TS PHẠM TRỌNG CHÁNH
(HỨA
ĐÔ, ĐÀI ĐỒNG TƯỚC, MỘ CHU DU, MIẾU KHỔNG
MINH, XÍCH BÍCH Phụ lục thơ PHAN HUY ÍCH, ĐOÀN
NGUYỄN TUẤN, NGÔ THỜI NHẬM, TÀO THỰC, TÔ ĐÔNG
PHA)
NGUYỄN
DU ĐẾN HỨA ĐÔ VIẾT VỀ TÀO THÁO
Nguyễn
Du trên đường đi sứ năm Quý Dậu (1813) từ
9-8 từ Hán Khẩu đến tỉnh Hà Nam, ngày 22-8 ra khỏi địa
phận An Dương tỉnh Hà Nam. Trong khoảng thời gian này sứ
đoàn đã đi qua Hứa Đô, phía đông huyện Hứa Xương,
tỉnh Hà Nam. Năm Kiến An nguyên niên tức năm 196, do Lạc
Dương bị loạn đốt phá điêu tàn, Tào Tháo dời
kinh đô nhà Hán từ Lạc Dương đến Hứa Đô. Cảm xúc
trước chuyện xưa thời Tam Quốc, Nguyễn Du viết bài Cựu
Hứa Đô.
Nhà
Hán (203TCN-220) do Lưu Bang, Hán Cao Tổ, sau khi đánh bại
nhà Tần và tiêu diệt Sở Bá Vương Hạng Vũ. Nhà Hán là
triều đại, lâu dài nhất trong lịch sử Trung Quốc hơn
400 năm, khiến cho dân Trung Quốc tự nhận mình là dân
tộc Hán, chữ viết là Hán tự. Dưới triều đại nhà
Hán, Trung Quốc chuyển biến từ chế độ phong kiến,
phong đất cho các công thần làm chư hầu (như Tây Phương
đương thời) sang một chế độ Quân chủ Trung
ương Tập quyền, các quan lại được tuyển chọn bằng
khoa thi Hiếu Liêm, Mậu Tài, các môn : thơ, phú, chế,
biểu, văn sách, ứng đối.. lấy Nhân Trị :
Nho học sách Tứ thư, Ngũ Kinh.. làm nền tảng tư
tưởng trị nước . Triều đình bổ nhiệm quan
chức, từ triều đình đến các châu, huyện,
tỉnh . Lưu Bang lúc đầu chỉ biết dùng mưu sĩ và khinh
bỉ Nho sĩ. Sau khi thắng Hạng Vũ, ông từng có thái
độ vô học : giật chiếc mũ của một Nho sĩ và đái
lên trên và tuyên bố : Ta
cầm gươm ngồi lưng ngựa mà được cả thiên hạ, ta há
cần đến bọn Nho sĩ.
Mưu
sĩ Trần Bình đã tâu : Bệ
hạ ngồi trên lưng ngựa mà được cả thiên hạ, nhưng
bệ hạ có thể ngồi trên lưng ngựa mà trị nước được
sao ?
Hán
Cao Tổ tỉnh ngộ, hối lỗi trọng dụng Nho sĩ. Sau khi
diệt các công thần, bãi bỏ dần chế độ phong kiến :
phong đất, phong vương cho các quan võ. Triều nhà Hán đã
cho tổ chức thi cử các khoa Hiếu Liêm và Mậu Tài, triều
đình trực tiếp tuyển lựa quan văn để trị nước .
Đổng Trọng Thư, Chu Hy là Nho gia được trọng dụng đời
Hán đã phát huy tinh túy của Nho Giáo. Chế độ
Trung ương tập quyền này không thể gọi là phong kiến
như Tây Phương, mà chỉ có thể gọi là chế độ Quân
chủ. Nhà Tây Hán (202 TCN-9) kinh đô ở Trường An,
sau loạn Vương Mãng (10-22), Hoàng thân Lưu Tú khôi
phục, lên ngôi Hán Quang Vũ Đế lại lập ra nhà Đông
Hán (23-220) kinh đô ở Lạc Dương rồi từ năm 196 dời
về Hứa Đô.
Những
năm cuối của triều đại 198-280. Triều đình suy yếu,
Trung Quốc rơi vào cảnh loạn lạc. Vua tin dùng bọn hoạn
quan, khinh rẽ hiền tài, đắm mê tửu sắc, bỏ quên
chính sự, triều đình đổ nát, cuộc sống nhân dân lầm
than, giặc giả nổi lên khắp nơi. Loạn Khăn Vàng của
anh em Trương Giác với mấy vạn quân. Nhiều anh hùng hào
kiệt xuất hiện : Ba anh em kết nghĩa Lưu Bị, Quan
Vũ, Trương Phi. Quan Thừa ở Hạ Phi là Tôn Kiên. Quan Kỵ
Đô úy Tào Tháo. Họ giúp triều đình dẹp được loạn.
Nhưng nhà vua vẫn tiếp tục con đường cũ, hoạn quan
lộng hành. Thứ Sử Tây Lương là Đổng Trác truất vua,
lập vua mới, rồi tự phong là Tướng Quốc. Đổng Trác
lộng quyền, các quan các nơi phẩn nộ, Kỳ Hương hầu
Viên Thiệu hội quân các nơi về đánh, quân đội tan
rả chia thành nhiều mảnh. Viên Thiệu chết, cuộc tranh
quyền lực này đi đến thế Tam Quốc chia ba Trung Quốc
: Lưu Bị đất Thục. Tào Tháo nhà Ngụy. Tôn Quyền
nhà Ngô.
Thành
Hứa Châu nơi vua nhà Hán đóng đô. Họ Tào cướp cơ đồ
nhà Hán ở chốn này. Tào Phi (187—226) bắt vua Hiến Đế
nhường ngôi cho mình năm 220, năm thứ 25 đời Kiến An,
đổi quốc hiệu là Ngụy. Nền đài nơi nhận ngôi
vua không còn thấy nữa. Chỉ thấy đêm đêm gió mưa réo
gào. Từ cổ xưa đến nay được nước đều lấy chính
nghĩa. Sao lại lừa vợ góa dối con côi của người ta ?
Ý nói Hoàng Hậu vợ của vua Linh Đế và vua
Hiến Đế là con Linh Đế. Ngụy nhận ngôi của Hán
nhường. Tấn lại nhận ngôi của Ngụy nhường . Họ
Tào. Tào Tuấn, Ngụy Minh Đế làm vua 13 năm hoang dâm xa
xỉ, chết sớm, con Tào Phương còn nhỏ tuổi. Quyền
chính trong tay Tào Sảng và Tư Mã Ý. Tư Mã Ý
đảo chính nắm trọn quyền, đời con Tư Mã Viêm, bắt
vua Ngụy nhường ngôi, lập nên nhà Tấn. Trước sau đều
đi theo một con đường ấy. Nhà Ngụy mất, nhà Tấn nối
đổi thay triều đại, từ ấy đến nay đã mấy ngàn năm
rồi ? Trong khoảng thời gian ấy biết bao kẻ dấy
lên rồi sụp đổ, mà toà thành cao ngất vẫn chưa từng
thay đổi. Ngoài thành núi vẫn xanh như ngày xưa. Lũ gian
hùng cướp ngôi có kẻ nào còn đâu ? Tôn miếu nhà
Hán đã không còn dấu vết, vườn, lăng nhà Ngụy cũng
đổ nát tan tành. Một miếng đất rộng ở trong thành.
Giữa trưa người đến họp chợ chen nhau mua bán. Duy có
cái việc năm thứ hai mươi lăm đời Kiến An. Thành bia
miệng để đời không bao giờ mất. Khiến ta(Nguyễn Du)
từ xa đến suy nghĩ hoài. Lưu tiếng thơm, để tiếng
thối xưa nay đều có cả. Toà thành cao ngất nổi tiếng
đứng giữ đường cái quan. Bọn gian hùng đến đây, ắt
phải thấy ớn lạnh trong lòng.
THÀNH
HỨA ĐÔ CŨ
Thành
Hứa Châu kinh đô nhà Hán,
Họ
Tào tranh ngôi Hán ở đây.
Nền
đài nơi nhận trao ngôi,
Thấy
ngày đêm gió mưa bay thét gào.
Từ
cổ được nước từ chính nghĩa,
Sao
lại lừa vợ góa con côi ?
Trước
sau đều một đường thôi,
Ngụy
soán ngôi Hán, Tấn ngôi Ngụy nhường.
Ngụy
mất, Tấn đổi thay triều đại,
Từ
đến nay đã trải ngàn năm,
Dấy
lên sụp đổ bao lần,
Tòa
thành cao ngất vẫn còn trơ trơ.
Ở
thành ngoài, núi xanh xanh mãi,
Gian
hùng xưa, ngôi cũ có còn ?
Miếu
đường nhà Hán nát tan,
Vườn
lăng nhà Ngụy, cũng hoang phế rồi !
Một
miếng đất trong nơi thành rộng,
Còn
chợ trưa người đến họp chen.
Năm
hai lăm đời Kiến An,
Thành
bia miệng để tiếng vang muôn đời.
Ta
từ xa đến hoài suy nghĩ,
Lưu
hương thơm, tiếng thối xưa nay !
Tòa
thành cao ngất còn đây,
Gian
hùng qua đó sởn gai lạnh mình.
Thơ
Nguyẽn Du, Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
CỰU
HỨA ĐÔ
Hứa
Châu thành, Hán đế đô.
Tào
thị vu thử di Hán đồ.
Thụ
thiện đài cơ dĩ bất kiến,
Phong
vũ dạ dạ do hào hô.
Tự
cổ đắc quốc đương dĩ chính,
Nại
hà vụ quả nhi khi cô !
Ngụy
thụ Hán thiện, Tấn thụ Ngụy,
Tiền
hậu sở xuất như nhất đồ.
Ngụy
vong, Tấn tục canh triều đại.
Tự
thử hất kim kỷ thiên tải.
