Cộng
đồng Việt Nam tại Pháp :
Từ
di trú hội nhập đến tư cách công dân
_____________________GS_
Lê
Mộng Nguyên *
Nói
về cộng đồng Việt Nam tại Pháp dưới hình thức chung
sống hòa hảo giữa các cộng đồng tôn giáo thuộc cộng
đồng Việt Nam và giữa những tín đồ của mọi tôn
giáo di trú tại Pháp, là cả một thử thách. Bởi vì gom
góp tài liệu một cách chính xác về số người VN tại
Pháp theo đạo Thiên chúa, Phật, Cao Đài, Hòa Hảo hay tôn
giáo khác hoặc chỉ phụng thờ tổ tiên vân vân, là một
chuyện rất khó, một việc không thể làm được. Bởi
vì chúng ta sống tại Pháp và nước Pháp theo Hiến Pháp
ngày 4 th. 10 năm 1958 ‘’ là một Cộng Hòa lãnh thổ bất
khả phân, thế tục (phi tôn giáo), dân chủ và xã hội.
Nước Cộng Hòa bảo đảm sự bình đẳng trước pháp
luật giữa các công dân không phân biệt căn nguyên (xuất
xứ), sắc
tộc hay tôn giáo.
Nước Cộng Hòa tôn trọng tất cả mọi tín ngưỡng’’
(Điều thứ Nhất).
Đàm
luận về quyền lợi và bổn phận của cộng đồng VN
nói chung và của mỗi một cộng đồng người Việt theo
đạo Thiên Chúa hay đạo Phật, Cao Đài, Hòa Hảo vân
vân, thật là khó, nhất là khi chúng ta có một lập
trường không chấp nhận chủ nghĩa cộng đồng trong áp
dụng tuyệt đối những hội nhập của đồng bào VN
vào xã hội Pháp.
Sự
hội nhập của những người di cư - định cư, cũng như
sự hội nhập của toàn thể dân chúng Pháp vào xã hội
Pháp (mà chúng ta không thể chia cách), được thực hiện
chung quanh một dự án chính trị làm sáng rõ những giá
trị được hiện thân bởi Cách Mạng Pháp (valeurs
incarnées par la Révolution française) chung quanh một quan
niệm về tư cách công dân cá nhân,
chống đối lại tất cả việc hội nhập của từng mỗi
cộng đồng riêng biệt. Chính sách này gọi là chính
sách
đồng
hóa
(politique d’assimilation) trong thập niên 70, mà ngày nay
người ta gọi là hội
nhập (intégration)
- danh từ có đổi thay với thời gian nhưng ý nghĩa vẫn
còn tồn tại - nó không bao hàm rằng những đặc trưng
(spécificités) của những dân chúng phải hủy bỏ để
được hòa nhập dần dần vào quốc dân Pháp. Tiếng
Pháp ‘’acculturation’’ ám chỉ sự thể một cá nhân
(chẳng hạn một kiều dân) phải cố gắng làm cho tự
mình được thích hợp với văn hóa của nước người là
nơi mình nương náu.
Chúng
ta nên biết rằng chế độ dân chủ đặt nền tảng trên
sự phân biệt giữa riêng
tư
là lãnh vực của tự do cá nhân và công
cọng
là chỗ thống nhất (lieu d’unité) của toàn công dân.
Trong đời sống tư, mỗi một chúng ta có thể dùng ngôn
ngữ quê quán, trung thành đối với một văn hóa đặc
biệt hay tu hành theo tín ngưỡng của mình, với
điều kiện là các thích dụng này không làm nguy đến
trật tự công cọng
(ta nên nhớ rằng Cộng Hòa Pháp là một Quốc Gia
phi tôn giáo ‘’un État laĩque’’ nghĩa là một Quốc
gia trung lập về mặt tôn giáo nhưng có bổn phận tôn
trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng cho mọi cá nhân
và tự do tôn giáo cho mọi tôn giáo). Song chính sách này
(phân biệt giữa riêng và công cọng) đưa đến xác nhận
như sau : Nếu đặc tính của mỗi dân chúng định
cư được giữ lại trong đời sống riêng tư... những
cách cư xử của mỗi cá nhân phải phù hợp với trật
tự của đời sống công cọng (nhập gia tùy tục). Thành
thử (theo quan niệm này) và trên mặt định chế (cơ
quan), sự
thừa nhận những ‘’cộng đồng riêng biệt’’
(Việt Nam, Miên, Lào hay Trung Hoa vân vân tại Pháp) đã
được thành lập bởi di dân định cư, là
một vấn đề không thể có.
Chính sách đồng hóa không bao giờ ngăn cấm tình trạng
văn hóa đa dạng (multiculturalisme) trong phần sinh hoạt
riêng tư và xã hội, nhưng chính sách này ngăn cấm sự
biểu hiện văn hóa đa dạng trong đời sống công cọng.
Chính sách này dựa trên sự phân biệt của triết gia
Hegel giữa những đặc tính của con người sống riêng tư
và tính
cách đại đồng của người công dân.
