Lâm Lễ Trinh
HÃY TRẢ SỰ THẬT LẠI
CHO LỊCH SỬ
(Đây là một tài liệu giá trị nhận định về một khiá cạnh của biến cố lịch sử đưa đến sự cáo chung của chế độ VNCH. Tài liệu này đã được tiến sĩ Lâm Lễ Trinh trình bầy trong một chương trình phát thanh năm ngoái, tuy nhiên vẫn còn có giá trị lâu dài. Vì thế tiến sĩ Lâm Lễ Trinh đã có nhã ý dành cho VNN loan tải lại, và xin qúy độc giả vui lòng cập nhật một vài con số trong bài cho phù hợp với thời gian tính của năm nay, 2001. Trân trọng cảm tạ tiến sĩ Lâm Lễ Trinh và qúy độc giả. VNN)
Nhà cầm quyền Bắc Việt
dựng ra Mặt trận Giải phóng Miền Nam ngày 20.12.1960, lối
sáu tuần lễ sau khi John F. Kennedy đắc cử Tổng thống.
Qua năm sau, các lực lượng đặc biệt Hoa kỳ tham chiến.
Và sau đó, cuối thập niên 60, dưới thời Lyndon B.
Johnson, chiến tranh leo thang với vụ oanh tạc Miền Bắc
và Hà nội. Tiếp theo là kế hoạch Richard Nixon “Việt
nam hóa” chiến tranh, Hiệp ước Paris và bi kịch Miền
Nam sụp đổ ngày 30.4.1975.
Chiến tranh Việt Nam là
đề tài được Hollywood khai thác lâu nhứt trong lịch sử
truyền hình Hoa kỳ. Tạp chí Journal of Broadcasting có đăng
một bài khá tường tận của nhà xã hội học George
Baylay nghiên cứu về phương thức của ba hệ thống ti-
vi Mỹ ABC, CBS và NBC trình bày cuộc chiến này từ 1965
cho đến 1970. Theo ông, gần phân nửa tài liệu chiến
tranh liên hệ đến hoạt động của bộ binh và không lực
trên chiến trường; lối 12% gồm có các bản văn tuyên
bố của chính quyền Hoa Thịnh Đốn và Sài gòn; và sau
hết, 3% dành cho tin tức lấy từ đối phương Bắc Việt.
Ảnh hưởng của chiến tranh đối với quần chúng Mỹ và
những vụ đi bộ cổ võ cho hòa bình, dân chúng xuống
đường, sinh viên biểu tình. v.v... của phong trào phản
chiến tại Hoa kỳ được trình bày giới hạn, với tài
liệu phát xuất phần lớn từ Ngũ Giác Đài. Chỉ trong
năm 1971, chi phí dể hình thành kho “sử liệu” loại
này lên đến gần 200 triệu mỹ kim.
Từ đầu tháng tư đến
nay, cũng như mọi năm, trong khi công luận Hoa kỳ cố quên
đi giặc giã, một loạt phim tài liệu xuất hiện trên
truyền hình Mỹ dưới tên “Viet Nam, A Televised History”,
đề cao chiến thắng của Cộng sản Hà nội và nhai đi
nhai lại các tội ác chiến tranh của Hoa kỳ và Quân đội
VNCH, căn cứ vào những lời tường thuật sặc mùi xã
hội chủ nghĩa của một số nhân chứng và cán bộ gốc
Miền Bắc. Đòn tuyên truyền cũ rích này không làm cho
chính quyền Hoa Thịnh Đốn thay đổi cảm nghĩ đối với
chiến tranh Việt Nam.
Một phần tư thế kỷ đã
trôi qua. Hoa Thịnh Đốn vẫn bị ám ảnh bởi “Hội
chứng Việt Nam” và Hà nội tiếp tục sống phập phồng
trong ác mộng “diễn biến hòa bình”. Hai căn bịnh trầm
kha này - nói gì thì nói - không giúp họ hoàn toàn gột
bỏ các thành kiến đối với đối phương cũ và cả hai
cố gắng giải thích cuộc tranh chấp xưa theo nhãn quan
riêng: Cộng sản cho rằng họ đã thắng lớn năm 1975 nhờ
Mác, Lê và Hồ. Phía Hoa kỳ thì lại xem cuộc chiến tại
Đông Dương chỉ là giai đoạn chuẩn bị sự sụp đổ
toàn diện của xã hội chủ nghĩa mà xứ Cờ Hoa chủ
trương từ đầu. Để đánh dấu 26 năm thống nhứt đất
nước, tướng về hưu Võ Nguyên Giáp, nay trên 88 tuổi,
kêu gọi thảm thiết Hoa Kỳ giúp Việt Nam xây dựng lại.