Kỳ
trung hưng phế tri kỷ nhân,
Nga
nga thành điệp hà tằng cải.
Thành
ngoại thanh sơn tự cựu thì,
Gian
hùng soán thiết nhân hà tại ?
Hán
nhân tông miếu dĩ vô tung,
Ngụy
nhân viên lăng diệc đồi bại.
Đãng
đãng thành trung nhất phiến thổ,
Đình
ngọ thị nhân xu mại mãi.
Duy
hữu Kiến An nhị thập ngũ niên sự,
Nhân
khẩu thành bi chung bất hoại.
Viễn
lai sử ngã đa trầm ngâm,
Di
xú lưu phương giai cổ câm (kim)
Đột
ngột danh thành đương đại đạo,
Cự
gian đáo thử ưng hàn tâm.
Tào
Tháo (1355-220) tự Mạnh Đức, sinh huyện Tiêu, nước Bái,
ông là một nhà chính trị, quân sự kiệt xuất cuối
thời Đông Hán. Ông đặt cơ sở cho thế lực quân sự
miền Bắc Trung Quốc, lập nên chính quyền Tào Ngụy
thời Tam Quốc.
Gần
2000 năm qua Tào Tháo là một chủ đề gây tranh cải nhiều
nhất trong lịch sử Trung Quốc. Do ảnh hưởng của La
Quán Trung tác giả Tam Quốc Chí. Tào Tháo trở thành một
nhân vật phản diện, một nghịch thần thao túng quyền
lực nhà Hán, một tay gian hùng, Tào Tháo là biểu tượng
sự dối trá vô liêm sĩ. Các thi hào Nguyễn Du, Phan
Huy Ích cũng không thoát khỏi ảnh hưởng ấy.
Trường
phái bênh vực Tào Tháo nhìn nhận: Tào Tháo có công dẹp
loạn Khăn Vàng và Đổng Trác, đánh bại Lữ Bố, Viên
Thiệu, nhưng thất bại khi xuống phía Nam gặp sự kháng
cự của liên minh Tôn – Lưu chấm dứt khả năng thống
nhất đất nước Trung Quốc khi ông còn sống. Hành động
“Phụng thiên tử để lệnh chư hầu “ của ông khai
sáng ra một tiền lệ mới cho những đế vương khai quốc
đời sau học theo, điển hình thành công là Đường Cao
Tổ Lý Uyên. Ở nước ta vua Lê Thái Tổ, Lê Lợi cũng đã
từng mượn danh Trần Cảo con cháu nhà Trần để lập
nên một triều đại mới, khi chưa đủ uy tín quần
chúng. Được làm vua, thua làm giặc. Vương triều
Tào Ngụy, lúc ông còn sống, vì chưa thành công hoàn toàn
đại nghiệp thống nhất nên dưới mắt nho giáo truyền
thống Tào Tháo chỉ là một gian tặc, phản nghịch.
Triều
Hán cuối đời Đông Hán đã mục nát, vua không còn ra
vua, nghe lời bọn hoạn quan, chơi bời trác táng, xua đuổi
người hiền tài, dân chúng đói kém, mất mùa, hạn hán,
giặc giả nổi lên khắp nơi, triều đình không đủ
sức đánh dẹp, nếu không có Tào Tháo thì đất nước
Trung Quốc cũng rơi vào tay loạn Khăn Vàng, hay vào tay các
gian thần như Đổng Trác. Chính thời loạn lạc đã xuất
hiện nên Tào Tháo. Hứa Thiệu danh sĩ nhà bình luận danh
tiếng đương thời đã đánh giá khi Tào Tháo hỏi ông
đánh giá mình như thế nào : ông thẳng thừng viết sẽ
là “Năng thần (quan giỏi) thời trị, và gian
hùng thời loạn.
Tào
Tháo là người thông minh, ham đọc sách, nhất là sách
binh thư, có quyền biến hơn người, nhiều mưu mẹo. Di
Đồng Tạp ngữ chép: “Tào Tháo tài võ giỏi hơn người
khó có thể làm hại, tinh thông sử sách, lại giỏi binh
pháp. Bộ Binh Pháp Tôn Tử được lưu truyền đến nay
đều là chú giải của Tào Tháo. Tào Tháo có viết binh
thư nhưng thất truyền”. Huyền Kiều quan Thái Úy đương
thời đã nói với Tào Tháo: “Thiên hạ tất loạn, không
có tài cái thế thì không trị được, người dẹp an
được thiên hạ tất là ông vậy. “
Tào
Tháo năm 20 tuổi đã đỗ Hiếu Liêm. Được quan Kinh
Triệu Doãn tà Tư Mã Phòng (Cha Tư Mã Ý) tiến cử chức
Bắc Bộ Úy, coi giữ phía bắc kinh thành Lạc Dương, ông
đã nổi tiếng là người nghiêm túc. Sau khi đến nhiệm
sở, ông cho đặt roi ngũ sắc trước công đường, hể
ai phạm tội đều trừng trị thẳng tay. Chú của đại
thần Kiến Thạc, là Kiến Thúc phạm tội vác dáo đi
đêm. Ông sai bắt vào phủ đánh roi thẳng thừng, không
nể vì. Gia thế Tào Tháo rất lớn nên vụ này ông không
bị rắc rối, tiếng tăm ông vang dội từ đó.
Tào
Tháo giữ chức tướng quốc Tế Nam, ông liên tiếp đứng
ra tố cáo và trừng trị quan lại phạm pháp, và phá 600
miếu thờ triều đình không cho phép thờ cúng.
Năm
184 khởi nghĩa Khăn Vàng của Trương Giác. Tào Tháo dẹp
loạn thành công được vua Hán Linh Đế phong làm Điển
Quân Hiệu Úy.
Tào
Tháo tổ chức đồn đìền dân sự và quân sự. Chiêu dụ
những nông dân lang thang, tập trung lại xây dựng đồn
điền. Họ được cấp nông cụ, hạt giống, để tự
canh tác, rồi dựa vào số thu hoạch để thu tô. Nhờ áp
dụng chính sách này mà những nơi ông cai trị có đủ
lương thực để dùng. Ông cử Nhâm Tuấn làm Điền Nông
trung lang tướng, chủ quản việc chấn hưng nông nghiệp
và Cức Đê làm Đồn Điền đô uý. Đồn điền trở
thành quốc sách họ Tào. Quốc sách này trở thành mẫu
mực được áp dụng tại Đông Á các đời sau.
Tào
Tháo còn là một nhà thơ xuất sắc: ông và hai con trai là
Tào Phi và Tào Thực, đời sau gọi là Tam Tài, cùng nhóm
Kiến An thất tử và cùng Thái Diễm hình thành trào lưu
mới văn học thời Hán Mạt gọi là Kiến An phong cốt.
Tào
Tháo đã để lại một điển tích văn học tuyệt đẹp
là đem ngàn vàng, ngọc chuộc nàng Thái Diễm bị lưu lạc
bán sang đất Hồ. Nàng Thái Diễm (177- ?) hay Sái Diễm tự
Chiêu Cơ, Văn Cơ có tài văn thơ, đánh đàn, thổi kèn.
Cha bà là Tháu Ung (132-192) một nhà văn nhà sử học, danh
tiếng làm quan thời Đông Hán. Bị quân Đổng Trác bắt,
lưu lạc sang đất Hồ ở 12 năm, lấy người Hồ
có hai con. Tào Tháo là bạn thân Thái Ung thương xót
tài dùng ngàn vàng chuộc nàng về, nhưng hai con bị bắt
ở lại. Thái Diễm để lại tác phẩm Bi phẩn thi và Hồ
Già thập bát phách. Bài thơ tự sự nổi tiếng nhất tả
cảnh nàng bị bắt đi, lưu lạc xứ Hồ và cảnh chia tay
hai con trở về. Ngàn
vàng âu cũng nên mua lấy tài
(Kiều).
Ai
chuộc tiếng kèn về Hán khuyết.
Lòng
ta luống thẹn biệt Hồ môn
(Hồ
Xuân Hương – Lưu Hương Ký, Họa thơ Quan Hiệp Trấn Sơn
Nam Hạ Trần Quang Tĩnh) là từ điển tích này.
Phan
Huy Ích Chánh Sứ sứ đoàn Tây Sơn năm 1790 cũng có
ghé qua thành Hứa Châu. Ông viết bài thơ Nghỉ ở thành
Hứa Châu nhớ lại sự tích Tào Man, chép trong Tinh Sà Kỷ
Hành. Thơ Văn Phan Huy Ích, Dụ Am Ngâm Lục tập III.. Nxb
KHXH. Hà Nội 1978. Tr 127.
Di
tích Hứa Đô mờ mịt không nghe thấy gì. Đương thời
dựa vào cố quân Hán Hiến Đế để dòm ngó vạc báu.
Tào Tháo dựa vào hư danh của Thiên tử để ra mệnh lệnh
cho các quan triều đình. Thay thế ngôi vua ngầm truyền
lại cho con mình, thế tử Tào Phi. Sau khi Tào Tháo
chết, Tào Phi lên thay và đoạt ngôi nhà Hán rồi xưng đế
hiệu : Ngụy Văn Đế. Chức để mộ phần vờ mượn
tiếng tướng quân nhà Hán. Theo sử, Tào Tháo vẫn tự
xưng mình là tướng nhà Hán, hàm chức và phần mộ Tào
Tháo vẫn đề Hán Tướng quân. Thuật ma quỉ của gian
hùng làm ô uế sử xanh. Dáng mùa thu của lư tỉnh chiếu
lên mây biếc. Câu này có ý sau khi Tào Tháo chết đất
Hứa Châu vẫn đẹp. Lư tỉnh theo cổ chế về phép tỉnh
điền, chia nhà cửa, ruộng đất theo hình chữ tỉnh. Cứ
tám gia đình là một tỉnh, những nhà cửa trong khu vực
ấy gọi là lư tỉnh. Ngày nay tại các thành phố cổ
Trung Quốc vẫn còn những Hutong, du khách thường được
thăm viếng tám gia đình ở đối mặt nhau chung quanh một
khoảng sân rộng, ruộng đất chung quanh. Đồng Tước,
ngôi đài do Tào Tháo xây dựng ở phía Tây huyện Lâm
Chương đã mai một. Nào ai hỏi nghi phần Tào Tháo trên
cao nguyên hoang vắng. Tào Tháo cho xây 72 ngôi mộ giả, để
đời sau khó phát hiện nấm mộ nào chôn hài cốt mình,
vì thế mà gọi là nghi phần (mả ngờ, hay mả gió).