Về mặt này, đạo luật vừa mới được Quốc hội Cộng
Hòa Pháp thông qua trong tháng 02-2004 : ra lệnh cấm học
sinh các trường tiểu học, cao đẳng tiểu học và trung
học (trong khung cảnh trường công), đeo những dấu hiệu
hoặc với cách ăn mặc đã biểu lộ một cách rõ ràng
sự phụ thuộc của mình vào một tôn giáo, là một bằng
chứng minh mẫn của sự phân biệt nói trên. Nếu giữa
các tín đồ VN của mọi tôn giáo trên đất Pháp có sự
giao thiệp dễ dàng, hiện tình tốt đẹp này là do môt
phần lớn trong tính cách khoan dung cổ truyền của Phật
giáo có thể xem như một triết lý hơn là một tôn giáo.
Người ta còn nhớ rằng vị Thủ tướng đầu tiên do ông
Bảo Đaị bổ nhiệm năm 1954 (sau Hiệp định Genève tháng
7-1954) là một người công giáo (Ngô Đình Diệm), và ngay
chính cựu hoàng (di trú tại Pháp) cũng đã vào đạo
Thiên chúa năm 1988. Hơn nữa, người đàn bà đầu tiên
(sau này trở thành Nam Phương Hoàng hậu) mà ông đã cưới
hỏi năm 1934, sinh trưởng trong một gia đình công giáo
rất giàu có. Băng hà ngày 31 tháng 07 năm 1997, cựu hoàng
Bảo Đại đã được mai táng theo lễ tục của Thiên
Chúa giáo tại Nhà thờ Saint Pierre de Chaillot. Sau đó, lễ
cúng thất tuần ngày cựu hoàng tạ thế được tổ chức,
với sự hiện diện của một số đồng bào VN ở Paris
và lân cận, tại Chùa Phật Giáo nằm trong Bois de
Vincennes. Trái lại, Nguyễn Ánh (vua Gia Long trong tương
lai, người sáng lập nhà Nguyễn) từ chối không theo đạo
Thiên Chúa ; ông đã nói như thế này với Mgr Pigneau
de Béhaine : ‘’ Tôi muốn giữ vững sự thờ phụng
tổ tiên, bởi vì tôi xem sự phụng thờ này như là nền
tảng của giáo dục Việt Nam ‘’. Ta nên nhớ rằng năm
1704, Giáo Hoàng Clément XI cấm tín đồ công giáo tham dự
vào những lễ nghi có tính cách thờ phụng tổ tiên...
Ngày nay trái lại, đồng bào Phật tử (phụng thờ tổ
tiên) lưu vong trên đất Pháp đã không ngần ngại tham dự
lễ kỷ niệm ngày Tổng thống Ngô Đình Diệm cử hành
mỗi năm ngày mồng 1 tháng 11 trong một nhà thờ Thiên
Chúa giáo tại Paris.
Trong
viễn thị này, việc hội nhập của người di trú được
hoàn thành, không phải từ những nhu yếu (exigences) của
một cộng đồng khép kín bắt buộc kẻ di dân phải suốt
đời chịu đựng những giá trị, phong hóa và nguyên tắc,
mà trái lại người di trú hội nhập phải có óc phán
đoán về văn hóa của chính mình và văn hóa của nước
bao dung, về lịch sử của tổ tiên nước mình và lịch
sử của nước người, nơi mà đồng bào ta từ nay được
ổn định và sinh sống. Như thế, kẻ di trú đã phải
tự nêu nhiều câu hỏi, nhiều chất vấn trong tâm khảm
giữa sự mê ảo (fascination) nước người và sự đoạn
trường khi hướng về cố quận ...
Tư
cách công dân
nảy nở từ sự tham dự vào một toàn thể (un ensemble)
và tinh thần ái quốc cho đến hy sinh tận cùng nhưng
không loại trừ việc phê phán nghiêm khắc. Gia nhập vào
một xã hội không có nghĩa là phải mất thái độ
khoảng cách (distance). Không một lịch sử nào có thể
xem là một toàn khối và văn hóa Pháp, phong tục Pháp
không phải là một khối đá duy nhất. Cũng chính vì lý
lẽ ấy mà mỗi kẻ di trú sống trên đất Pháp đều có
ước vọng trở thành quốc dân Pháp (un national français).
Nhưng có quốc tịch Pháp không phải là tự động
(automatiquement) đi đến tư cách công dân.
Theo
nhà triết học Hy Lạp ARISTOTE (384-322 trước JC), muốn có
tư cách công dân, điều kiện sinh sống trong một nước
và biện hộ trước Tòa án để bảo vệ quyền lợi của
mình, vẫn chưa đủ. Vì mọi người ngoại quốc cũng
được quyền như thế. Người công dân chính thức (loại
trừ đàn bà, trẻ con và nhửng kẻ bị tước đoạt tất
cả hoặc một phần công quyền vì tội nặng) là người
giữ một quan chức (fonction publique) : hoặc thống trị
(gouverner) hoặc làm thành viên trong Tòa Án hoặc tham dự
vào Hội đồng Nhân dân. Tư cách công dân có nghĩa là
tham dự một cách tích cực vào công việc nhà nước.
