Nguyễn Quang
Còn làm người, còn sợ, nhất là đối với nạn nhân
chiến tranh, chiến tranh mang đến mọi thứ gọi là văn
minh, nhưng nó cũng lấy đi mọi thứ kể cả văn hóa. Tại
Việt Nam, hòa bình lại đáng sợ hơn khi bản chất con
người biết mang ơn và thích trả thù nghiệt ngã. Họa
sĩ Phạm Cung có một bức họa sau bảy lăm, họ trả thù
bằng cách nướng chim của một sĩ quan thuộc phe miền
Nam và tại thôn An Mỹ, miền Trung Việt Nam đã xảy ra
chuyện một xã trưởng bị nhốt trong chiếc lồng sắt,
đám đông vây chung quanh gồm toàn du kích nhảy múa, họ
dùng giáo mác đâm từng nhát hả hê vào nạn nhân, máu
phun tung tóe và hát bài ca cách mạng, tung hô lãnh tụ.
Nhưng càng giết người các bạo chúa càng trở nên sợ
hãi, ám
ảnh sợ người, đây có thể nói
là tâm trạng chung của các lãnh tụ độc tài, và càng
sợ người họ càng giết người để được an tâm trong
sự cai trị độc đoán nhằm thoả mãn các tham vọng của
họ hơn là thực hiện các khát vọng của công dân. Chính
từ sự giết người như một kế sách để tồn tại
trong các chiếc ghế quyền lực, nên trong chiến tranh các
công dân vô tội trở thành nạn nhân của những bóng đêm
kinh hoàng luôn phủ trên người họ.
Thanatophobia - Càng đạt được quyền
lực con người càng thêm ưu tư lo lắng bảo vệ ngôi vị
của mình trong ám ảnh sợ mất tất cả, thứ ám ảnh sợ
chết do mất uy quyền. Mọi thứ sao dễ tan vỡ vì không
thể có sự đồng lòng của hàng vạn người đối với
một người, quý hồ cả triệu người sẽ như một, nhất
là trong miếng đỉnh chung không thể thoả lòng hết bá
tánh. Không ai xác quyết sau cái chết con người sẽ về
đâu, vì thật sự nếu ai đó có hiểu được phần nào,
chắc chắn không người nào chạy theo quyền lực trần
thế vì cùng lắm cũng chỉ được như Tần Thuỷ Hoàng.
Bạo chúa này cũng chỉ mang theo cung tần mỹ nữ và đám
âm binh toàn là bằng tượng đất. Tất cả trong sự thể
hiện tính thể về mặt nhà nước, đều có dịp cho
người hậu thế chứng kiến các thứ nhà nước, rồi ra
chỉ là hư ảo với quyền lực thế gian.
Còn
đối với người dân là nạn nhân chiến tranh, những ai
phải ở lại nơi chôn nhau cắt rốn, thường là những
người đã lớn tuổi hay còn trẻ nhưng mang đầy thương
tích chiến tranh, họ luôn nghĩ đến đoạn đường như
quá thoáng nhanh đã trải qua, rồi những ngày sắp đến
với tuổi già mà niềm tin và hy vọng dường như đã tan
biến.
Nên
quả thật họ không biết sẽ có ngày gia đình sum họp
hay không, hoặc lại về với ông bà trước rồi lần
lượt những người khác sẽ cùng về sau. Hằng ngày
tiếng bom cùng đại pháo, súng lớn súng nhỏ… hậu quả
của những âm thanh chiến tranh cũng đủ biến các công
dân thành điên loạn. Cái chết trở thành Đấng cứu
chuộc trong nhiều trường hợp nếu chẳng may rơi vào
tình cảnh dở sống dở chết, hai tay hai chân không còn
hay chột cả hai con mắt mà tứ chi cũng không còn. Khoa
học đã làm những điều không thiện trong trường hợp
này.
Nhiều chứng nan y như đường
ruột, tim mạch, suyễn, phổi… mọi thứ đều có trong
chiến tranh. Có những đoàn quân miền Bắc trên đường
tiến vào Nam trúng phải bom mìn, họ đã chết không người
thu dọn, hậu quả không biết bao mầm bệnh cùng nạn
dịch cho các cư dân quanh vùng, nhất là đồng bào dân
tộc còn sống du cư, du canh trong thưở ban đầu khi cuộc
chiến khởi phát.