NGHỈ
Ở THÀNH HỨA CHÂU NHỚ LẠI SỰ TÍCH TÀO MAN
Di
tích Hứa Đô thảy mịt mờ,
Dựa
hơi Thiên tử ngó ngôi vua.
Ngôi
Tào Thế tử ngầm truyền lại,
Tướng
Hán mộ phần mượn chức vờ.
Thuật
quỷ gian hùng ô uế sử,
Dáng
thu lư tỉnh chiếu mây xưa.
Đồng
Tước chốn xưa nhòa dấu vết,
Mộ
phần ai hỏi cõi hoang sơ ?
Thơ
Phan Huy Ích, Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
TÚC
HỨA CHÂU THÀNH TRUY ỨC TÀO MAN CỐ SỰ
Hứa
đô di tích mịch vô văn,
Khuy
đỉnh đương sơ hiệp cố quân.
Thiện
đại ám di Tào thế tử,
Mộ
hàm hư thác Hán tướng quân.
Gian
hùng quỉ thật ô thanh giản,
Lư
tỉnh thu dung chiếu bích vân.
Đồng
Tước cựu du nhân một tận,
Hoang
nguyên thùy phục phỏng nghi phần.
NGUYỄN
DU THĂM ĐỒNG TƯỚC ĐÀI
Nguyễn
Du đến thành Nghiệp, bên bờ sông Chương, tức Chương
Giang thủy, sông chảy từ tỉnh Hà Bắc ngang tỉnh
Sơn Tây và tỉnh Phúc Kiến. Ở đoạn sông chảy qua huyện
Lâm Chương, tỉnh Hà Bắc tại Nghiệp Quân, Tào Tháo cho
xây đài Đồng Tước, và cũng nơi này Tào Tháo cho xây
72 ngôi mộ giả để đánh lừa kẻ thù phá mộ và trộm
đào mộ. Nguyễn Du qua nơi này cũng trong khoảng
tháng 8 năm Quý Dậu (1813). Khi đào đất xây móng người
ta có tìm ra một con chim sẻ bằng đồng, cho nên đặt
tên lầu là Đồng Tước Đài.
Anh
hùng một thuở giờ nơi đâu ? Người sau đi qua rồi,
người nay lại tới. Chẳng thấy Ngụy Vũ Đế trong thành
Nghiệp. Ngụy Vũ Đế tức Tào Tháo (155-220) tự là Minh
Đức, người đất Tiểu, nước Bái (nay là huyện Hào
tỉnh An Huy) Táo Tháo làm đến Thừa Tướng, phong
Ngụy Vương. Sau khi Tào Tháo chết con là Tào Phi, phế bỏ
nhà Hán, lên làm vua truy tôn Tào Tháo là Ngụy Vũ Đế.
Chỉ thấy Đài Đồng Tước ở bên sông. Nền đài tuy
còn nhưng đã nghiêng lỡ. Gió lạnh réo gào giận dữ,
cỏ thu tàn úa. Hai lầu Ngọc Long và Kim Phụng đều mịt
mờ dấu vết. Hai to lầu hai bên có cầu thông với đài
Đồng Tước. Huống chi là những ca nhi, vũ nữ ở trong
đài. Người ấy (Tào Tháo) lúc thịnh ai mà dám chống
lại ? Tào Tháo xem thường nhà vua và lấn lướt các
vương hầu. Chỉ hận mấy tầng đài xây cao sừng
sững. Mà nàng Tiểu Kiều đến già vẫn là vợ của Chu
Lang. Tiểu Kiều là vợ Chu Du, Đô đốc thống lĩnh quân
Ngô. Khổng Minh khích Chu Du đánh Tào Tháo, xuyên tạc bài
phú của Tào Thực con Tào Tháo, đọc cho Chu Du nghe, ý nói
là Tào Tháo xây đài Đồng Tước để bắt hai chị em
Đại Kiều (vợ Tôn Sách) và Tiểu Kiều (vợ Chu Du) đem
về nhốt ở đài này .
Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều
(Kiều-
Nguyễn Du). Chu Du nổi giận quyết đánh Tào Tháo,
diệt tám mươi vạn quân Tào ở trận Xích Bích. Một
mai hạn lớn xảy đến. Dâng thức ăn tấu ca nhạc chỉ
làm vui lòng hồn ma. Chia hương bán giày, khổ tâm dặn dò
cặn kẽ. Tào Tháo lúc sắp chết dặn dò các tỳ thiếp,
hằng ngày phải cúng Tào Tháo bằng các món ăn mà Tháo
thích lúc còn sống và có các vũ nữ múa hát để hầu
trong bữa cúng để làm vui cho y. Tào Tháo lại chia
các thứ phấn sáp, giày thêu, khăn lụa cho các
tỳ thiếp để họ bán lấy tiền khi túng thiếu. Bậc
trượng phu lỗi lạc sao như thế ? Kẻ gian hùng riêng có
mưu thâm khác trong lòng. Chẳng phải kêu thương ủy mị
như tính khí đàn bà ? (Câu này Nguyễn Du ngược lại với
câu Thiên
hạ hà nhân khóc tố như,
nếu hiểu Tố Như là Nguyễn Du). Nhưng dù muôn khéo nghìn
khôn cũng trở thành hư không hết. Từ ngàn xưa đau lòng
nước sông Chương. Ta nghĩ người xưa, xót nỗi mình. Bồi
hồi ngẩng lên cúi xuống, thương kiếp phù sinh. Anh hùng
đến như thế mà như thế. Huống nữa là những kẻ chỉ
có chút công mọn và cái hư danh mỏng manh. Nghiệp
lớn ở đời nếu còn mãi được. Thì toà đài cao ở
khoảng đất này chắc chưa bị đổ !
ĐỒNG
TƯỚC ĐÀI
Anh
hùng một thuở còn đâu nhỉ ?
Người
trước qua rồi đến người nay.
Chẳng
thấy Thành Nghiệp, Ngụy Vũ Đế,
Chỉ
thấy bên sông, Đồng Tước
Đài.
Nền
đài còn đó đài nghiêng lỡ,
Gió
lạnh gào, thu cỏ úa tà.
Ngọc
Long, Kim Phụng mờ mịt đổ,
Còn
nói làm chi, gái múa ca !
Người
ấy thịnh thời ai dám chống,
Xem
thường Hoàng đế, lẫn Vương tôn.
Hận
mấy tầng đài cao ngất bóng,
Tiểu
Kiều già vẫn vợ Chu Lang.
Một
buổi vận cùng tai hạn đến,
Dâng
cơm tấu nhạc vui hồn ma.
Chia
hương, bán giầy khổ tâm dặn,
Trượng
phu lỗi lạc ra thế a ?
Gian
hùng riêng có mưu khuynh đảo,
Chẳng
phải khóc than như nữ nhi.
Muôn
khéo nghìn khôn thành mộng ảo,
Sông
Chương nghìn thuở gửi sầu bi.
Ta
nghĩ người xưa xót nỗi mình,
Bồi
hồi cúi ngẩng, kiếp phù sinh,
Anh
hùng đến thế mà như thế
!
Huống
kẻ công danh quá mỏng manh.
Trên
đời nghiệp lớn đâu bền mãi,
Đài
đây đâu phải đổ tan tành.
Nhất
Uyên dịch thơ
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
ĐỒNG
TƯỚC ĐÀI
Nhất
thế chi hùng, an tại tai ?
Cổ
nhân khứ hề kim nhật lai.
Bất
kiến Nghiệp trung Ngụy Vũ Đế,
Đãn
kiến giang biên Đồng Tước Đài.
Đài
cơ tuy tại dĩ khuynh dĩ,
Âm
phong nộ hào thu thảo mĩ,
Ngọc
Long, Kim Phụng tận mang mang.
Hà
huống đài trung ca vũ kỹ .
Tư
nhân thịnh thời, thùy cảm đương
?
Diểu
thị hoàng đế, lăng hầu vương,
Chỉ
hận tằng đài không luật ngột,
Tiều
Kiều chung lão giá Chu Lang.
Nhất
triêu đại hạn hữu thì chí,
Thượng
thực tấu ca đồ duyệt quỷ.
Phân
hương mại lý khổ đinh ninh,
Lạc
lạc trượng phu hà nhĩ nhĩ
?
Gian
hùng biệt tự hữu cơ tâm,
Bất
thị minh ai, nhi nữ khí,
Thiên
cơ vạn xảo tận thành không,
Chung
cổ thương tâm Chương Giang
thủy.
Ngã
tư cổ nhân thương ngã tình,
Bồi
hồi phủ ngưỡng bi phù sinh.
Như
thử anh hùng thả như thử,
Huống
hồ thốn công dữ bạc danh.
Nhân
gian huân nghiệp nhược trường
tại,
Thử
địa cao đài ưng vị khuynh
Sau
khi xây xong Đồng Tước Đài, Tào Tháo ra lệnh
các con làm thơ phú ca tụng vẻ đẹp thắng tích. Tào
Thực (192-232) con thứ ba của Tào Tháo, em của Tào
Phi lúc đó mới 10 tuổi đã viết một bài phú tuyệt tác
khiến cho Tào Tháo vui mừng và kinh ngạc. Tào Phi bắt
đầu ganh tỵ với em từ đó. Bài thơ lưu truyền,
Khổng Minh lấy câu thơ Liên
nhị kiều đông tây hề. Nhược trường không chi đế
đồng
(hai
chiếc cầu nối Đông Tây, nối hai đài Ngọc Long và Kim
Phụng) đổi thành: Lãm
Nhị Kiều ư Đông Tây hề. Lạc triêu tịch chi dữ cộng.