Người
công dân không những bị cai trị mà còn nắm cả quyền
cai trị.
Trong bức thư ngỏ gửi giới truyền thông Việt ngữ tại
Pháp ngày 24 th. 5-2003, BS Trần Quang Lộc, Bí thư Toàn quốc
Trung ương Đảng UMP (là Đảng nắm chính quyền hiện nay
tại Pháp) đã nhấn mạnh : Những
cuộc biểu tình, hội thảo là cần thiết, nhưng chưa đủ.
Những thành công cá nhân rất cần thiết, nhưng cũng chưa
đủ. Chính sức mạnh của lá phiếu mới quyết định vị
trí của cộng đồng. Đây là bổn phận và bổn phận sẽ
tạo ra quyền lợi.
Nghe
như thế tôi bồi hồi tưởng nhớ tới hơn hai triệu
đồng bào rải rác khắp năm châu trên xứ người mà
trong đó hơn hai trăm nghìn người Việt Nam đã di cư và
định cư tại Pháp... nhất là từ ngày 30 tháng tư năm
1975 (biến cố dân tộc). Nhưng thật ra, muốn hiểu tường
tận vấn đề này dính dáng mật thiết đến tương lai
đất nước, ta phải cần theo dõi diễn tiến lịch sử
và chính trị của di dân VN, truớc khi vạch lại hiện
tượng định cư, từ di trú-hội nhập cho đến tư cách
công dân (mà trong phần mở đầu ta đã cho nhiều định
nghĩa) của một số đồng bào chúng ta trên đất Pháp
dưới khía cạnh xã hội học và văn hóa.
I.
Diễn tiến lịch sử và chính trị của định cư việt
nam tại pháp
Nói
một cách tổng quát và vì lý do những dây thắt chặt
trong quá khứ giữa đế quốc thuộc địa Pháp và các
nước trong cựu Đông Pháp, nước Pháp là một xứ sở
rất tiện lợi cho di dân VN, Miên, Lào và Trung Hoa. Bởi
vì các dân chủng Thái Lan, Mã Lai, Ấn Độ Dương, Phi
Luật Tân hoặc Tân Gia Ba phần lớn thích chọn các nước
Mỹ và Úc châu. Cộng đồng Việt Nam hải ngoại rải
rác trên 70 nước của địa cầu có thể (theo Lâm Thanh
Liêm và LM Jean Maĩs trong Le
Médecin du Vietnam,
số 35, tháng 5 & 6-1997) lên tới 2 300 000 người mà
trong đó hơn 300 000 người Việt Nam chính tông, sinh sống
tại các nước lân cận Á Châu.
Bắc
Mỹ có nhiều dân Việt định cư nhất : 1 150 000
trong đó 1 triệu người ở Hoa Kỳ (là 1 cộng đồng VN
vĩ đại ở hải ngoại, đông nhất, hoạt động tích cực
nhất và hội nhập hoàn hảo nhất trong xã hội Mỹ) và
150 000 ở Gia Nã Đại. Trong vùng Đại Dương Châu, đồng
bào ta được tổng số 272 000 người phân chia khắp các
nước Úc (160 000), Nouvelle Zélande (8 000) và Nouvelle
Calédonie (4 000). Theo BS Trần Quang Lộc ‘’... về phần
hội nhập thì phải công nhận là cộng đồng VN tại Úc
đã đi tiên phong và tạo thành quả rõ ràng hơn chúng ta
(CĐVN tại Pháp) và ngang ngửa với cộng đồng VN tại
Hoa Kỳ... Một tỉ dụ :’’... Người đắc cử Nghị
viên Hội đồng thành phố gốc tỵ nạn đầu tiên cũng
là một đồng bào ở Úc. Cộng đồng người VN tại Úc
có tiếng nói trong những quyết định chính sách của
chính phủ Úc... ‘’ (TQL)
Trong
các nước Tây Âu, tương đối ít người Việt (400 000
thôi). Nên nhớ rằng trước khi Tường Bá Linh và chế
độ Cộng Sản sụp đổ trong các nước thuộc về Trung
và Đông Âu, chính phủ Hà Nội đã gửi 240 000 thanh niên
lao động làm việc với mục đích củng cố tài sức
công nhân và kỹ thuật của các quốc gia này thuộc gia
đình chủ nghĩa xã hội trước cách mạng 1989-1991. Một
số đông những thanh niên này đã từ chối không trở về
VN , cho nên hiện nay có gần 100 000 muốn di chuyển qua
Pháp quốc, lợi dụng cơ hội việc áp dụng hiệp định
Schengen cho nhiều nươc trong Liên Hiệp Âu Châu (x. Lê Mộng
Nguyên, ‘’L’espace
Schengen et le droit d’asile des étrangers sur les territoires de
la république Française
‘’, ‘’L’Appel de la nation’’ số 24, ngày
20-01-1994).