Qua
những sự phòng thủ, vũ khí cùng đội quân bảo vệ cho
các lãnh tụ các quốc gia, đủ biết rằng họ luôn mang
theo mình nỗi ám ảnh lo sợ thực hiện. Nghĩa là nỗi ám
ảnh về cái chết, bị đảo chánh, ám sát, dùng bom tự
sát… Những thứ đó biến thành sự thực như lo sợ mất
ngủ và mất ngủ thật. Sinh hoạt của Hitler, Staline…
thường đều có giấc ngủ muộn vào sáng hôm sau, vào
ban đêm có khi phải họp nội các nên các bộ trưởng
thời Staline hầu như thường thức suốt đêm vì không
biết lúc nào tên bạo chúa này gọi dậy để báo cáo.
Còn Hitler vào một buổi sáng khi thức dậy nhìn sang đại
sảnh đường nơi mọi người đang tập trung để nghe ông
diễn thuyết, Hitler đã dùng ống nhòm và thấy rõ một
Hitler như thật, tất nhiên là giả đang thao thao bất
tuyệt, múa tay múa chân và khán giả vỗ tay liên hồi…
Quả là ‘thiên tài hay làm việc về đêm’ như lời
người đời hay dí dỏm. Họ thức suốt đêm vì những
lo toan, ám ảnh nhiều nhất vẫn là cái chết cùng sự
sụp đổ của chế độ.
Người
dân - nạn nhân chiến tranh thì mất ngủ là chuyện thường
tình, họ mất ngủ thật... lý do bom rơi đạn vãi luôn
rình rập họ. Thần chết không từ sự sợ hãi vì mất
quyền lợi nhưng do hậu quả sự hủy diệt người của
tầng lớp thống trị. Họ nghĩ vẫn vơ về mọi thứ,
những ý tưởng cứ đến liên tục và cứ thế cho đến
gần sáng mới chợp mắt được. Trong bóng đêm như có
kẻ khủng bố luôn rình rập bên ngoài cửa, dù chỉ có
thể vào một đêm bất hạnh nào đó như đã từng xảy
ra với nhiều gia đình trong làng, cũng có thể sẽ đến
phiên họ. Nỗi ám ảnh sợ mất ngủ và cố gắng ngủ,
nhưng đêm nào cũng đến gần sáng mới chợp mắt được.
Nó giống như một sự chờ đợi cái kinh hoàng, một thất
bại lớn nhất trong cuộc đời mỗi người, biết chắc
là như thế nhưng không tránh được. Cái gọi là không
tránh được – nó khả dĩ hoàn toàn tránh được nếu
đồng loại không vì tỵ hiềm, lòng tham và thích giết
hại người. Trong bao dung thể tưởng chừng dễ vứt bỏ
nhưng cho đến khi nhân loại vẫn còn hai chữ thiện ác
thì nó vẫn còn trong sự phản diện của hai mặt đối
lập một cách tương sinh,
đầy
biện chứng.
Nạn
nhân chiến tranh rơi vào tình huống nầy, đó là hay nghi
ngờ các sự việc đã làm không biết có quên thực hiện
hay không, như phân vân không biết đã làm dấu thánh
trước khi rời khỏi Nhà nguyện hay đã vái Phật hay chưa
trước khi rời khỏi Chùa, họ lẩm nhẩm các phép tính
đã làm, thư đã dán phong bì rồi bốc ra dán lại nhiều
lần vì nghi ngờ không biết có gửi đúng hay không. Sự
kiểm tra nhiều lần cũng không làm người bệnh yên tâm
và buộc họ phải tiến hành kiểm tra một cách liên tục
trong sự ám ảnh nghi ngờ.
Khoảnh
khắc tưởng có hòa bình, văn hóa phát triển ở miền
Bắc, nhưng rồi vụ nhân văn giai phẩm 1961, đảng Lao
Ðộng Việt Nam thay đổi thái độ đột ngột vào đầu
tháng 11 khi các báo của đảng bắt đầu chỉ trích Nhân
Văn và
Giai
Phẩm
bằng những luận điệu cực kỳ gay gắt và chụp mũ.
Ðồng thời chính quyền bắt đầu làm những áp lực
hành chánh đối với Nhân
Văn
trong việc ra báo. Cuối cùng tờ báo bị đóng cửa vào
cuối năm 1961.