Bắt
hai nàng Kiều, Đại Kiều vợ của Tôn Sách và Tiểu Kiều
vợ Chu Du khi đánh bại Đông Ngô về giam trong Đài
Đồng Tước..
Khổng
Minh bảo với Chu Du: Tào Tháo lập Đài Đồng Tước mục
đích khi thắng trận sẽ bắt hai người vợ của Tôn
Sách và Chu Du về giam nơi này. Chu Du tức giận nhất
quyết đánh Tào Tháo trận Xích Bích, Khổng Minh giúp Chu
Du dùng hỏa công đốt cháy 80 vạn quân và toàn bộ chiến
thuyền Tào Tháo đóng tại Xích Bích trên sông Trường
Giang.
Bài
Đồng Tước Đài trở thành một áng văn giai thoại lịch
sử liên hệ đến trận đánh danh tiếng Trung Quốc. Tô
Đông Pha đã viết hai bài phú danh tiếng: Tiền Xích Bích
và Hậu Xích Bích. Nhiều sứ thần Việt Nam đi qua
nơi này có thơ vịnh cảnh Xích Bích.
Tào
Thực tự Tử Kiến, còn gọi Trần Tư Vương, một nhà
thơ danh tiếng trong Văn nhân Trung Quốc thời Kiến An.. Ba
cha con Tào Tháo, Tào Phi, Tào Thực làm lãnh tụ trên thi
đàn: Tháo có giọng trầm hùng, Phi thì sầu nhã. Thực đa
tài hơn cả, thơ vừa diễm lệ, lâm ly, cao kỳ. Tạ
Linh Vận (385-433) đời Đông Tấn ca ngợi “Văn
chương trong thiên hạ có cả thảy một thạch (10 đấu),
riêng Tử Kiến (Tào Thực) chiếm hết tám.”
Tào
Thực thương một người con gái đẹp tên Chân Thị, vốn
là dâu Viên Thiệu, bắt được trong trận đánh Viên
Thiệu, nhưng Tào Tháo lại cưới cho Tào Phi. Tào
Thực nằm mộng thấy gặp lại Chân Thị bên bờ sông
Lạc Thy nàng tặng cho chiếc áo gối, khi thức giấc Tào
Thực viết Cảm Chân phú tả thiên tình sử cuả mình.
Năm
220 Tào Tháo mất, Tào Phi kế thừa địa vị cha, ép vua
Hán Hiến Đế (189-220) nhường ngôi, và tự xưng Hoàng đế
nhà Ngụy. Tào Phi và con là Tào Tuấn (205-239) kiếm đủ
cách bức hại Tào Thực. Một lần giữa triều Tào Phi
buộc tội Tào Thực, ép phải làm bài thơ về anh em,
nhưng không được nói hai tiếng anh em, phải làm trong bảy
bước nếu không bị chém đầu:
Tào
Thực vừa rơi nước mắt vừa đọc:
Chữ
đậu nhiên đậu cơ
Đậu
tại phù trung khấp.
Bổn
thị đồng càn sinh,
Tương
tiễn hà thái cấp.
dịch:
Nấu
đậu bằng dây đậu,
Đậu
ở trong nồi khóc,
Rằng
cùng một gốc sinh,
Đốt
nhau sao mà gấp.
Tào
Thực được tha, tuy được mang tước Vương (Đông A
Vương, Trần Tư Vương), nhưng trong 10 năm, bị thuyên
chuyển 6 lần, và cuộc sống gần như bị giam lỏng. Các
tay chân như Đinh Nghi, Đinh Dực bị giết. Ông chạy
ngược, chạy xuôi, lo âu tiều tụy, không có một
ngày yên tỉnh, nghỉ ngơi, thơ văn ông viết với nỗi
buồn u uất, ông chết trong uất hận năm 40 tuổi. Ông để
lại Trần Tư Vương tập gồm khoảng 80 bài thơ và 40 bài
phú, tản văn.
Buổi
đầu thơ Tào Thực là những bài văn tiến thủ lập
công: Đông Chinh phu (bài phú đánh Ngô Tôn Quyền), Chinh
Thục Luận (Đánh Thục) Về sau khi bị anh và cháu chèn
ép, ông viết u uất, bi thương : Bàn về con chim sẽ vàng
ngoài đồng, Bài phú về con chim cắt, Tự than thân, Tặng
Bạch Mã Vương Bưu. Hay tả nỗi khổ dân chúng: Khuê tình
( Tâm tình phòng khuê), Khí phụ thán( người vợ bị
ruồng bỏ),Thất ai thi (Bảy nỗi buồn đau).
BÀI
PHÚ ĐÀI ĐỒNG TƯỚC (TÀO THỰC)
Nơi
đức sáng chừ Vua rạng rỡ,
Lên
lầu đài lòng xuân hớn hở.
Xem
công Thái phủ chừ chăm dân,
Quan
đức trọng thấm nhuần dinh sở.
Đài
nguy nga giữa không trung bát ngát,
Dựng
lên giữa lưng trời xanh ngắt.
Cảnh
đẹp nào kém tiên bồng,
Thành
Tây liền nhau lầu với gác.
Dòng
Chương thủy chảy dài thông suốt,
Quả
tươi ngon, vườn xanh tốt.
Hai
bên tả hữu chừ hai đài,
Ngọc
Long, Kim Phụng tiếp bước.
Hai
cầu chừ đông tây nhịp nối .
Như
cầu vòng không gian sáng chói.
Hoàng
đô chừ nhìn xuống cõi trần,
Mây
chiều, ráng đỏ bay trôi nổi.
Mừng
vui anh tài chừ qui tụ,
Ứng
mộng Văn Vương chuyện cũ.
Gió
xuân đầm ấm chừ đưa hương,
Trăm
chim hát vang từng đàn lũ.
Phúc
nhà dài lâu chất chở,
Cao
đẹp chừ trời mây muôn thuở.
Khắp
cùng vũ trụ nhiệm mầu,
Thượng
kinh về chầu đủ cả.
Tề
Hoàn, Tấn Văn chừ hưng thịnh,
Phò
thánh minh công lao sánh trọng.
Vững
biết bao! đẹp biết bao!
Ơn
sâu, đức vọng !
Giúp
hoàng gia chừ trị nước,
Bốn
phương an lạc,
Phép
trời khuôn đất chừ đo lường,
Tỏa
sáng hòa cùng nhật nguyệt.
Mãi
mãi chừ truyền xa tôn quý,
Với
chúa xuân vô cùng thọ hỷ.
Theo
long kỳ chừ buổi ngao du,
Theo
xe loan trở về cung kỷ.
Ơn
giáo hóa chừ tràn bốn biển,
Vui
mừng thay điều lành hiển hiện.
Đài
này chừ đứng mãi hiên ngang,
Điểm
tô cổ kim danh tiếng.
Phú
Táo Thực, Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
ĐỒNG
TƯỚC ĐÀI PHÚ (TÀO THỰC)
Tòng
minh hậu dĩ hì du hề,
Đăng
tằng đài, dĩ ngu tình.
Kiến
Thái phủ dư quảng khai hề,
Quan
Thánh đức chi sở dinh.
Phù
song khuyết hồ thái thanh,
Lập
trung thiên chi hoa quan hề,
Liên
phi các hồ Tây thành,
Lâm
Chương thủy chi trường lưu hề.
Vọng
viên quả chi tư vinh.
Lập
song đài ư tả hữu hề.
Hữu
Ngọc Long dữ Kim Phụng,
Liên
nhị kiều ư đông tây hề.
Nhược
trường không chi đế đồng.
Phủ
hoàng đô chi hoành lệ hề,
Khám
vân hà chi phù động.
Hán
quần tài chi lai tuy hề,
Hiệp
phi hùng chi cát mộng.
Ngưỡng
xuân phong chi hòa mục hề,
Thính
bách điểu chi bi minh.
Vân
thiên tuyên kỳ ký lập hề,
Gia
nguyện đắc hồ song sinh.
Dương
nhân hóa vu vũ trụ hề,
Tận
túc cung vu thượng kinh.
Duy
Hoàn, Văn Chỉ duy thịnh hề,
Khởi
túc phương hồ thánh minh.
Hưu
hỹ ! mỹ hỹ !
Huệ
trạch viễn dương.
Dực
tối ngã hoàng gia hề,
Ninh
bỉ tứ phương.
Đồng
thiên địa chi quy lượng hề,
Tề
nhật nguyệt chi huy quang.
Vĩnh
quý tôn nhi vô cực hề,
Hồi
loan giá nhi chu dương.
Tư
hóa cập hồ tứ hải hề,
Gia
vật phụ nhi dân khang.
Nguyện
tư đài chi vĩnh cô hề,
Lạc
chung cổ nhi vi hương.
NGUYỄN
DU THĂM MỘ CHU DU VIẾT VỀ TRẬN XÍCH BÍCH
Chu
Lang tức Chu Du, tự Công Cẩn làm đô đốc quân
Đông Ngô, làm tướng lúc mới 24 tuổi nên được gọi
là Chu Lang. Đánh bại quân Tào Tháo ở trận Xích Bích
nhưng Chu Lang đã bị Khổng Minh khích, thổ huyết chết
lúc 36 tuổi. Tào Tháo đem tám mươi vạn quân xuống
đánh Đông Ngô. Chu Du liên kết với Khổng Minh quân sư
của Lưu Bị, dùng hỏa công, và dùng mưu khiến Tào
Tháo dùng xích sắt kết các chiến thuyền tại Xích Bích
trên sông Trường Giang đã tiêu diệt toàn bộ quân Tào
Tháo. Chiến công như thế làm trượng phu cũng thỏa chí
bình sinh. Chu Du là bạn cùng tuổi vừa là anh em bạn rể
với Tôn Sách.. Chu Du giỏi quân pháp, lắm mưu kế, nhưng
mọi mưu kế của Chu Du đều bị Khổng Minh đoán biết
rồi chọc tức Chu Du ba lần khiến Chu Du tức giận thổ
ra máu rồi chết. Cung điện nhà Ngô thành đống gạch
vụn, cơ nghiệp đế vương tan tành. Ngôi mộ cổ
gai góc mọc đầy, còn nức tiếng anh hùng. Xương
cốt hai nàng Kiều chôn vùi nơi nào. Đại Kiều và Tiểu
Kiều là hai chị em ruột. Đại Kiều là vợ Tôn Sách,
Tiểu Kiều là vợ Chu Du. Mắt thấy một nửa đài Đồng
Tước đã nghiêng đổ.
