LÂM LỄ TRINh
Để
bao vây Trung quốc và làm suy yếu thế lực của Hoa kỳ
tại Á châu, tháng 6.1969 Leonid Brezhnev đề nghị với các
quốc gia , từ Trung Đông đến Nhựt bổn , hình thành một
tổ chức an ninh chung bảo vệ hòa bình và an lạc trong
khu vực . Riêng ở Đông dương, chủ đích của Nga là hất
ảnh huởng Mỹ và Tàu ra khỏi bán đảo, kiểm soát vịnh
Cam Ranh và các hải cảng chiến lược, hổ trợ các đảng
và thể chế mạc xít , đồng thởi đặt các nước
Đông dương trong vòng lệ thuộc Điện Cẫm Linh bằng
cách viện trợ quân sự và kinh tế. Kế hoạch này thành
công .Việt Nam là trường hợp điển hình . Lê Duẫn đã
trở nên con gà nòi của Mạc Tư Khoa .
Sau ngày “ giải
phóng Sàigòn “ , Liên Sô tăng số cố vấn tại Lào từ
100 lên 500 , giúp 500 triệu mỹ kim cho ngân sách VN tài
khóa 1976 và 3 tỷ đô la cho kế hoạch ngũ niên 1976- 1980
của Hànội . Bắc Kinh , trong lúc đó, chỉ viện trợ
tượng trưng 200 triệu , báo tin không cấp ngân khoảng
mới cho 1977 và ngày 27. 9 .1976 , tại diển đàn Liên Hiệp
quốc, Ngoại trưởng Kiều Quán Hoa một mặt tố Nga trám
khoảng trống ở Á châu và mặt khác , cảnh cáo cacÔ
thành viên Đông Á đừng bao giờ “đón cọp vào
ngã sau trong khi đuổi chó sói ra cửa trước “ Với
ước mong được thu nhập vào COMECON, Hội đồng Tài trợ
Kinh tế Hổ tương CS, Hànội theo sát con đường Sô viết
chống Tàu . Khi Đảng Lao động VN nhóm Đại hội lần
thứÔ 4 tại Hànội , cuối 1976 , đưới sự giám sát của
lý thuyết gia Mikhail Ạ Suslov , trưởng phái đoàn Sô
viết, thì đa số ủy viên trong Chính trị bộ đã nối
đuôi Lê Duẫn thần phục Mạc Tư Khoa : Võ Nguyên Giáp,
Trần Quốc Hoan, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Văn Linh, Tố Hữu
, Đổ Mười. Những phần tử như Lê Đức Thọ , Nguyễn
Duy Trinh, trước kia đứng giữa, nếu không nói là thiên
Bắc kinh, đều chuyển hướng . Hoàng Văn Hoan bị khai trừ
, trốn sang Tàu và lảnh án tữ hình khiếm diện . Một
số không ít như Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Lê Thanh
Nghị, Võ Chí Công và Chu Huy Mẫn phãi đổi
phía để sống còn . Ngay cả Trường Chinh củng tỏ ra ôn
hòa hơn .
Cuối
1977, sau khi tham khảo ý kiến Trung quốc , Cam bốt đoạn
giao với VN . Đầu năm 1979, số cố vấn và chuyên viên
sô viết tại VN tăng từ 5000 lên 8000. Nhiều diển biến
dồn dập xãy ra , khiến cho Bắc kinh và Hànội không
tránh được đụng độ trực tiếp ỳ :
Lý
do đụng độ Việt - Hoa.
1
- Liên sô xử dụng Vịnh Cam Ranh và ký Hiệp
ước thân hữu với VN . Tháng 6.1978, không khí căng thẳng
khi Phó Thủ tướng Đặng Tiểu Bình báo tin hủy bỏ viện
trợ cho VN, phản đối việc trục xuất 110.000 người
Việt gốc Hoa và công bố Trung quốc đã giúp cho CSVN hơn
20 tỷ mỹ kim từ 1950 đến 1978. Hànội liền tố ngược
các lảnh tụ Tàu là phản động. Hai quốc gia CS Albania
và Lào củng hùa theo chỉ trích Bắc Kinh . Đồng thời,
Phạm Văn Đồng lên tiếng xin bình thường hóa bang giao
với Hoa kỳ. Mười hôm sau, giới truyền thông rầm rộ
tung tin Liên sô được phép lập căn cứ quân sự tại
Cam Ranh và Đà nẳng . Phần thưởng của sự nhân
nhượng này là Mạc Tư Khoa bực đèn xanh cho Hànội xúc
tiến thực hiện và điều khiển “ Liên bang Đông
Dương .
