2013 . Khí
hậu nóng lên làm các khối tảng băng Bắc Cực tan ra nhanh, làm nước biển
dâng lên và những thành phố ven biển dễ bị nguy cơ nhất . Tạp chí
National Geographic chỉ rõ có 5 thành phố sau đây nhiều nguy cơ ngập
nhất vì gần biển: Calculta và Bombay (Ấn Độ), Dhaka (Bangladesh), Thượng
Hải (Trung Quốc) và Saigon (Viet Nam).
4.6 Xói lở bờ biển.
Sự khai thác bừa bãi càng ngày càng nhiều các tài nguyên như cát, sỏi,
vật liệu xây dựng trên các dòng sông để xây cất trong quá trình đô thị
hoá cũng như xây kè lấn ra bờ sông làm thay đổi dòng chảy hiện có, thay
đổi cấu trúc/kết cấu/ địa mạo dòng sông, gây nhiều vực sâu, đưa đến
tình trạng sạt lở bờ sông, như tình trạng các dòng sông như Thu Bồn, Trà
Khúc v.v. khiến nhiều gia đình sống mấp mé bên các triền sông phải di
dời hàng năm. Ở Việt Nam, nhiều tỉnh có bờ biển bị xâm thực, ít đi từng
ngày. Bãi cát trên bờ trước kia rộng 300-400m, nhưng ngày nay, sau một
thời gian bị xâm thực, bờ biển gần như bị xoá sổ trên bản đồ; nhiều nhà
trước đây xa mép nước biển hàng trăm mét thì nay nước biển đã mấp mé
chân tường. Nhiều cư dân sống gần biển luôn lo âu bờ biển cứ xói lở
không dám ngủ trong nhà nên phải di tản vào sâu để tránh sóng.
4.7. Nhiều cửa sông bị bồi lấp sau mùa lũ . Phá
rừng làm phù sa bùn cát lắng đọng và các hồ chứa nước bị bồi đầy nhanh
chóng, nên cửa biển rất cạn, tàu thuyền khó qua lại. ‘Mỗi
lần ra biển hay trở về, ngư dân phải chờ thủy triều lên mới dám cho tàu
qua lại. Khó khăn nhất là mỗi khi có sương mù dày đặc, mưa rào nặng hạt
hoặc đêm tối thì tai nạn mắc cạn rất dễ xảy ra. Theo thống kê của ngư
dân địa phương, mỗi năm có hơn 30 vụ tàu thuyền mắc cạn tại khu vực này.
Nhẹ thì trục vớt, cứu được phương tiện, còn nặng thì tàu bị sóng đánh
vỡ, vùi trong cát. Mỗi lần tàu bị mắc cạn, gây nguy hiểm đến tính mạng
và tài sản của ngư dân, còn trực tiếp ảnh hưởng tới kế hoạch chuyến
biển, doanh thu của tàu’ (trích báo trong nước)
5. Quản trị các vùng ven biển.
Từ
các vấn nạn của môi trường biển vừa đề cập, loài người cần phải quản
trị môi trường biển một cách bền vững, phối hợp về mọi mặt như du lịch,
chuyển vận, đánh cá, năng lượng v.v nhằm mục tiêu sử dụng hợp lý các
tài nguyên. Quản trị các vùng ven biển nhằm vào bảo vệ tài nguyên ven
bờ cho các thế hệ mai sau trong khi vẫn phải điều hoà quyền lợi kinh tế,
văn hoá và môi trường. Tóm tắt trong 4 P:
1.Prevent. Cần ngăn ngừa sự
thoái hoá và xói mòn các cửa sông, các bờ sông vùng ven biển. Ngăn ngừa
không làm ô nhiễm môi trường như đổ rác, phóng uế và cũng không khai
thác cạn kiệt nguồn tài nguyên của biển như không dùng mắt lưới qúa
nhỏ, bớt đánh cá gần bờ để giảm áp lực trên đàn cá sinh sản . Ngăn ngừa
sự phá rừng trên các đồi cát ven biển cũng như rừng ngập mặn
2. Preserve. Cần bảo tồn phẩm (chất lượng) và đa dạng sinh học của môi trường ven bờ như giới hạn các hoạt động của con người. Chọn vùng khai thác để bảo tồn
các sinh vật biển có giá trị đang là đối tượng khai thác như rùa biển
cũng như phối hợp đáp ứng các yêu cầu thuỷ lợi cho nông nghiệp, thủy lợi
cho thuỷ sản
3. Protect. Cần bảo vệ
thực vật và đời sống hoang dã các vùng ven biển. Không phá huỷ các rừng
ngập mặn ven bờ mà phải củng cố, trồng lại các chỗ bị tàn phá, nói cách
khác là phải bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên của tôm con, bảo vệ đàn tôm
bố mẹ trong mùa đẻ, bảo vệ đàn tôm con ở khu vực gần bờ. .