MỘ
CHU LANG
Trăm
vạn quân Tào đốt sạch không,
Trượng
phu chí lớn thỏa bình sinh.
Đồng
niên bạn rể cùng Tôn Sách,
Tri
kỷ một đời có Khổng Minh.
Ngói
vỡ Ngô cung tàn đế nghiệp,
Còn
đây cổ mộ tiếng anh hùng.
Xương
cốt hai Kiều đâu đó nhỉ ?
Đồng
Tước đài nghiêng rõ mắt trông.
Thơ
Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt :
CHU
LANG MỘ
Thiêu
tận Tào gia bách vạn binh,
Trượng
phu sai túc úy bình sinh.
Đồng
niên giao nghị liên Tôn Sách.
Nhất
thế tri âm đắc Khổng Minh.
Ngõa
lịch Ngô cung hoang đế nghiệp,
Kinh
trăn cổ mộ thượng hùng danh.
Nhị
Kiều hương cốt tàn hà sở ?
Nhãn
kiến Đồng đài bán dĩ khuynh.
NGÔ
THÌ NHẬM THĂM MIẾU THỜ CHƯ CÁT VŨ HẦU
Ngô
Thì Nhậm làm Chánh Sứ năm 1792, sang báo tang vua
Quang Trung mất và cầu phong cho vua Cảnh Thịnh, có qua
thăm miếu thờ Gia Cát Vũ Hầu.
Miếu
thờ Khổng Minh ở ngọn núi Hồi Nhạn trên dãy Hành Sơn,
trên hữu ngạn sông Tương, thuộc huyện Hành Dương, phủ
Hành Châu tỉnh Hồ Nam. Chư Cát tức Gia Cát Lượng
(181-234) tự Khổng Minh, ở ẩn ở Ngọa Long Cương đất
Nam Dương, Bàng Đức . Tư Mã Huy bàn luận với với
Lưu Bị : « Bọn nho sinh đời nay chỉ
là phường tục sĩ, hạng tuấn chỉ có hai người là
Ngọa Long Gia Cát Lượng và Phượng Sồ Bàng Thống, được
một trong hai người đó là có thể định được thiên
hạ .» Lưu B ịnăm đó 47 tuổi, ba lần thân hành
đến cầu Khổng Minh năm đó 27 tuổi làm quân
sư. Giỏi mưu lược, Khổng Minh giúp Lưu Bị gây dựng cơ
nghiệp nhà Thục Hán, làm thừa tướng, phong tước Vũ
Hương Hầu gọi tắt là Vũ Hầu.
Rồng
người thác đi lại hiện ra rồng thần. Chân núi đá
dựng tựa bờ sông, vẫn ngóng về miền Hán Trung. Cơ mưu
Bắc Phạt thâm trầm, dường như muốn xua cả bầy nhạn
ra trận. Bắc phạt chỉ việc đánh nước Ngụy. Khổng
Minh sáu lần tiến quân lên phía bắc để đánh Ngụy
« Lục xuất Kỳ Sơn » mong khôi phục cõi
Trung Nguyên nhà Hán, nhưng bị vua Lưu Thiện nghe lời nịnh
thần gọi về làm hỏng kế hoạch. Chim nhạn bay từng
đàn có hàng lối chỉnh tề như ra trận. Mùa thu
chim nhạn bay về phương nam đến núi Hồi Nhạn thì ở
lại đó đợi mùa xuân bay trở về phương bắc. Tác giả
trông thấy cả đàn chim, nhân tưởng đến cơ mưu bắt
phạt Khổng Minh như muốn xua cả bầy nhạn ra trận. Nổi
giận cuộc Đông Chinh còn sót lại, cũng rắp bắt cơn
gió heo may trên sông phải nổi lên. Lưu Bị muốn đánh
Đông Ngô để phục thù cho Quan Vũ bị Ngô giết, còn để
lại mối hận cho Khổng Minh. Lưu Bị đánh Đông Ngô, Gia
Cát Lượng can không được, Lưu Bị bị thua trận ở Hào
Đình, thất bại ở Tỷ Quy. Trước khi chết ủy thác
việc nước cho Khổng Minh.. Cái thế chân vạc xưa
đã khôn tranh sức với trời xanh. Khổng Minh từng lừa
được cha con Tư Mã Ý, tướng Tào Ngụy ở Hồ Lô Cốc,
dùng hỏa công toan đốt chết, nhưng bổng nhiên trời đổ
cơn mưa, cha con Tư Mã Ý chạy thoát. Khổng Minh than :
không thể tranh được với trời.. Chân vạc là thế cục
chia ba Thục Ngụy Ngô thời Tam Quốc. Ngôi miếu ngất
từng mây này, còn lòng nào nghĩ đến. Trông bóng cây
tùng bách, phản phất như ngày vua Thục dừng xe tới thăm
cầu Quân sư. Làn nước thu xanh đất Hành Dương, soi sáng
mãi tấm lòng cô trung.
MIẾU
THỜ CHƯ CÁT VŨ HẦU
Nhân
Long đã khuất, hiện thần long,
Núi
đá bờ sông ngóng Hán Trung.
Bắt
phạt thâm trầm xua nhạn trận,
Đông
Chinh sót lại gió trên sông.
Chân
vạc khôn tranh cùng tạo hóa,
Miếu
tùng bát ngát vọng trời xanh.
Tùng
bách như ngày vua Thục đến,
Hành
Dương soi sáng tấm lòng trung.
Thơ
Ngô Thì Nhậm, Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
CHƯ
CÁT VŨ HẦU MIẾU
Nhân
long hóa khứ hiện thần long,
Tiểu
thạch lâm lưu miện Hán Trung.
Bắc
hướng trầm cơ khu nhạn trận,
Đông
thôn di nộ dịch đồn phong.
Đỉnh
phân vô lực tranh thương hiệu,
Miếu
tự hà tâm ỷ bích không.
Tùng
bách y hy khuynh cái nhật,
Hành
Dương thu thủy chiếu cô trung.
ĐOÀN
NGUYỄN TUẤN, PHAN HUY ÍCH TRƯỚC CẢNH XÍCH BÍCH
Đoàn
Nguyễn Tuấn đi sứ năm 1789-1790 thời Tây Sơn, trong sứ
đoàn đông nhất trong lịch sử 158 người có cả Phạm
Công Trị giả làm vua Quang Trung,, có cả một ban hát bô
10 người, và đồ cống còn có hai con voi đực. Ngang qua
Trường Giang Đoàn Nguyễn Thuấn có làm bài thơ Xích
Bích hoài cổ , chép trong Hải Ông thi tập : Cảnh
đêm trên Trường Giang một màu biếc xanh man mác. Nơi
đây, từng xảy ra trận chiến thời Tam Quốc. Cơ đồ
chia ba chân vạc ( Ngụy, Ngô, Thục) đã sập, mà núi non
vẫn còn sừng sững. Thuyền bè theo kế liên hoàn đã
hết, nhưng sông nước vẫn chảy hoài. Tào Tháo đem nhiều
thuyền đóng rãi rác trên sông Trường Giang : Chu Du
được kế của Gia Cát Lượng cho người sang thuyết Tào
Tháo, xích tất cả các thuyền lại làm thành thế liên
hoàn để lừa, Tào trúng kế theo trận hỏa công sắp
diễn ra giữa Ngô và Ngụy. Lửa thuở Chu Lang còn soi sáng
bờ bãi. Trận hỏa công dữ dội của Chu Du đốt sạch
quân Tào trên sông Trường Giang. Đoàn Nguyễn Tuấn thấy
qua đó ánh lửa bên sông liên tưởng đến sự việc
trên. Gió sót của Gia Cát Lượng cầu phong vẫn
thổi tận bãi xa. Để giúp kế hỏa công của Chu Du. Gia
Cát Lượng tính độ số của khí tượng và biết được
đúng lúc gió Đông nổi lên giữa mùa rét, bèn lập đàn
cầu phong trước lúc gió nổi. Riêng có người khách bị
xua đuổi thời Hy Ninh, còn để vần trúc mai tao nhã trên
đình nhỏ dưới trời thu. Hy Ninh là niên hiệu Tống Thần
Tông. Tân Pháp của Vương An Thạch bị nhiều người
chống lại. Vương phải dùng bạo lực chính trị bãi
truất, tướt bớt vây cánh quyền lực họ. Tô Đông Pha
văn hào đời Tống viết thơ chống lại, bị truất ra ở
Hoàng Châu. Ông làm hai bài thơ Tiền Hậu Xích Bích để
lại danh tiếng đời.
ĐOÀN
NGUYỄN TUẤN
TRƯỚC
CẢNH XÍCH BÍCH NHỚ XƯA
Trường
Giang đêm biếc sắc xanh xanh,
Tam
Quốc nơi đây trận chiến tranh.
Chân
vạc đổ rồi non vẫn đứng,
Thuyền
liên hoàn hết nước trôi nhanh.
Lửa
thuở Chu Lang còn sáng bãi,
Gió
tàn Gia Cát thổi bờ quanh.
Riêng
khách Hy Ninh lưu đất trích,
Còn
thơ mai trúc dưới thu đình.
Thơ
Đoàn NguyễnTuấn, Nhất Uyên dịch thơ.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt :
XÍCH
BÍCH HOÀI CỔ
Trường
Giang dạ sắc bích du du,
Tam
Quốc can qua thử địa đầu.