Ngày
3.11,1978, Nga và Việt ký Hiệp ước Thân hữu và Hợp tác
, trong đó điều 6 đặc biệt ghi rằng đôi bên sẽ áp
dụng “các biện pháp thich nghi và hữu hiệu để bảo
vệ hòa bình và an ninh “ nếu một trong hai nước bị đe
dọa hay tấn công . Trong dịp viếng Thái Lan, Đặng Tiểu
Bình sỉ vả VN là “ Cuba của phương Đông “, bắt
tay với đế quốc để xây mộng bá chủ và đe dọa Thái
Bình Dương và Thế giới.
2
- VN chiếm đóng Cam bốt .Tại Hội nghị Genève 1954, Chu
Aạn Lai thuyết phục Phạm Văn Đồng cho rút quân khỏi
Cam bốt và công bố tôn trọng chủ quyền nước này. Năm
1958, Bắc kinh và Nam Vang trao đổi sứ thần và ký
Hiệp ước hữu nghị và bất xâm phạm .Tháng 11. 1963,
sau vụ đảo chính TT Ngô Đình Diệm, Sihanouk yêu cầu các
cơ quan Mỹ rời xứÔ Chùa Tháp và Trung quốc cảnh cào
Hoa kỳ không được xâm nhập đồng minh nhược tiểu
này. Tháng 3.1970, tướng Lon Nol lật đổ Sihanouk . Một
tháng sau, các dân tộc Đông dương nhóm thượng đỉnh
tại Guangzhou gồm có Bắc Việt , Pathet Lào và Khờ me Đỏ
( lúc đó còn liên kết với Sihanouk ) . Khờ Me Đỏ nhận
viện trợ của Bắc kinh và tuy không tin Hànội , vẫn
liên tục cấp nơi ần nấp cho các lực lượng việt cộng
mổi khi chúng bị Quân đội VNCH đẩy lui . Vì lý do lịch
sử, địa dư và chiến thuật, Cam bốt đã từng là chư
hầu của VN. Miên luôn luôn lo sợ bị nuốt trửng
ngay trong những năm cọng tác thân thiện với Hànội
(1970 - 1975 ) . Sau tháng 4. 1975, Khờ Me Đỏ hoàn toàn trông
cậy vào sự che chở của Trung quốc . Tháng 9.1975, Chu Aạn
Lai sắp xếp cho Sihanouk trở về Nam Vang “ để đuổi
Bắc Việt ra khỏi xứ “ nhưng ê kíp Pol Pot, Ieng Sary và
Khieu Samphan nhất quyết đốt giai đoạn biến
Cam bốt đầu hôm sớm mai thành một “ nước xã
hội chủ nghĩa vẹn toàn “, bất chấp lời khuyên của
Chu . Những biện pháp quá khích được đem ra thi hành gắp
làm cho xứ hổn loạn. Tháng chạp 1976 , khi phái đoàn
chuyên viên Tàu của Fang Yi sang giúp Miên thì đã quá chậm
: quần chúng kiệt sức , thợ thuyền, công chức và trí
thức bị tiêu diệt, quân đội tan rã, gần 4000 lính Miên
(do Việt cộng huấn luyện năm 1976 ) bị tẩy trừ.
Từ 1975 cho đến 1978, Chính phủ Khờ Me Đỏ đòi bộ đội
Việt rời xứ nhưng các đơn vị này chỉ di tản về
biên giới và tại đây, hai bên nhiều lần đụng độ
đẩm máu.
Theo
sự tiết lộ của Hoàng Tùng, tổng biên tập báo Nhân
Dân và ủy viên Chính trị bộ, Bắc bộ phủ đã có ý
đồ chiếm Cam bốt từ 1970 - 1972. Cuối 1976, Đại hội 4
Đảng Lao Động nhóm để đổi tên thành Đảng CS Việt
Nam và chấp thuận đề án của Lê Duẫn xúc tiến việc
thiết lập Liên bang Đông Dương bằng cách thuyết phục
và nếu cần, áp lực quân sự Miên và Lào gia nhập .