Sự thay đổi thái độ này trong ám ảnh
nghi ngờ sợ mất quyền lực của đảng có vẻ là vì
hai nguyên nhân. Thứ nhất Nhân
Văn bắt đầu mở rộng những
chỉ trích của mình ra ngoài lãnh vực văn nghệ sang lãnh
vực chính trị và càng ngày càng tạo ra ảnh hưởng đối
với quần chúng. Thứ hai, cuộc nổi dậy của dân chúng
Hungary chống lại chế độ Cộng Sản đã làm cho đảng
Lao Ðộng lo sợ và quyết định phải có hành động
quyết liệt để ngăn chặn một chuyện như vậy xảy ra
tại Việt Nam.
Nhân Văn
Giai Phẩm đều
bắt đầu hướng những chỉ trích của mình không chỉ
trong lãnh vực văn nghệ mà sang cả chính trị, trong đó
Trần Ðức Thảo viết rằng
“chính bệnh quan liêu, bè phái, sùng bái cá nhân là
những di tích của chế độ cũ trong tổ chức mới. Ðấu
tranh chống những bệnh ấy là nhiệm vụ của nhân dân
và đường lối của Ðảng, một trọng tâm công tác để
đẩy mạnh công cuộc kiến thiết kinh tế và văn hóa,
nhanh chóng tiến lên chủ nghĩa xã hội” và đòi hỏi
rằng “nhiệm vụ của vô sản chuyên chính là phát triển
tự do cá nhân”.
Aichmophobia – ám ảnh sợ
vật nhọn đâm vào chính mình, có lẽ điều ám ảnh nầy
dành cho phía cán bộ đảng viên nhiều hơn cả đến nổi
họ nghiêm cấm các công nhân không được giữ bất cứ
loại vũ khí nào, và công việc kiểm tra hầu như xảy ra
thường xuyên tại tại các địa phương. Hậu quả của
những vụ trấn áp với lý do không được dùng các loại
gươm giáo nầy đã dẫn đến không biết bao nạn nhân bị
vào tù do các cá nhân lợi dụng để trả thù, ngay cả
việc chôn giấu vũ khí vào nhà vườn người khác để
vu oan, mọi công dân đều có thể trở thành nạn nhân
chiến tranh do sự chụp mũ của thành phần thống trị
mới. Quả là trong nỗi ám ảnh nầy vì tập đoàn lãnh
đạo phải lo cho chính bản thân của họ, các bạo chúa
bao giờ cũng sợ nhất là những cuộc bạo loạn mà đối
tượng đầu tiên bị nhắm đến trước tiên chính là
giai cấp thống trị.
Nhà báo Nguyễn Hữu Ðang chỉ trích tính cách “gia đình”
của đảng và nêu gương Liên Sô như sau:
“Tại sao sau ba mươi năm kiến thiết chủ nghĩa xã hội
với hai lần đặt hiến pháp và nhiều lần chỉnh lý
pháp luật cũng như sửa đổi hệ thống và lề lối xét
xử của tòa án, bây giờ sắp bước vào giai đoạn kiến
thiết chủ nghĩa cộng sản, Liên Xô còn phải đặt vấn
đề pháp trị một cách nóng hổi như vậy? Chính là vì
trong bao lâu Stalin đã lạm dụng quyền hành, dung túng bè
lũ phản cách mạng Beria, lấy uy thế chính trị mà lũng
loạn bộ máy nhà nước, vi phạm nghiêm trọng chế độ
pháp trị. Coi thường pháp luật trở thành một tác phong
của nhiều cán bộ, của nhiều cấp ủy Ðảng hay cơ
quan chính quyền. Biết bao nhiêu công dân lương thiện và
đảng viên tốt - kể cả Trung ương ủy viên của Ðảng
- đã bị tù đầy, bắn giết oan trong tình trạng đó?
Cho nên Ðại hội đã phải quan tâm đặc biệt đến việc
bảo vệ chế độ pháp trị, nó là hiện thân của tinh
thần nhân văn, tinh thần dân chủ, tinh thần kỷ luật
trong một nhà nước văn minh”.