Phân
đỉnh đồ khuynh sơn tự trĩ.
Liên
hoàn thuyền tận thủy không lưu.
Chu
Lang dư hỏa minh tràng ngạn,
Gia
Cát di phong phất viễn châu.
Độc
hữu Hy Ninh thiên trực khách,
Trúc
mai nhã vận tiểu đình thu.
Đoàn
Nguyễn Tuấn. Hải Ông thi tập. nxbKHXH. Hà Nội 1982 tr
241.
Phan
Huy Ích, Chánh Sứ sứ đoàn 1790 thời Tây Sơn cũng có bài
thơ Dạ Độ Xích Bích Giang Khẩu. Đêm qua cửa sông Xích
Bích. Tại đình Pha Tiên được tiếp rước sứ đoàn, có
ca múa, ánh đèn sáng rực cả trăng sao, ông làm thơ.
Cồn
cát dài dằng dặc, lau lách thưa thớt. Điệu hò mái đẩy
dưới trăng, thi tứ man mác. Chiến địa Tôn Quyền và
Tào Tháo trong khói lạnh. Ải sông miền Kinh Sở đầu kỳ
nước lũ dâng.Sóng trắng cuộn ngang trời, cánh buồm gió
căng phồng. Đèn đỏ bên kia sông, cái thủy đình trống
trải. Ai sẽ nối tiếp sau chuyến đi chơi của Tô Đông
Pha. Cạnh bãi phía trước ghềnh, trơ chiếc thuyền chài
ban đêm le lói ánh đèn.
ĐÊM
QUA CỬA SÔNG XÍCH BÍCH
Cồn
cát mênh mông lau lách thưa,
Ca
chèo dưới nguyệt dục hồn thơ.
Chiến
địa Tôn Tào sương khói lạnh,
Ải
sông Kinh Sở sóng dâng bờ.
Buồm
căng gió mạnh đè lên sóng,
Đình
cách sông dài rực lửa khuya,
Nối
gót Pha Tiên chơi mấy kẻ,
Trước
ghềnh le lói lửa chài đưa.
Thơ
Phan Huy Ích, Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
DẠ
ĐỘ XÍCH BÍCH GIANG KHẨU
Sa
chữ miên diên địch vĩ sơ,
Trạo
ca thừa nguyệt tứ mang như.
Tào
Tôn chiến địa hàn yên lý,
Kinh
Sở giang quan thịnh lạo sơ.
Bạch
lãng phù không phong phạm kính,
Hồng
đăng cách ngạn thủy đình hư.
Pha
tiên du hậu tương thùy tục,
Cô
đỉnh tiền than hiện dạ ngư.
TÔ
ĐÔNG PHA : HAI BÀI PHÚ XÍCH BÍCH
Hai
bài phú, Tiền Xích Bích và Hậu Xích Bích được
xem như những áng văn thơ tuyệt tác trong thi ca Trung
Quốc. Được các nhà thơ Việt Nam ca tụng, học Việt
Văn ai cũng nhớ thơ Nguyễn Công Trứ trong bài Kẻ
Sĩ viết:
Sông Xích Bích buông thuyền năm Nhâm Tuất. Để ông
Tô riêng một thú thanh tao.
Tô
Đông Pha (1036-1101) tự là Tử Chiêm, người tỉnh Tứ
Xuyên. Đỗ Tiến Sĩ đời vua Tống Nhân Tông (1010-1063)
năm 21 tuổi. Văn hào Âu Dương Tu làm Chủ khảo xem bài
Hình thưởng trung hậu chi chí luận, biết là bậc đại
tài đã lấy đỗ Tiến Sĩ thứ hai (Bảng Nhãn) thụ
chức Quốc sử Bí thư lang. Ông làm thơ công kích Tân
Pháp của Tể Tướng Vương An Thạch nên bị cách
chức đày ra Hoàng Châu. Lúc ông mới đến tạm trú trong
chùa Huệ Thiền, sau được mời ra đình Lâm Cao cho tỉnh
mịch. Ông làm nhà ở Đông Pha lấy hiệu là Tô Đông Pha
cư sĩ, cách đó 430 m ông còn làm nhà Tuyết Đường,
lợp cỏ vách đất, trang trí toàn cảnh tuyết đề Đông
Pha Tuyết Đường, cảnh này ngày nay du khách có thể đến
thăm ở phía nam huyện Hoàng Cương, Hồ Bắc. Mùa thu năm
Nhâm Tuất (1082) ông cùng bạn là Dương Thế Xương hiệu
Miên Trúc đạo sĩ thả thuyền chơi trên sông Xích Bích,
bàn luận với bạn rồi ngẫu hứng làm bài phú này. Ba
tháng sau tiết mùa đông ông lại đi chơi khúc sông này
lần nữa cùng Miên Trúc đạo sĩ và Hoàng Vô Trực, ông
làm bài Hậu Xích Bích.
Vua
Triết Tông (1086-1099) xem hai bài phú khen là kỳ tài, vời
Tô về triều, phong chức Hàn Lâm Học sĩ, rồi thăng lên
Binh Bộ Thượng thư. Hai thi phẩm kiệt tác, Lý Phan Long
thi nhân đời Minh phải khen rằng: “Anh
hùng như Tào Tháo, sự nghiệp như Chu Du nay còn đâu ? Chỉ
có vầng trăng đẹp, dòng nước trong và câu thơ bất hủ
của Tô Đông Pha muôn đời còn mãi.”
Người
đời sau dựng tượng Tô Đông Pha bằng đá trắng dưới
chân núi Xích Bích, và ngôi đình Pha Tiên với bức hoành
phi: Vạn
cổ phong lưu,
kỷ niệm một thiên tài thi ca. Sông Xích Bích chổ Tô
Đông Pha cùng bạn đi chơi ngày trước nay đã bồi thành
đất liền, sông Trường Giang có những lần đổi dòng,
nên cách sông Trường Giang ngày nay rất xa.
TIỀN
XÍCH BÍCH
Rằm
tháng bảy mùa thu nhâm Tuất, Tô Tử cùng với khách, bơi
thuyền dưới chân núi Xích Bích.
Hây
hây gió mát, sóng lặng như tờ, cầm chén rượu lên mời
khách, bài Minh nguyệt đọc thơ và hát một chương Yểu
điệu.
Một
thoáng trăng mọc núi Đông Sơn, tà tà giữa hai sao Ngưu
Đẩu, sương tỏa trắng mặt sông, nước trong nối trời.
Con
thuyền thảnh thơi, vượt lên mặt nước chơi vơi muôn
trùng, nhẹ nhàng như cỡi gió lên không, mà không biết
là cùng đi đâu ?
Sung
sướng như người mọc cánh lên tiên, vì thế rượu
ngon vui lòng người, gõ mạn thuyền mà hát ca chơi.
“Chèo
quế thuyền lan,
Theo
vầng trăng tỏ vượt làn nước trong.
Nhớ
ai canh cánh bên lòng,
Nhớ
mỹ nhân chừ ngóng trông bên trời.”
Trong
bọn khách có người thổi sáo, bèn đem ca họa lại mấy
câu, não nùng tiếng sáo thảm sầu khóc than.
Dư
âm vẫn còn lanh lãnh, nhỏ như là chưa dứt đường tơ,
giao long hang tối cũng múa may, người trinh phụ ở
thuyền ai sụt sùi.
Tô
Tử buồn rầu sắc mặt, thu vạt áo ngồi ngay ngắn hỏi
rằng :
Làm
sao có tiếng não nùng ?
Khách
rằng :
“Trăng
sáng trong thay, cánh quạ nam bay” . Đó có phải là thơ
Tào Mạnh Đức. Từ phía Tây Hạ Khẩu trông sang, phía
đông nhìn thấy Vũ Xương, núi sông uốn khúc mơ màng vây
quanh.
Đó
chẳng phải nơi Tào Mạnh Đức. Khốn đốn khi đánh với
Chu Lang. Khi Tào công phá Kinh Châu, xuống Giang Lăng
thuận đường sang đông trình.
Thuyền
bè muôn dặm ruổi rong, Cờ tán rợp trời, một chén rượu
bên sông, cầm ngang ngọn dáo ngâm cùng câu thơ.
Đó
là thực anh hùng một cõi, một đời nay giờ ở nơi đâu
?
Huống
chi tôi bác cùng nhau, cũng cùng kiếm cũi giăng câu nơi
này ?
Kết
bạn với cùng tôm cá, chơi đùa cùng với đám hươu nai,
bơi con thuyền nhỏ rong chơi, tay mời chén rượu thảnh
thơi chung cùng.
Thân
phù du gửi trong trời đất, nhỏ nhặt như hạt thóc biển
xanh,
Thương
cho sống được bao năm, mà khen sông lớn dài nhanh vô
cùng.
Vậy
muốn dắt tiên bay vui sướng, ôm lấy vầng trăng tỏ
muôn đời.
Tôi
không làm được vậy thôi, nên sinh rầu rỉ trong lời
oán thương.
Tô
Tử nói:
Vậy
thế mà bác biết: Nước và trăng.
Nước
kia chảy mãi vô cùng, trăng kia tròn khuyết chưa từng hư
hao !
Bởi
vì ta ở nơi biến đổi, mà đất trời trong chớp mắt
không.
Nếu
ta ở cõi vĩnh hằng, thì muôn sự vật sẽ không hao mòn.
Có
cần chi phải khen đâu nhỉ ? Trong trời đất vật nào
chủ nấy. Ta lấy chi không phải của ta ?
Gió
trên sông, trăng sáng núi xa, nghe tiếng, mắt vui trông
thấy !
Không
ai cấm, không bao giờ hết. Đó là kho tạo hóa vô cùng,
của tôi với bác vui chung.
Khách
nghe vậy, cười mừng rót rượu, cho đến khi đồ nhấm
cạn dần.
Chỉ
còn mâm bát ngỗn ngang, cùng nhau lại gối ngủ trong khoan
thuyền.
Cho
đến lúc vầng dương sáng bạch, tự lúc nào chẳng biết
chẳng hay.