Tổng
số người Việt tại Pháp được bao nhiêu ? Rất khó
trả lời câu hỏi này vì trên mặt thống kê chính thức,
người ta chỉ nói một cách tổng quát về di dân Đông
Dương chứ không kể riêng biệt các chủng tộc Lào, Miên
hay Việt Nam. Hơn nữa, con số những người được vào
quốc tịch Pháp bị xóa trên bản thống kê. Theo nhiều
xã hội học gia (Lê Hữu Khóa, ‘’Les
Vietnamiens en France, Insertion et Identité’’,
L’Harmattan, Paris 1985 ; Christophe Longwiny et Christian
Jelen, ‘’La
famille, secret de l’intégration’’,
Robert Laffont 1993), người Việt cư ngụ tại Pháp hiện
giờ tính đến 200 000, trong lúc nhà kinh tế học Trần
Văn Tòng đưa ra một số rất lớn : 250 000.
Ta
có thể nói là trên mặt tiến triển lịch sử, trong một
thời kỳ thứ nhất từ 1914-1918 tới 1954 và trong
một đợt
đầu,
có 50 000 người Việt phần đông quê quán Bắc kỳ, đã
được chiêu mộ làm‘’lính-thợ’’ (soldats-ouvriers)
để tham gia vào sức gắng chiến tranh của ‘’Mẫu
Quốc’’ , nhưng một khi hết chiến tranh, quyết định
ở lại trên đất Pháp để làm việc trong công nghệ dệt
(Lyon) hoặc kỹ nghệ xe hơi trong vùng ngoại ô Paris hoặc
trong việc xây đắp đường tàu sắt ở miền Bắc nước
Pháp.
Đợt thứ hai
(từ 1919 đến 1939) đặc biệt dành riêng cho khoảng 5 000
người trẻ tuổi muốn rèn luyện trí thức với trình
độ đại học rất cao (tỉ dụ : Phan Châu Trinh,
Nguyễn Mạnh Tường v.v.)
và những người giữ một vai chính trị (như Hoàng
đế Bảo Đại,
khách uy thế của nước bảo hộ hơn là một kẻ di cư,
Hồ
Chí Minh,
Nguyễn An Ninh là những nhà cách mạng chống Pháp trong
tương lai). Hoàng Thái Tử và mấy năm sau trở thành Hoàng
Đế Bảo Đại muốn học hỏi trong thời gian ông ở Pháp
những nguyên tắc dân chủ chính thể với ý định thiết
lập trong tương lai Việt Nam một chế độ quân chủ lập
hiến. Trong lúc những người (thuộc về gia đình trưởng
giả đại điền chủ Nam kỳ hoặc nho giáo An Nam và Bắc
kỳ) được xuất ngoại qua Pháp huấn luyện với trình
độ Đại học vào những năm 1926-1927 (khoảng chừng 200)
rất tỏ lòng khâm phục nước Pháp của Thế Kỷ Ánh
Sáng và tôn trọng Nhân Quyền. Những nhà trí thức này
(trong thời gian du học trên đất khách) sẽ thấm nhuần
tư tưởng quảng đại về tự do và quyền tự quyết tự
chủ của các dân tộc trên hoàn cầu. Đợt
thứ ba
của phong trào di cư bắt đầu với thế chiến thứ hai
(1939), là lúc chính phủ thuộc địa Đông Dương tống
đạt qua ‘’Mẫu Quốc’’ chừng 20 000 người Việt
(phần đông quê quán Bắc kỳ) đặng làm việc với tư
cách nhân công bản quốc (main-d’oeuvre indigène) và 8 000
khác làm tán binh (tirailleurs). Ông
Lê Hữu Tho, tác giả sách tự truyện ‘’Itinéraire
d’un petit mandarin’’
(Cuộc hành trình của một ông quan bé, L’Harmattan 1997),
sinh năm 1919 tại Bắc kỳ và con nhà quan, đã làm sống
lại ít nhiều hoàn cảnh của thời ấy (tôi xin trích
tr. 4 của bìa) giới thiệu ‘’... người
trai trẻ nước Đông dương lúc 19 tuổi quyết định giã
từ Việt Nam để qua Pháp. Nhưng khi vừa đặt chân trên
đất người, thì chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ
làm đảo lộn số phận của anh. Biến cố này sẽ bó
buộc anh phải chung sống với 20 000 đồng bào, phần lớn
thuộc gốc nhà quê, để làm thông ngôn. Ký sự này là
một bằng chừng mới lạ về thân phận của những người
nhà quê VN, phải bỏ làng bỏ nước, nay chứng kiến một
Pháp quốc bị chiếm lãnh và mất thể diện. Tự truyện
này cũng là một tán dương ca đầy hy vọng qua ý lực
quyết thắng mạnh mẽ của Tho và cũng qua sự thương mến
nước Pháp do cô gái Madeleine làm tiêu biểu ; năng
lực và ái tình đã cho người thanh niên VN được thấm
nhập dễ dàng vào xã hội Pháp.’’
Sau
thời Pháp quốc bị Đức Quốc Xã (phát xít) chiếm đóng
(chỉ vài tháng thôi sau khi những người Việt này đặt
chân trên đất khách và sau khi Thỏa Hiệp Đình Chiến
được ký, 4 500 được trở về cố quận, chỉ còn 13
000 ‘’lính-thợ’’ ở lại Pháp sau kết thúc thế
chiến thứ hai. Một phần lớn được trở về quê quán
ngay từ năm 1946 và phong trào này tiếp tục cho đến năm
1951, là năm mà người ta đếm chỉ có vỏn vẹn 3 000
người Việt tại Pháp.