Panphobia
- ám
ảnh sợ tất cả,
đây
là tâm trạng chung của các nạn nhân chiến tranh nhưng
cũng là thứ ám ảnh như thứ bóng đen luôn đè nặng
trên các lãnh tụ độc tài, chỉ có rất ít và có lẽ
cũng chỉ với một vài quân vương nào đó theo dòng lịch
sử là biết sợ chính mình, không có kẻ nào lên hàng
lãnh tụ mà không ‘ưu thắng liệt bại’, nghĩa là
không có sự triệt hạ con người, thậm chí giết cả
triệu triệu người trong chiến tranh. Tất cả đều mang
nỗi ám ảnh sợ đủ thứ... nghĩ đến sự thất bại
cuối cùng đến cái chết vẫn còn ám ảnh sợ vì không
thể trở thành lãnh tụ mà không giết người.
Theo nhân văn giai phẩm, vì lòng khinh bỉ của chúng ta đối
với pháp lý tư sản lớn quá đến nỗi ở một số đông
người nó đã trở thành lòng khinh bỉ pháp lý nói chung.
Vì trong cuộc kháng chiến kéo dài và gian khổ, chúng ta
đã quen giải quyết mọi công việc to nhỏ trong không khí
gia đình, với tinh thần tùy tiện. Chúng ta đã quen dùng
cái “linh động” để gỡ cho công việc trôi chảy được
mỗi khi vấp phải điều quy định chính xác. Chúng ta đã
quen dùng cái “lập trường” để thay cho luật lệ cụ
thể.”
Anthrophobia
- ám
ảnh sợ người,
đây có thể nói là tâm trạng chung của các lãnh tụ độc
tài, và càng sợ người họ càng giết người để được
an tâm trong sự cai trị độc ác nhằm thoả mãn các tham
vọng của họ hơn là thực hiện các khát vọng của công
dân. Chính từ sự giết người như một kế sách để
tồn tại trong các chiếc ghế quyền lực, nên trong chiến
tranh các công dân vô tội trở thành nạn nhân của những
bóng đêm kinh hoàng luôn phủ trên người họ.
Các
nạn nhân không chỉ sợ vũ khí mà thấy bóng dáng con
người trong những bộ quân phục nhất là thứ màu đen
của du kích là hồn vía của họ đều lên mây. Mùi thuốc
súng, mùi của lửa, mùi tanh của thịt sống từ sự nát
thây do bom mìn văng tung toé thành từng miếng thịt nho
nhỏ, có thể treo lủng lẳng trên các mái nhà, trước
sân trên giàn bí, giàn bầu… Nó khiến con người khi
trực kiến các thảm cảnh, tính khí từ đó sẽ khó còn
bình thường. Ngoài ra với những người sống sót sau
những vụ thanh trừng, ám sát với ngay chính người thân
mà họ chứng khiến: Ôi những người ra lệnh phần lớn
là những ông nội nằm vùng hoặc lẩn trốn điều khiển
từ xa, còn những kẻ thừa hành toàn là những trai trẻ
du kích địa phương, nhưng trước cách tàn bạo của
những con người này ai cũng trong ấn tượng, chúng ta
cùng sinh ra trong cùng một giống nòi có gene của sự ác
?
Nạn
nhân chiến tranh trong trạng huống ám
ảnh hồi ức
hay nhớ lại một sự kiện hết sức khó chịu, một sự
đau khổ trong quá khứ làm cho họ xấu hổ, hối hận và
cố gắng quên đi nhưng không sao quên được.
Yếu tố thời tính đã
chứng minh theo thời gian, thời hậu chiến, ngay cả những
kẻ từng điều khiển chiến tranh cũng trở thành những
nạn nhân chiến tranh. Mặc cảm tội lỗi, tội giết
người và nhất là để chiến thắng, qua tuyên truyền
phải đạt đến đỉnh cao trí tuệ của sự ngụy tín
đến vong thân vì chứng nói láo! Không một chính trị
gia nào là người nói thật và đã nói thật sẽ không là
chính khách!
Họ nhớ lại quá khứ và
trở nên trầm uất, hình ảnh con người giết nhau – hữu
thể không còn thể hiện tính người, con người nhìn
nhau trong cái gọi là hận thù giai cấp: con người không
còn ngồi chiêm niệm thế giới, không cần cầu nguyện
cho nhau, nhưng từ đây đi chuyển biến thế giới, từ
đây hãy học biết giết người.