Phú
Tô Đông Pha, bản dịch Nhất Uyên .
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt :
TIỀN
XÍCH BÍCH
Nhâm
Tuất chi thu, thất nguyệt ký vọng. Tô Tử dữ khách
phiếm chu du Xích Bích chi hạ. Thanh phong từ lai, thủy ba
bất hưng. Cử tửu chúc khách, tụng Minh Nguyệt chí
chi, ca Yểu điệu chi chương ; Thiếu yên nguyệt xuất
ư Đông sơn chi thượng, bồi hồi ư Đẩu Ngưu chi
gian, bạch lộ hoành giang, thủy quan tiếp thiên. Túng nhất
vi chi sở như. Lăng vạn khoảnh chi mang nhiên.
Hạo
hạo hồ như bằng hư ngự phong, nhi bất tri kỳ sở chi ;
phiêu phiêu hồ như di thế độc lập, vũ hóa như đăng
tiên. Ư th ẩm tửu lạc thâm, khấu huyền nhi ca chi. Ca
viết :
Quế
trạo lan tưng,
Kích
không minh hề tố lưu quang.
Diểu
diểu h ư hoài,
Vọng
mỹ nhân hề thiên nhất phương.
Khách
hữu xúy đổng tiêu giá, ý ca nhi họa chi, kỳ thanh ô
nhiên, như oán như mộ, như khấp như tố, dư âm niếu
niếu bất tuyệt như lũ. Vũ u hác chi tiềm giao, khấp cô
chu chi ly phụ.
Tô
Tử sâu nhiên chính khâm. Nguy tọa nhi vấn khách viết :
« Nguyệt
minh thinh hi, ô thước nam phi.” Thứ phi Tào Mạnh Đức
thi hồ ?
Tây
vọng Hạ Khẩu, Đông vọng Vũ Xương. Sơn xuyên tương
liễu. Uất hồ thương thương.
Thứ
phi Mạnh Đức chi khốn, Chu Lang dã hồ ? Phương kỳ phó
Kinh Châu, hạ Giang Lăng; Thuận lưu như đông dã, trục
lộ thiên lý. Tinh kỳ tế không. Sắc tửu lâm giang. Hoành
sáo phú thi, cổ nhất thể chi hùng dã. Nhi kim an tại tai
?
Huấn
hồ ngô dữ tử. Ngư tiều ư giang chư chi thượng, Lữ
ngư hà nhi hữu mi lộc. Giá nhất diệp chi thiên chú, Cứ
bảo tôn dĩ tương chúc, Ký phù dư ư thiên địa, diếu
thương hải chi nhất túc.
Ai
ngô sinh chi tu du, tiện Trường Giang chi vô cùng. Hiệp phi
tiên dĩ ngao du ; Bão minh nguyệt nhi trường chung. Tri
bất khả hồ sâu đăc, thác di hưởng ư ba phong.
Tô
viết : - Khách diệt tri phù thủy dữ nguyệt
hồ ? Tệ giả như tử nhi vị thường vãng dã. Doanh
hư giả như bi nhi tốt mạc tiêu dã. Cái tướng tự kỳ
biến giả nhi quan chi. Tắt vật dữ ngã giai vô tận dã,
nhị hựu hà tiến hồ ?
Thả
phù thiên địa chi gian, vật các hữu chú. Cấu phi ngô
chi sở hữu, tuy nhất hào phi mạc thủ.
Duy
giang thượng chi thanh phong. dữ sơn gian chi minh nguyệt.
Nhĩ đắc chi vi thanh, Mục ngộ chi nhi thành sắc. Thủ chi
vô câm, dụng chi bất kiệt.
Thi
tạo vật giá chi vô tận tằng dã. Nhi ngô dữ tử, chi sơ
cộng thích.
Khách
hỉ nhị tiếu, tẩy trán cánh chước. Hạo hạnh ký tân.
Bôi bàng lang tạ.
Tương
dữ châm tạ hồ chu trung, Bất tri đông phong chi ký bạch.
Chú
Thích:
Chương
Yểu điệu, thơ Minh Nguyệt trong Kinh Thi. Thơ ấy chê
người quyền thế, không ưa người hiền và chỉ ưa gái
đẹp.
Quân
tử: trong bài này chỉ người làm quan trong triều, ý
nhớ bạn.
Ba
tháng sau, tiết đông, Tô Đông Pha lại đi chơi với bạn
Miên Trúc đạo sĩ và Hoàng Vô Trực, khúc sông này
lần nữa viết bài Hậu Xích Bích.
HẬU
XÍCH BÍCH
Năm
ấy tháng mười trăng tròn, ra đi từ Tuyết Đường, về
đình Lâm Cao.
Hai
khách theo sau, qua dốc Hoàng Nê, sương móc đã xuống, lá
cây rụng tàn.
Bóng
người dưới đất, ngẫng lên sáng trăng.
Nhìn
nhau vui vẻ, vừa đi vừa hát, kẻ hát người hát theo
cùng.
Rồi
chợt than rằng :
« Có
khách không có rượu, có rượu không có mồi.
Trăng
thanh gió mát, đêm đẹp biết sao chơi ? »
Khách
nói :
« Buổi
chiều hôm nay, đánh được mẻ cá,
miệng
lớn vẩy nhỏ, như cá lô Tùng Giang.
Biết
làm sao có rượu. »
Về
bàn với vợ.
Vợ
rằng :
« Em
có đấu rượu, cất giữ từ lâu,
Đợi
khi bất thần, chàng cần dùng đến. »
Rồi
mang rượu cá, lại cùng đi chơi, dưới núi Xích Bích.
Tiếng
nước sông chảy, cách bờ nghìn sãi.
Núi
cao trăng nhỏ, nước cạn đá lộ.
Mới
mấy tháng qua, mà sông núi ta, chẳng còn như cũ.
Ta
vén tay áo, mà trèo lên cao, bước đá lởm chởm, cỏ rậm
mơn mởn.
Ngồi
đá hổ báo, vin nhánh cây rồng, với tổ chim cắt, ở
chổ chênh vênh.
Nhìn
xuống dưới nước, Bằng Di tối om.
Chừng
hai bạn khách, không thể trèo theo,
Cất
tiếng gọi to, cỏ cây rung động,
Núi
hang vang vọng, gió nổi nước tung,
Ta
cũng nao núng, trong lòng mà buồn, im lặng mà sợ, ghê rợn
không thể, ở lại lâu nữa.
Trở
ra lên thuyền, buông ra giữa dòng,
Mà
mong đến chổ, dừng chèo nghỉ chân.
Gần
lúc nửa đêm, bốn bề vắng vẻ,
Chợt
một cánh hạc, bay qua ngang sông, từ phía đông lại.
Cánh
xòe bánh xe, xiêm đen áo trắng, vụt nhiên kêu lên,
Lướt
qua thuyền ta, hướng tây mà về.
Tiễn
khách ra về, ta cũng đi ngủ.
Mơ
thấy đạo sĩ, phơi phới áo lông,
Qua
dưới Lâm Cao, vái chào ta hỏi :
« Đi
chơi Xích Bích, ông có vui không ? »
Ta
hỏi tên họ, cúi đầu lặng thinh, mà không trả lời.
« Hỡi
ơi ! ha ha !
Ta
đã biết rồi !
Lúc
nửa đêm qua, bay ngang thuyền ta,
Có
phải chăng là, nhà ngươi đấy chứ ? »
Đạo
sĩ mĩm cười, ta cũng giật mình.
Tỉnh
dậy mở cửa, trông ra ngoài sân, chẳng thấy đâu cả.
Thơ
Tô Đông Pha, Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
HẬU
XÍCH BÍCH
Thi
tuế thập nguyệt chi vọng, bộ tự Tuyết Đường, tương
quy ư Lâm Cao, nhị khách tòng dư, quá Hoàng Nê chi phán.
Sương
lộ kí hàng, mộc diệp tận thoát, nhân ảnh tại địa,
ngưỡng kiến minh nguyệt.
Cố
nhi nhạc chi, hành ca tương đáp.
Dĩ
nhi thán viết:
“Hữu
khách vô tửu, hữu tửu vô hào, nguyệt bạch phong thanh,
như thử lương dạ hà ? “
Khách
viết:
“Kim
gíá bạc mộ, cử võng đắc ngư, cự khấu tế lân,
trang như Tùng Giang chi cái. Cố an sở đắc chi hồ ?
Qui nhi mưu chư phụ.
Phụ
viết:
“Ngã
hữu đấu tửu, tàng chi cữu hĩ, dĩ đãi dư bất thì chi
nhu !
Ư
thị huề tửu dữ ngư, phúc du ư Xích Bích chiu hạ.
Giang
lưu hữu thanh, đoạn ngạn thiên xích. Sơn cao nguyệt
tiểu, thủy lạc thạch xuất.
Tằng
nhật nguyệt chi ki hà nhi giang sơn bất khả phức thức
hỉ ?
Dư
nãi nhiếp y nhi thượng, lý sàm nham, phi mông nhung. Cứ hổ
báo, đăng cầu long, phản tê cốt nhi nguy sào. Phủ
phùng chi di u cung.
Cái
nhi khách bất năng tòng yên, hoạch nhiên trường khiếu.
Thảo
mộc chấn động, san minh cốc ứng, phong khởi thủy dũng.
Dư
diệc tiểu nhiên, nhi bi túc nhiên nhi khủng, lẫm hồ
kỳ bất khả lưu dã.
Phán
nhi đăng chu, phóng hồ trung lưu, thính kỳ sở nhi chi hưu
yên.
Thì
dạ tương bán, tứ cố tịch liêu. Thính hữu cô hạc,
hoành giang đông lai. Sí nhi sa luân.
Huyền
thường cáo y, kiết nhiên trường minh, lược dư chu nhi
tây dã.
Tu
du khách khứ, dư diệc tựu thụy.