Theo
thống kê của Sở An Ninh Đông Pháp vào tháng 7 năm 1945,
người VN ở lại Pháp sau Đệ Nhị Thế Chiến, lên tới
27 350. Một khi những ‘’lính-thợ’’ đã trở về
nước, số này còn lại khoảng 15 000 đầu năm 1950, trong
đó có nhiều sinh viên (sinh trưởng gia đình giàu có)
được phép xuất ngoại (tự túc tài chánh) trong thời
gian Chiến Cuộc Việt Nam thứ nhất (1945-1954), để tránh
khỏi tổng động viên do chính phủ ban hành. Họ trở về
quê hương sau khi đậu bằng cấp Đại học Pháp. Một số
ở lại, xin nhập quốc tịch Pháp và từ đó không còn
tên trên thống kê biểu chính thức của Bộ Nội Vụ
Pháp (vì vậy, tổng số người Việt ở Pháp năm 1962 chỉ
có 6 853).
Trong
thời kỳ thứ hai từ 1954 đến 1975, nghĩa là từ chiến
tranh VN thứ hai (giữa miền Bắc cộng sản và Việt Nam
Cộng Hòa miền Nam liên kết với Hoa Kỳ (Liên Bang Mỹ
Quốc), mặc dầu tình trạng quốc tế tranh nghị, nước
Pháp chấp nhận sự có mặt của sinh viên học bổng của
VNCH hay của chính phủ Pháp và ngay cả những sinh viên
không học bổng tự chi phí xuất dương, nhất là sau
cuộc tiến công cộng sản nhân dịp Tết Mậu Thân
(1968). Nếu năm 1962, có 6 853 người Việt (như đã nói
trên), năm 1975 (trước Sài Gòn thất thủ), đồng bào
chúng ta trú ngụ tại Pháp lên đến 14 196, theo Bộ Nội
Vụ.
Thời
kỳ thứ ba (mà cũng là thời kỳ cuối) bắt đầu ngày
30 tháng 4 năm 1975 (thất thủ Sài Gòn), mà cũng là thời
kỳ trong đó Pháp quốc đã đón nhận hơn 200 000 dân di
cư phần lớn từ những nước miền Đông Nam Á. Phần
chủ yếu trong tổng số này gồm những tị nạn rời bỏ
các nước Miên, Lào và Việt Nam sau khi Cộng sản đặt
quyền lực thống trị trong ba nước thuộc cựu Đông
Pháp. Nói riêng về đồng bào chúng ta : và theo bản
thống kê của ‘’France-Terre d’asile’’ (Nước
Pháp-Đất Nương Náu của Người Tị Nạn) : giữa
1975 và 1990 có đến 43 000 người Việt tị nạn (một
phần ba của tổng số chung) phân phối trong thời gian qua
nhiều giai đoạn : 7 600 giữa 1975 và 1977 ; 14 700
giữa 1978 và 1980 ; 23 000 người Việt di cư từ VN
(trong đó có lẽ 20 700 được có tư cách tị nạn) giữa
1981 và 1990. Kể từ ngày Sài Gòn thất thủ cho đến năm
1983, phần lớn những người tị nạn này là những cựu
thuyền nhân (boat people). Ngoài ra, những chuyến đi thực
hiện theo ‘’Chương Trình Tổ Chức Xuất Hành’’
(ODP) được chính phủ Hà Nội chấp thuận (từ tháng
7-1978 đến cuối năm 1980 và từ 1980 việc xuất ngoại
được thực hành theo chính sách đoàn tụ gia đình do
chính phủ Pháp đề cao.
Từ
1991 đến 1994 :
chỉ có 3 300 người Việt trên 3 700 tị nạn Đông Dương
tại Pháp. Lý do ? Những chính sách hạn chế do cuộc
thương nghị tại Genève 1989 quyết định với mục đích
lựa chọn kỹ càng những kẻ đạt tới những trại tị
nạn đặng biết họ có thật hay không là ‘’những
người tị nạn chính xác’’. Vì thế cho nên chỉ 8
phần 100 những người thỉnh cầu mà thôi mới được
công nhận được tư cách tị nạn. Hiện giờ (chúng ta
đã nói trên), tổng số đồng bào di cư và định cư tại
Pháp vào khoảng 200 000 mà trong đó 45 000 tại vùng ngoại
ô lân cận thủ đô và 18 000 ngay trong nội thành Paris
(tôi không gồm trong thống kê này những đồng bào đã
được vào quốc tịch Pháp và Việt lai - Âu Á :
Eurasiens). Nhưng vấn đề hội nhập xã hội Pháp có dính
líu đến tất cả những người Việt di cư rồi định
cư tại nước này và những người Việt có quốc tịch
Pháp (Pháp gốc Việt) hiện sống trên đất người.