Monophobia
- ám
ảnh sợ cô đơn,
một khi những vùng nông thôn xa xôi trở thành những khu
trù mật, về sau với hình ảnh chung quanh làng trở thành
những hàng rào ấp chiến lược và rồi đến các khu tái
định cư cũng trong bờ rào kẽm gai, những người dân
ngoài độ tuổi phải vào quân ngũ, họ nằm nhà thường
không có việc gì khác hơn đi lãnh đồ viện trợ. Sự
cô đơn trống vắng với thân phận con người khi phải
nằm chờ một cái gì đó mà chắc chắn không phải là
nền hoà bình vĩnh cửu, song cái chết lại dễ xuất hiện
nhất, cho dù được chuẩn bị sẵn sàng với những người
có đức tin tôn giáo. Nó vẫn là một không gian thật tối
tăm không ai biết được cho đến khi con người không còn
ý thức và ra đi.
Mỗi buổi sáng và chiều, nơi các trại
định cư với người Ki Tô giáo hầu nhưng không người
nào bỏ sót lễ misa, họ đến các nhà nguyện nhỏ trong
các khu nhà xây tạm để dâng lễ, dọn đường cho cái
chết thanh thản và trước mắt là có được ít ra sự
bình an trong ngày. Và quả vậy những người có đức tin
Ki Tô giáo họ có đau xót trước sự ra đi của người
thân ngày càng nhiều trên chiến trường, nhưng họ đều
như không la lối hay than vãn cho dù ánh mắt kia có ngập
dòng lệ. Hãy
trao cho con người
ước mơ
và hy
vọng, đó
cũng là
sự góp
phần vào
việc tạo
dựng hạnh
phúc cho
nhân loại!
Trong chiến tranh, bọn cai thầu đã làm
băng hoại xã hội dân sự, họ tạo ra những bồi bút,
những dư luận viên, báo cáo viên với nhiều bài tham
luận, phóng sự bóp méo sự thật, mạ lỵ vô cớ, gây
chia rẽ và tạo sự nghi ngờ đối với những người
khác lập trường của họ. Cuộc chiến tranh tuyên truyền
và phản tuyên truyền dẫn đến một xã hội tha hóa đạo
đức lâu dài cho dân tộc đó: “Nói láo, nói láo, nói
láo mãi khiến con người hoài nghi về một chân lý, hoặc
lộng giả thành chân”, như thế là đã thành công của
nền trị chính bá đạo.
Theo Pascal: “Con người là
một cây sậy biết suy nghĩ”. Tư duy là một quá trình
hoạt động tâm thần phức tạp, là hình thức cao nhất
của quá trình nhận thức. Hoạt động của tư duy gồm
có: phân tích, tổng hợp, so sánh, khám phá và trừu tượng
hoá, phán đoán suy luận và cuối cùng tìm ra kết luận.
Nhân
văn giai phẩm và ngày nay qua mạng xã hội… như tiếng
nói lương tri của con người, nhưng sự rối
loạn nội dung tư duy trong hàng ngũ lãnh đạo đầy tham
vọng quyền lực Hà Nội, vốn từ các định kiến còn
gọi là ý tưởng quá đáng. Định kiến là những nhận
định phát sinh trên cơ sở những sự kiện thực tế
nhưng về sau chiếm một vị trí trong ý thức không phù
hợp với ý nghĩa của nó và có kèm theo một tình trạng
cảm xúc mãnh liệt. Người mang chứng bệnh luôn luôn nhớ
tới việc đó tỏ ra bực tức, đau khổ, và tìm cách
phản ứng trả thù. Người bệnh không thấy chỗ sai của
định kiến nên không có sự đấu tranh phê phán lại và
luôn tìm cách trả thù, nhưng cũng có rất ít trường hợp
với thời gian gặp hoàn cảnh thuận lợi định kiến sẽ
mờ nhạt dần và mất hẳn.
Định
kiến khác với hoang tưởng là sự xuất hiện của nó
không kèm theo biến đổi nhân cách. Thường gặp trong các
trạng thái trầm cảm tự ty, cho mình có phẩm chất cao
hơn người, hoặc mặc cảm xấu xa như vụng trộm về
tình ái, tiền bạc, nhiều khuyết điểm, và từ thứ mặc
cảm tội lỗi này luôn tạo ra thứ chính nghĩa nào đó
như bình phong bên ngoài. Quả là những ý nghĩ,
hồi
ức, nghi ngờ, hành vi và động tác... không phù hợp với
thực tế, xuất hiện trên người bệnh, cũng như các
lãnh tụ với tính chất cưỡng bức. Người bệnh ý thức
được đó là do bệnh tật, biết đó là sai, tìm cách xô
đuổi nhưng không sao thắng được.