Như thế, trong hậu trường cuộc chiến Việt Nam, còn
nhiều bí mật chưa được tiết lộ. Nhà cầm quyền Mỹ
và Việt sẽ không được bình ổn tâm thần và hơn thế,
khó thể tìm ra giải pháp thích hợp và bền vững cho đến
khi cả hai có đủ can đảm nhận và nói ra sự thật đã
và đang phân cách họ.
Đến nay tại Hoa kỳ, đã
có một số người liên hệ mật thiết đến chiến tranh
Việt Nam và thức giả lương thiện mổ xẻ thẳng thắn
vấn đề. Thí dụ, nhiều cộng tác viên với chính quyền
Mỹ trước 1975 không ngại dùng những danh từ như “lừng
khừng, nóng nảy, vô năng” để phê bình chính sách của
Kennedy và Johnson. Paul Kattenburg, cựu Chủ tịch Khối
Nghiên cứu về Việt Nam, VN Task Force, kể lại: Trong phiên
nhóm Hội đồng An ninh Quốc gia ngày 31.8.1963, do TT Kennedy
chủ tọa, ông đã đề nghị, nhưng vô hiệu quả, Hoa kỳ
rút khỏi VN “trong danh dự”. Bị mất chức tháng giêng
1964, Kattenburg nhận định chua chát như sau về Bộ Tham
mưu chiến tranh của Kennedy: “Không
có một người nào trong nhóm nắm vững những vấn đề
thảo luận. Họ không biết gì về Việt Nam. Họ không
thấu triệt quá khứ. Họ quên hết lịch sử. Họ không
hiểu sự phân biệt giữa chủ thuyết quốc gia và chủ
nghĩa Cộng sản. Tôi tự nhủ: “Trời ơi, chúng ta đang
đi vào nguy nan to lớn!”.
Trong hồi ký muộn màng “In Retrospect'', cựu Bộ trưởng
Quốc phòng Robert Mc Namara thú nhận rằng các “đỉnh cao
trí tuệ” của nước Cờ Hoa - trong số này tác giả
được dư luận xếp vào hàng đầu! - đều mù tịt về
Việt Nam được xem như một “vùng đất lạ, terra
incognita” và họ
“không nhận diện nổi để phân biệt chủ thuyết quốc
gia và chủ thuyết cọng sản.”(!).
Trong phiên họp ngày 31.8.1963, tại Bộ Ngoại giao, Hoa
Thịnh Đốn, khi biết tin âm mưu lật đổ TT Diệm thất
bại tuần lễ trước, Phó Tổng thống Lyndon Johnson bộc
trực tuyên bố: “Chúng
ta nên chấm dứt cái trò vừa la làng, vừa ăn cướp!”
Ngay từ đầu cuộc chiến,
chính phủ HK và Việt Nam Cộng hòa đều quan niệm sai lầm
liên hệ đồng minh giữa hai nước. Từ đó sinh ra những
bất đồng dẫn đến bất hòa và sự bức tử oan uổng
của Miền Nam. Thật vậy, quyền lợi của Mỹ và Việt
Nam không tương quan: Miền Nam chủ trương chống Bắc Việt
để tồn tại như một quốc gia dân chủ và độc lập,
trong khi HK muốn dùng VNCH như con cờ thí để thực hiện
quân bình chiến lược tại Á châu bằng cách ngăn Bắc
Kinh bành trướng thế lực và đồng thời, chia rẽ Nga sô
và Trung cộng. Hoa Thịnh Đốn bỏ rơi VNCH không luyến
tiếc sau khi Nixon hội kiến với Mao năm 1972. Hoa kỳ không
bao giờ chủ trương cho phép (hay giúp) Miền Nam tấn công
Bắc Việt để tránh làm phật lòng Bắc kinh và Mạc tư
khoa. Hoa kỳ cũng không phản ứng khi Hà nội vi phạm
trắng trợn Hiệp ước Bá lê sau 1973. Hoa kỳ còn ép
chính phủ Nguyễn Văn Thiệu ký văn kiện này để có lý
do rút quân dưới chiêu bài “Việt nam hóa chiến tranh”.
Vả chăng, Hoa kỳ không coi sự thất trận của Pháp tại
Điên Biện Phủ như một tai biến đối với Thế giới
tự do, căn cứ vào những tài liệu ngoại giao của nguyên
Đại sứ Pháp tại Sài gòn Jacques de Folin.
Vì quyền lợi tương
phản, Mỹ đã giành hết trách nhiệm trong cuộc chiến để
dễ bề thao túng. Quyền lợi và trách nhiệm trở nên quá
chênh lệch nên sự tương cẩn và tương kính không còn
nữa. Hai đồng minh như “đôi đũa lệch”. Cảnh đồng
sàn dị mộng chấm dứt thê thảm.