II
. phương diện xã hội học và văn hóa của di cư và
định cư việt nam tại phảp (Từ hội nhập đến tư
cách công dân)
Trong
cuộc thảo luận tiếp theo thuyết trình tại Hàn Lâm Viện
Khoa Học Hải Ngoại Pháp (số 15, đường La Pérouse, Paris
Quận 16) về ‘’Les
naufragés de la liberté’’
(Những Kẻ Trầm Luân của Tự Do), diễn giả Michel
Tauriac trả lời như sau về một câu hỏi đến vấn đề
đồng bào định cư muốn hội nhập (intégration) xã hội
Pháp : Sự
hội nhập xã hội của di cư định cư Việt Nam trên đất
Pháp là một thành công lớn. Đôi khi ta có thể nói là
có sự đồng hóa (assimilation), và như ông Tổng trưởng
đã nhấn mạnh trước đây, sự thật là người Việt bị
cấu xé giữa hai nền văn hóa. Họ có một chân trong mỗi
nền văn hóa. Dầu sao họ cũng cảm thấy sung sướng trên
đất Pháp. Trong tôi cũng có một phần người Việt Nam
như quí vị đã biết. Người Việt không ở trên đất
Pháp như mọi người khác ở đất xa lạ, như mọi người
khác ở Hoa Kỳ, hay Úc, vân vân. Pháp quốc, đối với
họ, là một chút như sự tiếp nối của quê hương xa
xăm, dưới một hình thức khác. Sự hội nhập này đã
thành công mặc dầu cái sợ, cái lo âu của họ có thể
bị mất gốc rễ và sự lo ngại thấy con cái ngày mai
sẽ thoát khỏi gia đình. Đó là một chuyện rất thường
bởi vì con cái sẽ tự lấy tự do, con cái họ được
sinh ở Pháp, chúng lập gia đình đôi khi với người
Pháp, dù muốn dù không, bởi vì những kết hôn cha mẹ
định trước vẫn còn, ở đây cũng như ở Việt Nam...
(x.
Mondes et Cultures, Comptes Rendus Trimestriels des Séances de
l’Académie des Sciences d’Outre-Mer, Tome LIX - 3 - 4 - 1999,
Tome - 1 - 2000, p. 300).
Nhà
thuyết trình ở Viện Hàn Lâm hôm ấy nói rất đúng khi
ông nhắc nhở đến sự thành công của người Việt
trong sinh sống hòa hợp với xã hội Pháp. Vì chuyện đồng
bào chúng ta (thế hệ thứ hai) hòa hợp với xã hội Pháp
(theo Michel Tauriac) là một chuyện tự nhiên ! Trong
thực tế, ta nên lấy một thái độ dè dặt hơn...
Muốn
hiểu rõ sự thật, trước hết ta phải lấy hết sức
định nghĩa chữ ‘’hội nhập xã hội Pháp’’ một
cách sáng suốt, nhưng chuyện đó không phải là dễ. Theo
Hội Đồng Tối Cao về Hội Nhập (Haut Conseil à
l’Intégration) : Việc hội nhập (intégration) có thể
nói là một đường lối trung bình giữa sự đồng hóa
(assimilation) và sự xen tháp (insertion). Như thế có nghĩa
là trong hội nhập, ta phải làm thế nào để những thành
phần muôn mặt và khác nhau phải gia nhập tích cực vào
cuộc xây dựng xã hội nước Pháp, nhưng cùng một lúc
ta phải thừa nhận tất cả sinh hoạt của những đặc
tính văn hóa, xã hội và luân lý và công nhận là một
lẽ dĩ nhiên rằng toàn thể (xã hội Pháp) được phong
phú thêm nhờ những biến hóa, những tính tình phức tạp
ấy.
Câu
hỏi quan trọng đã nêu lên : Đồng bào ta có cần
phải dứt khoát với gốc rễ quê hương để hòa nhập
xã hội nước người ? Như André Frossard đã viết :
‘’Câu
trả lời rất đúng cho một câu hỏi rất đúng là một
câu hỏi khác, và một vấn đề được giải quyết là
một vấn đề đặt lên một cách sai lầm : điểm
cuối của bất cứ bài diễn văn nào đáng chú ý là một
chấm hỏi’’...
Như vậy, câu trả lời khôn khéo cho câu hỏi này sẽ
là một câu hỏi khác : Sự
hội nhập của những kẻ tha hương nói chung và của
người Việt nói riêng vào xã hội Pháp có cần đi đến
sự công dân hóa bằng cách xin nhập quốc tịch Pháp ?