Tiến
sĩ Kissinger nghĩ rằng mình ở thế mạnh của một siêu
cường đã áp lực lên Tổng thống Thiệu phải ngồi vào
bàn hội nghị và phải ký kết Hiệp định Paris, nếu
không như đe dọa của Tổng thống Nixon sẽ “chặt đầu
Thiệu”. Còn Ông Thiệu từng tuyên bố khi thăm miền
Trung, thấy dân chúng bị chết oan quá nhiều qua những
chiến dịch ám sát giết hại dân lành của cộng sản đã
thốt lên “Chặt, chặt…thấy cộng sản là chặt…”.
Các
công dân sống dưới chế độ cộng sản nhiều người
vẫn còn lương tri nhưng họ không thể nói khác hơn và
chắc chắn phải hành động hoàn toàn trái với sự phát
triển tự nhiên của con người. Con người từ đây không
còn chiêm niệm thế giới nữa, nhưng là chuyển biến thế
giới, nhưng thế giới như một cây cổ thụ đã che lấp
cả những người gọi là vô sản vì cái bề dày lịch
sử của nó, nhất là tại Việt Nam những con người
giành chính nghĩa cho mình từ thứ chủ nghĩa này, đó là
những thành phần bất hảo cùng nhau vào hang Pắc Pó, để
gọi là dựng cờ cứu nước, ăn cướp mà đền ơn, cả
cướp chính quyền và cả việc ăn cướp để đền ơn
đáp nghĩa về sau, trong bối cảnh như dân gian truyền
‘được làm vua thua làm giặc’, đó chính là bao niềm
kinh hãi với người dân từ sự sợ hãi thông thường –
phobia đến thanatophobia, monophobia, anthrophobia, aichmophobia…
Thay vì nói ‘Các con đừng
sợ’ ! Hãy bảo nhau rằng phải biết sợ trong chế độ
bạo tàn mới có thể sống sót được và rồi vượt qua
sự sợ hãi để làm nên những giá trị theo phẩm cách
làm người hầu hướng đến những giá trị siêu nhiên.
Huyền thoại và ước mơ như những yếu tố muôn đời
của con người hướng đến điều gì trong hy vọng sẽ
đạt được và thường khi vẫn chỉ là mơ ước. Nhưng
nhân loại hết huyền thoại đến thần thoại để luôn
nuôi dưỡng tinh thần con người tiếp tục hành trình đến
chân thiện mỹ.
Miền Nam Việt Nam trước khi nội chiến tương tàn, quân
đội miền Bắc vào xâm lược miền Nam, đây là một đất
nước Tự Do dù chỉ là khởi đầu của một nền dân
chủ hạn chế, nhưng xã hội trên đà phát triển kinh tế
phồn vinh, một thời thái bình thịnh trị của miền Nam
Việt Nam, nhưng hạnh phúc đến với người dân Việt
dường như suốt theo dòng lịch sử chỉ là một thoáng
qua.
Giấc mơ về cuộc chiến chấm dứt, về một nền hòa
bình vĩnh cửu hầu như chỉ là khúc nhạc dạo trong
trường ca lịch sử bao gồm những cuộc chém giết lẫn
nhau.
Bài học lịch sử của người Việt, đó là xin đừng
nhân danh về bất cứ gì để giết người. Giết người
dù bất cứ lý do gì cũng là tội ác! Thay vì triệt hạ
con người, hãy cứu người! Thay cho dục vọng khả giác
là tình yêu chân thật! Hãy tránh xa mê mờ thay bằng minh
tuệ! Đó là bước khởi đầu biết cùng nhau tôn trọng
nhân phẩm con người.
Nguyễn Quang
(Trích từ tác phẩm Tâm Lý Thần Kinh Chiến Tranh VN của
cùng tác giả, với nội dung không mô tả cuộc chiến,
không nói về ai thắng ai, nhưng viết về các nạn nhân
chiến tranh, đồng bào là kẻ chiến bại! Sách hơn 1000
trang.)