Mộng
nhất đạo sĩ, vũ y biên tiên, quá Lâm Cao chi hạ, ấp dư
nhi ngôn viết :
« Xích
Bích chi du nhạc hồ ? »
Văn
kỳ tính danh, phủ nhi bất đáp.
« Ô
hô y hi ! ngã tri chi hĩ. Đoàn tích chi
dạ, phi minh nhi quá ngã giá, phi dư dã dạ ?
Đạo
sĩ cố tiếu, dư diệc kinh ngộ. Khai hộ thị chi, bất
kiến kỳ xử.
Chú
thích :
Hoàng
Nê : ở Hoàng Cương, bến sông Hoàng Giang, nay còn bến
đò Hoàng Nê.
Tùng
Giang chi lư : Cá lô sông Tùng ở tỉnh Giang Tô, mồm
to vẩy nhỏ, có con dài đến 2m. Mùa xuân vào sông,
mùa thu về biển, cá béo sản phẩm huyện Tùng Giang.
Bằng
Di: Thủy thần chốn thủy cung.
Vũ
y : áo bằng lông chim. Đời Chiến Quốc, Yên Chiêu
Vương mơ thấy người mặc xiêm áo bằng lông chium, xưng
là Vũ nhân, đến cùng vua giảng thuyết về tiên thuật.
Nên đời sau gọi đạo sĩ là vũ nhân.
Ngô
Thì Nhiệm còn viết bài thơ Vãn Du Pha Tiên đình,
chép trong Thơ Văn Ngô Thì Nhậm . nxb Văn Học. 1986 tr
176.Trước thường ca ngợi ông tiên Đông Pha, người
khách chơi thuyền năm Nhâm Tuất, nay mừng được thăm
ngôi đình cổ tích ở ngoại thành Hoàng Cương. Trăng
trong gió mát dành kho tạo hóa. Thuyền con đấu rượu
tưởng nhớ dấu thơm. Dung mạo người đạo đức,
nghìn thu còn in trên vách núi lạnh. Di tác hai bài phú,
cũng được ghi vào tấm bình phong trong gác vẽ. Kiểm
điểm lại nơi phẩm đề năm ấy. Chỉ thấy một
làn khói sóng lẫn với màu trời xanh.
BUỔI
CHIỀU CHƠI ĐÌNH PHA TIÊN
Chuyện
năm Nhâm Tuất say lòng khách,
Dấu
cũ Hoàng Cương nay thấy đây.
Gió
mát trăng thanh kho tạo hóa,
Thuyền
con rượu đấu, ngỡ còn say.
Ngàn
năm tạc bóng sườn non lạnh,
Hai
phú còn ghi họa các này.
Tìm
lại chốn xưa đề phú ấy,
Chỉ
thấy khói sương lẫn bóng mây.
Thơ
Ngô Thì Nhậm, Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt :
VÃN
DU PHA TIÊN ĐÌNH
Diễm
đàm Nhâm tuất dạ du khách,
Hỷ
đổ Hoàng Cương cổ tích đình.
Minh
nguyệt thanh phong tàng tạo hóa,
Biên
chu đẩu tửu ức phương hinh.
Thiên
thu đạo mạo hàn sơn bích,
Nhị
phú di văn họa các bình.
Điểm
kiểm đương niên đề phẩm xứ,
Yên
ba nhất sắc hổn thanh minh.
Phan
Huy Ích, Chánh Sứ sứ đoàn năm 1790 thời Tây Sơn cũng có
bài thơ Vãn Du Pha Tiên Đình. Trong Tinh Sà Kỷ Hành. Thơ
Văn Phan Huy Ích tập I I. nxbKHXH. 1978 tr 99
Nguyên
dẫn: Đình ở trên núi Xích Tỵ, phía ngoại thành huyện
Hoàng Cương. Ngôi đình xây dựng dựa vào núi, rường
cột hoa lệ, bức bình phong bằng gỗ khắc hai bài Tiền
Hậu Xích Bích Phú. Vách đá có khắc hình Tô Đông Pha.
Hai bên khắc cây mai cây trúc, bài đề vịnh mai trúc của
ông.
Đứng
trên gác trên núi dựa bên thành, nhìn xuống bãi nổi
quanh co. Mọi người nói ngôi đình Xích Tỵ là của Pha
Tiên (Tô Đông Pha). Bức tượng trang nghiêm tao nhã còn
lưu ở vách núi cao. Bài phú cổ sáng rực vẫn soi trên
bình phong vuông. Nếu không vì cầm bút mà cười hoa cúc
vàng, thì làm sao có thuyền chỡ rượu linh lục. Linh lục
là một thứ rượu thơm ngon, nhắc lại câu chuyện thơ
giữa Tể Tướng Vương An Thạch và Tô Đông Pha. Khi
Vương đi Hoàng Châu trở về có làm hai câu thơ: Tây
phong tạc dạ quá viên lâm, Suy lạc hoàng hoa mãn địa
câm.
(Đêm
qua gió Tây qua rừng cây, Mặt đất cúc vàng rơi
rụng đầy); Tô Đông Pha đến chơi, đọc xong liền
viết tiếp hai câu hàm ý chỉ trích: Hoàng
hoa bất cộng mai hoa lạc, Thuyết dữ thi thân tử tế
ngâm
(
Cúc vàng không giống hoa mai rụng, Khuyên nhà thơ hãy nghĩ
mà xem). Vương An Thạch thấy vậy cho Tô Đông Pha kiến
thức còn hẹp nên đầy Tô đến đất Hoàng Châu để
xem hoa cúc có rụng đầy đất không ? Trên đường tới
nơi đi đày, Tô chỡ theo thuyền rượu thơm linh lục
và thức nhắm ngon. Nhớ lại nơi ngâm vịnh trong đêm
mùa thu ở Xích Bích của Tô, tưởng người vẫn say tỉnh
với gió trăng, sông núi.
BUỔII
CHIỀU CHƠI Ở ĐÌNH PHA TIÊN
Gác
núi bên thành nhìn bãi cồn,
Ngôi
đình Xích Tỵ của Pha Ông.
Nghiêm
trang tượng đứng vách tường núi,
Rực
sáng phú xưa rọi bức phong.
Chẳng
viết cúc vàng cười chẳng nở,
Sao
có thuyền linh rượu thơm ngon.
Nhớ
lại mùa thu nơi ngắm cảnh,
Tưởng
người say tỉnh gió trăng sông.
Thơ
Phan Huy Ích. Nhất Uyên dịch thơ.
Nguyên
tác phiên âm Hán Việt:
VÃN
DU PHA TIÊN ĐÌNH
Bạng
thành sơn các hám hồi đinh,
Tuân
đạo Pha Tiên Xích Tỵ đình.
Nghiêm
nhã di dung lưu tiễu bích,
Côn
hoa cổ phú diệu phương bình.
Bất
duyên phấn bút trào kim cúc,
An
đắc phù chu tái lục linh.
Miên
tưởng thu tiêu ngâm thưởng địa,
Giang
phong sơn nguyệt túy hoàn tinh.
Phan
Huy Ích còn viết bài Đình Hạ ngẫu cảm. Nguyên dẫn:
Năm Tân Sửu (1781) niên hiệu Cảnh Hưng, tôi cùng
bạn đồng liêu trong phủ thích hào hoa, nên nuôi nàng
hầu, đặt ca viện, cùng thưởng ngoạn. Bèn mô phỏng
bài ca nôm đề tranh Xích Bích, do cố nhạc phụ tôi (Ngô
Thì Sĩ) biên soạn để phổ vào bản nhạc cho ca nữ biểu
diễn. Từ năm Nhâm Dần (1782) trở về sau, nhân việc
nước xảy ra biến cố, nên âm nhạc cũng bị thôi từ
lâu. Nay đến nơi Xích Bích của Tô Đông Pha, hồi tưởng
việc đã qua cảm khái làm bài thơ này.
Từng
hâm mộ tính hào hoa phóng khoáng của ông già Xích Bích.
Thú chơi thanh nhã được phổ vào những lời gấm vóc.
Gõ thuyền giọng sãng khoái hát bài thanh tao. Rửa chén,
tay khéo léo múa điệu cao hứng. Cuộc đời biến đổi
mười năm làm tiêu tan ban nhạc giáo phường. Đi sứ qua
muôn dậm hỏi thăm dấu tiên. Ở đình núi ngắm mây
chiều mùa thu. Bỗng nhớ kiếp phù sinh như móng chim hồng
nhạn trên tuyết.
DƯỚI
ĐÌNH NGẨU HỨNG
Hâm
mộ hào hoa Xích Bích ông,
Vui
chơi từng phổ những lời thanh.
Gõ
thuyền sãng khoái vần tao nhã,
Rữa
chén tay khua điệu hứng vần.
Biến
đổi mười năm không hát nữa,
Sứ
trình muôn dậm hỏi tiên ông.
Đình
núi ngắm thu mây ráng nổi,
Móng
hồng trên tuyết, kiếp phù sinh.
Thơ
Phan Huy Ích, Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên
tác phiên âml Hán Việt:
HẠ
ĐÌNH NGẨU CẢM
Hào
khoáng tằng hy Xích Bích ông,
Thanh
du phổ nhập ỷ la tùng.
Khẩu
huyền dật vận ca hầu sảng,
Tẩy
trãn cao hoài vũ tụ công.
Thế
biến thập niên huy nhạc giáo,
Sứ
hoa vạn lý phỏng tiên tung.
Sơn
đình diếu đáo thu vân mộ,
Hốt
ký phù sinh tuyết thượng hồng.
Qua
lời dẫn của Phan Huy Ích, ta biết được thêm trong đời
sống các cụ ngày xưa những năm thanh bình, các cụ cũng
họp nhau, bạn đồng liêu lập ban đàn ca tài tử,
lập phòng trà : lập ca viện, nuôi ca kỹ, mô phỏng
các bài thơ nôm dịch thơ Tiền, Hậu Xích Bích, phổ
thành nhạc, cho ca nữ hát « ca ra bộ ».
Paris
26-4-2016
PHẠM
TRỌNG CHÁNH
*
Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V
Sorbonne.