Trong một bài xã thuyết đăng trong ‘’Le Viêt-Nam au
Présent’’, tr. 194-207, th. 10-1992, nhà xã hội học Lê
Hữu Khóa trích nhà văn Dương Thu Hương đã viết trong
một tự bạch : ‘’Dân
tộc ta đã chết hàng triệu lần trong cái chết’’,
đã cho vài lời chú giải như sau : ‘’Theo Dương
Thu Hương, dân tộc Việt Nam biết rằng thà chết còn hơn
sống. Và ngày nay, để học lại cách sống, họ phải
học cách trọng lẽ phải và sự công bằng’’... và
tiếp tục : Với hai chữ Sự Thật , Công Bằng, phải
thêm hai chữ khác nữa để dành đặc biệt cho cộng đồng
người Việt : Trung Tín và Khoan Dung. Lê Hữu Khóa
nhấn mạnh vào chữ TRUNG TÍN (Loyauté) bởi vì chúng ta,
người Việt Nam, chúng ta phải trung tín với nước Pháp
đã chiêu đãi, đã cho chúng ta một cơ hội may mắn để
làm lại cuộc đời, trong khung cảnh một Quốc Gia kính
trọng pháp quyền và tự do cá nhân. Nhà xã hội học kể
lại chuyện ông Tố Hữu, Phó Thủ Tướng và phụ trách
văn phòng Thư ký Đảng Cộng sản , đã nói một cách
trắng trợn, trong cuộc đàm luận về vấn đề cộng
đồng VN nhập quốc tịch Pháp : (xin trích) ‘’Chữ
‘’passeport’’ dịch ra tiếng Việt bằng Hộ Chiếu.
Nếu chúng ta chỉ giữ lại chữ cuối cùng ‘’chiếu’’,
chữ này có nghĩa là ‘’tấm chiếu’’, mà người ta
có thể trải ra, cuốn lại, giữ gìn hoặc vứt bỏ’’.
Tố Hữu muốn nói - từ cái tỉ dụ này và theo cách
phỏng dịch nôm na của ông - rằng một khi người định
cư được nhập quốc tịch của nước chiêu đãi, việc
này chỉ tóm lại thành một tờ giấy. Đâu có gì quan
trọng nếu sau này họ muốn thay đổi hay từ bỏ quốc
tịch ? Và nhà xã hội học Pháp gốc Việt nổi
giận : ‘’Chúng
ta không chấp nhận cái thái độ gian lận này, chúng ta
có bổn phận đối với quốc gia đã nồng hậu đón tiếp
chúng ta, đã cho chúng ta đủ mọi cách để làm lại một
cuộc đời mới. Chúng ta phải hãnh diện được nhập
quốc tịch Pháp cũng như chúng ta hãnh diện là những
công dân Việt Nam’’.
Tôi xin sửa lại, vì thật ra ông muốn nói : ... cũng
như chúng ta hãnh diện là những
công dân Pháp gốc Việt !
Cùng
theo một quan niệm và nhân dịp nói đến Pháp quốc là
một nước đã nồng nhiệt tiếp đón (tôi đã nhấn mạnh
chuyện này tại Viện Hàn Lâm trong buổi họp ngày
03-03-2000) hàng ngàn ‘’những kẻ trầm luân vì tự
do’’, tôi xin nhắc lại rằng lúc bấy giờ, trong những
năm 1976 và kế tiếp, duới thời các chính phủ Jacques
Chirac và Raymond Barre, những kẻ tị nạn VN tại Pháp (sau
khi Sài Gòn thất thủ) đã được chính quyền Pháp nâng
đỡ tận cùng. Tôi còn nhớ hồi ấy, Tổng Thống Giscard
d’Estaing đã ra chỉ thị cho công chức Hành Chánh phải
làm cho thuận tiện (dễ dàng), đơn giản và mau chóng thủ
tục gia nhập quốc tịch Pháp cho người tị nạn. Sau khi
Bắc Việt thôn tính Nam Việt vào tháng tư 1975 và kế
theo là thảm kịch của những người vượt biển (đi tìm
tự do), đồng bào chúng ta có thể được quốc tịch
Pháp trong một thời gian ngắn : 6 tháng, 9 tháng hoạc
lâu nhất là một năm. Tôi đã giúp đỡ nhiều đồng bào
trong việc làm thủ tục giấy tờ... và nhân dịp này
muốn nói lên lòng biết ơn của người VN đối với
chính quyền Pháp.
Sự
hội nhập xã hội nước người của đồng bào VN là một
thành công, bởi vì những kẻ cựu tị nạn đặt chân
trên đất Pháp vào những năm giữa 1954 và 1975, toàn là
sinh viên, trí thức hay làm thương mại, đã không ngần
ngại sấn vào những địa hạt chuyên môn và khoa học,
cũng như những ngành y khoa - dược khoa, và yêu chuộng
học thức trước tất cả, thế hệ này qua thế hệ
khác. Trả lời một câu hỏi của tôi trong buổi đàm
luận tại Hàn Lâm Viện Khoa Học Hải Ngoại chiều ngày
03-03-2000 về tổng số người Việt tại Pháp, nhà văn và
ký giả Michel Tauriac cho biết : ‘’...
Tôi có thể nói : vào khoảng 1 triệu người. Tại
sao ? Hãy mở Minitel và tìm kiếm họ ‘’Nguyễn’’
- xem như một thứ ‘’Dupont’’ của Việt Nam - thì quí
vị sẽ thấy họ này khắp mọi nơi ở Pháp, trong tất
cả những thành thị, trong tất cả những quận huyện.