4. Promote . Thúc đẩy
việc thiết lập các khu bảo tồn sinh học biển nhằm tăng sự đa dạng
sinh học, các giải pháp quy hoạch bảo vệ những vùng ngập lũ, phát triển
rừng, rừng ngập mặn cản sóng, thúc đẩy tăng trưởng xanh như điện gió, du
lịch tâm linh (Phật bà Nam Hải), trồng các dải cây xanh dọc theo bờ
biển để cản gió bão, dành đất dự trữ để phát triển đê, điều, xây dựng hệ
thống thoát nước, trạm bơm chống úng ngập..
Cả bốn chữ P nói trên nhằm tăng cường sức chống chịu vùng ven biển
nhằm góp phần giảm bớt áp lực đối với môi trường do tốc độ phát triển
nhanh của nền kinh tế, đồng thời vẫn đáp ứng được bảo đảm cuộc sống của
người dân ven biển .
6. Kết luận. Đại
dương, biển cả ngày nay là biên giới cuối cùng của loài người trên hành
tinh này .Trong khi dân số trên thế giới vẫn tăng đều và diện tích đất
đai trồng trọt được càng ngày càng ít đi thì chính đại dương là nguồn
sống của nhân loại . Thực vậy, đại dưong là khí hậu, đại dương là
kho tài nguyên gần bờ, xa bờ, là kho tàng đáy biển, là nơi chứa tiềm
năng du lịch sinh thái và du lịch nghĩ ngơi, và đại dương cũng là
nghĩa trang vì cuối cùng, mọi chu kỳ cuộc sống đều tận cùng ở chỗ thấp
nhất, bao la nhất là biển . Chính vì vậy mà Liên Hiệp Quốc đã chọn năm
2013 là ‘Năm Đại Dương’ với chủ đề : ‘Chúng ta chỉ có chung một đại dương, một bầu khí quyển, một tương lai’
chính là dịp để mọi người khẳng định quyết tâm hưởng ứng các hoạt động
bảo vệ môi trường, bảo vệ biển đảo, ứng phó với biến đổi khí hậu, vì sự
phát triển bền vững của hành tinh chúng ta. Môi trường bị đe doạ từ
nhiều nguyên nhân, và nguyên nhân của mọi nguyên nhân là từ con người. Thực vậy, tài nguyên trái đất này là hửu hạn và con người phải thích nghi với môi trường sống càng ngày càng suy thoái .
Chợt nhớ vài vần thơ trong bài Biển Cả của Phùng Cung :
Hởi biển cả
Diện tuy rộng
Nhưng thiếu những giác quan cần thiết
Lòng tuy xanh - sâu
Xanh sâu đầy mặn chát....
Nộ cuồng sóng vỗ
Trống trải bơ vơ
Chiều quả phụ
Bình minh vô vọng phương mờ...
Ôi! Bao yên lặng thanh cao
Ðều chìm
Trong thét gào man rợ...
Vậy dẫu có vô cùng lớn lao gì đó
Ta chỉ yêu cầu phải hài hoà với vô cùng bé nhỏ mà thôi.
Hài
hoà trong vũ trụ có nghĩa kết hợp giữa bảo tồn biển và phát triển kinh
tế biển, thông qua tổng thể các giải pháp hợp lý nhằm phát triển bền
vững, vừa đạt được mục tiêu bảo tồn cho các thế hệ kế tiếp, vừa đạt được
mục tiêu nhu cầu cho các thế hệ hôm nay.
Thái Công Tụng