Nạn nhân trực tiếp
trong thảm kịch trên đây là gần ba triệu người Việt
di cư hiện tản lạc khắp nơi trên thế giới. Đồng
thời, họ cũng là chứng nhân lịch sử mang trên thân xác
và trong tâm tư mối hờn vong quốc. Khối diaspora này - dù
thành công đến đâu ở hải ngoại - vẫn hướng về Đất
Mẹ. Thành phần lớn tuổi - sắp giã từ cuộc đời - có
trách nhiệm nói lên kịp thời, và nói lớn, cho thế giới
biết những sự thật không tô điểm, không phấn son, về
cuộc chiến gian khổ của Nhân dân và Quân đội Việt
nam Cộng hòa vì chính nghĩa. Đúng thế, một số rất
đông trong lớp người này từng nắm giữ vai trò then
chốt trong các chế độ đã qua. Họ cần nói sự thật,
không phải để tự đề cao mà để vinh danh những anh
hùng đã hy sinh và tuẫn tiết trong bóng tối, chống Cộng
sản, Độc tài và Thực dân.
Cuộc chiến gian khổ tại
VN đã dạy chúng ta biết bao kinh nghiệm bổ ích. Về bạn
và thù. Về Điểm và Diện trong chiến lược đấu tranh.
Về nhân tình thế thái và vô số vần đề khác.
Chúng ta sẽ ghi mãi trong
tâm khảm một điều chán chường là “không một xứ
nào sẵn sàng sống chết vì mục tiêu chiến đấu để
tồn tại của một nước khác. Không ai thương tổ quốc
của chúng ta hơn chúng ta. Dân chủ và nhân quyền là
thành quả của một sự tự lực tranh thủ kiên trì, quả
cảm và có kế hoạch của một dân tộc bất khuất”.
Một điều không thể quên khác là “Sự liên minh với
bất luận một đại cường nào, dù mạnh đến đâu, rồi
cũng sẽ đưa đất nước vào ngõ cụt nếu không có dân
tộc hậu thuẩn. Cái thế dân tộc vô địch và vô song.
Không tin, không tạo và không xử dụng triệt để “thế
dân tộc” thì thất bại đương nhiên, thất bại thê
thảm.
Bởi thế, để dựng lại
nước, cần lắng nghe rất nhiều nhân chứng trung thực.
Điều này hệ trọng hơn là đốt đuốc đi tìm lãnh tụ
giữa ban ngày. Thật vậy, lãnh đạo là gì nếu không
phải là tìm cách thấu triệt ý muốn của đại chúng và
phục vụ hết lòng nhu cầu chính đáng của dân?
Nếu không nhằm mục tiêu
đào sâu thêm hố hận thù thì sự thật có phép lạ
nhiệm mầu: Sự thật giải thoát, Sự thật hàn gắn và
Sự thật hòa giải. Và nếu biết sám hối và tránh tái
phạm lỗi lầm thì Dĩ vãng là một trường đời dạy
nhiều bài học vô giá. Theo lời của học giả George
Santayana, “Kẻ
nào không thể nhớ dĩ vãng, bị phạt dựng lại quá
khứ.” Kinh
nghiệm, vả chăng, từng chứng minh: Chính trị hủy diệt
nhiều hơn đơm hoa. Các thời đại chứng nhân trong lịch
sử nhân loại thường tạo nên những nhà lãnh tụ xuất
chúng vì họ được trui rèn trong thử thách. Trước khi
chỉ huy, họ đã là nạn nhân và nhân chứng.
Năm 1975, CSVN đã thắng.
Bằng võ lực, bằng đàn áp. Năm 2001, CSVN đang thua - và
thua đậm - một trận chiến mới: trận chiến thu phục
nhân tâm và giải quyết nạn nghèo đói, kém phát triển
của dân tộc. CS xa dân, phản dân và mất dân. CS thất
bại. Người công bộc xã hội chủ nghĩa thoái hóa đã
biến dạng thành chủ nhân ông chễm chệ. CS có thể gạt
một số người nhẹ dạ trong một thới gian nhưng không
thể gạt mãi mãi tất cả mọi người.
Vì thế, phải nói sự
thật. Để giúp ý và mở mắt các lãnh tụ sắp đến
của một nước Việt tiến bộ và dân chủ. Nói sự thật
để hướng dẫn lớp trẻ Việt Nam, chất xám quý hóa và
hy vọng cuối cùng trong kế hoạch phục hồi xứ sở. Để
tránh những lỗi lầm và vấp ngã của các thế hệ
trước. Để xóa cái nhục chậm tiến mà Hồ Chí Minh và
bè đảng trong Chính trị bộ Hà nội đang phủ lên giang
sơn gấm vóc Việt Nam từ trên nửa thế kỷ nay. Chúng ta
không còn một chọn lựa nào khác.