Quí vị sẽ biết tại Pháp có c hừng 4 000 bác sĩ y khoa
Việt Nam và hơn 2 000 xỉ khoa y sĩ và dược sĩ, nhưng đối
với dân Pháp, tất cả người Việt là người Tàu và
tất cả đều là chủ cao lâu... ‘’
Sử học gia Philippe Devillers hiện diện hôm ấy có thêm
vào danh sách này những chuyên nghiệp điện tử, hoặc
trong ngành ‘’informatique’’ (có nhiều người Việt
rất tài giỏi) và các nhà khảo cứu khoa học lừng
danh... Tôi tin chắc là nhờ giáo lý của Khổng tử, hơn
là Phật giáo và Đạo giáo, những cựu tị nạn nay định
cư tại Pháp đã theo đuổi học hỏi và rèn luyện trí
thức đến tận cùng... Phần đông đã thành công (nhất
là trên mặt kinh tế) và đó là một cách trả ơn xứng
đáng của người Việt cho Pháp quốc đã đón tiếp nồng
hậu những kẻ ‘’trầm luân của tự do’’. Hơn nữa,
tinh thần hỗ trợ gia đình đã thoa dịu những vết
thương của đồng bào trú ngụ tại Pháp bị thất nghiệp
trong những năm 1980. Thành thử, mặc dầu đời sống khó
khăn, trong cộng đồng Việt Nam tại Pháp, không có người
nào bị thân thuộc ruồng bỏ phải sống sót bên lề
đường... Trong những giai đoạn khủng hoảng, tất cả
thị tộc thiết lập lại dưới mái nhà cùng dòng họ :
thanh niên Việt thất nghiệp được cho ở trong nhà của
cha mẹ, đến lượt cha mẹ già được sống êm dịu
những ngày hưu trí trong nhà con cái, cháu chắt chứ
không phải nương náu cô quạnh trong nhà dưỡng lão. Sự
phụng thờ tổ tiên trên đất khách luôn đi đôi với
sự tôn kính và biết ơn người lớn tuổi. Trong giao
dịch, nếu (đôi lúc) có sự chống đối giữa những
người định cư thuộc thế hệ thứ nhất thấm nhuần
Nho giáo và những thanh thiếu niên thuộc thế hệ thứ
hai (sinh tại Pháp) tôn trọng nhân quyền và thấm nhuần
chủ nghĩa cá nhân Âu Tây, sự tương phản về tư tưởng
này không bao giờ đưa đến đoạn tuyệt. Bởi vì các
bô lão Việt Nam cũng không quên bài học ‘’Trung Dung’’
của Đạo Khổng, cho nên không phản đối trước thái độ
rất tự do cá nhân của những người trẻ tuổi thuộc
thế hệ thứ hai.
Trong
bài diễn văn tiếp đón hân hoan nhà văn Hector Bianciotti
vào Hàn Lâm Viện Pháp ngày 23-07-1997..., bà Jacqueline de
Romilly đã nói với ông Hàn lâm mới được bầu :
Một
ngày nào đó, đến trú ngụ tại Paris để phục vụ văn
chương,
ông
đã không do dự sinh sống theo Pháp ngữ, suy tưởng và
nằm mơ trong ngôn ngữ này. Ông có thể mượn câu sau của
Supervielle áp dụng cho mình : Tôi làm thinh bằng tiếng
Pháp. Nota :
Jules SUPERVIELLE : Poète et romancier français (Montevideo
1884-1960 Paris) né en URUGUAY de parents d’origine basque... Đó
là một tỉ dụ rất đẹp của hội nhập của kiều dân
vào xã hội Pháp : Hector Bianciotti là một nhà văn gốc
Argentine, di dân định cư tại Pháp từ hơn ba thậpniên
và được nhập quốc tịch Pháp năm 1981 ! Tác giả
nhiều sách bằng Y Pha Nho, ông đã lựa chọn sáng tác
bằng Pháp ngữ từ 1985 et được bầu vào Hàn Lâm Viện
Pháp (ghế của André Frossard) năm 1997 : Đó là một
danh dự tối cao của một kiều dân ở Pháp !
Đồng
bào chúng ta có cần phải cắt đứt với nguồn gốc quê
hương để hoàn toàn hội nhập xã hội nuớc người ?
Tôi không trả lời được cho câu hỏi này (như đã nói
trên). Nhưng để tưởng nhớ tới nghìn vạn người vượt
biển đã bỏ mình cho Tự Do, tôi xin trích mấy dòng sau
này của Siegfried, với mục đích dâng tặng đồng bào
định cư khắp năm châu, trong dịp đầu Xuân Nhâm Ngọ
2002 : ‘’Le
premier immigré demeure, sa vie durant, un homme de son pays
d’origine’’
(Người
kiều dân đầu tiên vẫn suốt đời là một người của
quê hương xứ sở mình). Ghi
chú.-
André SIEDFRIED (1875-1959) : Economiste et sociologue
français, Professeur à SC.PO (1911) et au Collège de France
(1933) - Académie Française en 1944.
Lê
Mộng Nguyên
___________________________________________________________________
*
Nhạc
sĩ, GS Hàn Lâm Tiến sĩ Quốc Gia Khoa Học Chính Trị,
nguyên Luật sư
Tòa
Thượng Thẩm Paris.