Tháng 2.1978, Ủy ban Trung ương quyết nghị xóa chế độ
Pol Pot qua 4 giai đoạn : tố cáo đường lối khát máu của
Khờ Me Đỏ, tấn công Bắc kinh viện trợ Nam Vang, xúi
dân Miên nổi loạn và tận dụng lá bài sô viết . Ngày
7.1.1979 , với sự đồng ý và hổ trợ vủ khí của Mạc
Tư Khoa , 100.000 quân Việt tràn ngập Cao miên và toàn
thắng sau 2 tuần lễ . Trung quốc không can thiệp , để
tránh lún vào vũng lầy chiến tranh như Hoa kỳ. Tuy nhiên,
Đặng Tiểu Bình cảnh cáo rằng trong tương lai , Bắc
kinh sẽ “ lấy những quyết định ngoài ý muốn vì hòa
bình “ . Theo tạp chí Tàu cộng Geng Biao, 1.500 Hoa kiều
bị kẹt lại ở Cam bốt và phần đông đã gia nhập hàng
ngủ Khờ Me Đỏ để chống VN. Ngày 8.1. 79, Hội đồng
Nhân Dân Cách Mạng , do bù nhìn Heng Samrin cầm đầu,
được Hànội công nhận . Chính quyền Thái thận trọng
đứng ngoài . Lời kêu cứu của Sihanouk với Liên Hiệp
Quốc rơi vào sa mạc. Pol Pot rút vào rừng để kháng
chiến. Ngày 18.2.1979, Miên và Việt ký Hiệp ước Thân
hữu và Hợp tác có giá trị 25 năm , công khai hóa việc
quân đội Việt chiếm đóng Cộng hòa Nhân Dân Cam bốt
và đặt chính thức xứ này dưới chiếc dù quân sự
của Hànội. Trước đó hai năm, ngày 18.7.1977, Lào và VN
đã ký một Hiệp ước hữu nghị tương tợ. Liên bang
Đông Dương thực hiện xong. Bằng vỏ lực .
3
- Tranh chấp Việt - Hoa về lảnh thổ . Từ lâu , ba khu
vực là đề tài cải vả giữa VN và Trung quốc : a )- Một
biên giới chung dài trên 797 cây số , được thực dân
Pháp và Trung Hoa ấn định năm 1887 trong một Thỏa ước
và bổ túc năm 1895 . Cuối thập niên 70, cả Hoa và Việt
khiếu nại lẩn nhau về vị trí của 300 cột trụ phân
ranh b ) - Vịnh Bắc Việt , còn gọi là Beibu Gulf / Bắc Bộ
Gulf hay Gulf of Tonkin . Hai Thỏa ước vừa kể không nói rỏ
lằn ranh thuộc phần kiểm soát của mổi nước . Tháng
10.1977, cuộc hội nghị tại Bắc kinh không giải quyết
được dứt khoát vấn đề. C ) - Gây cấn nhất là chuyện
dành hai nhóm quần đảo Hoàng Sa ( hay Paracels / Xisha ) và
Trường Sa ( hay Spratlies/ Ninsha ). Khu vực này hệ trọng
cho cả Trung quốc và VN về chiến thuật và dầu khí .
Hoàng Sa, Trường Sa, cùng với một số đảo lân cận
khác như Pratas Reef và Macclesfield là những trạm thông
thương giữa Thái Bình Dương và Aãn Độ Dương . Bởi
thế Phi Luật Tân, Đài Loan, Nam Dương, Nhựt , Brunei
àv..v..củng đòi chia phần. Mỹ và Nga theo sát vấn đề.
Nga nắm thế thượng phong vì kiểm soát được
Vladivostok, Cam Ranh và Đànẳng . Ngày 4.9.1958 , Bắc Kinh
công bố chủ quyền trên Trường Sa và Hoàng Sa .
Mười hôm sau, Thủ tướng Phạm Văn Đồng gởi công văn
cho Chu Aạn Lai xác nhận Chính phủ VN đồng ý . Năm
1977, Đồng nói trớ lại rằng công văn này vô hiệu vì
ký trong thời chiến ! Quân đội VN đã tái chiếm được
6 đảo nhỏ. Từ 1974 cho đến 16.2.1979, theo Renmin Ribao, số
ra ngày 14.5.1979 và bản ghi chép “SRV Memorandum “ đề
ngày 16.3.1979, có tất cả 3535 vụ xô xát Việt -Hoa tại
biên giới (trong sổ sách Trung cộng ) và 4333 vụ (
chiếu tài liệu Việt cộng ).
4
- Hànội trục xuất Hoa kiều làm cho tình hình căng thẳng
tột độ. Đa số Hoa kiều tại VN di cư từ hai tỉnh
Quảng Đông va Phước kiến, sau Trận giặc Nha phiến
(1840- 1842). Họ cần cù làm ăn., sống đoàn kết và
không tham gia chính trị. Tại Nam Việt , trước 1975, hơn
phân nửa tổng số 1.300.000 người Hoa ủng hộ Chính phủ
quốc gia. Sau Tết Mậu thân 1968, từ 75 đến 80% không có
thiện cảm với CS . Chỉ một số ít hoạt động
cho Hànội . Trước 1975, năm người Việt gốc Hoa được
bầu vào Hạ Viện . Tại Chợlớn , người Hoa tổ chức
thành 5 bang : Quảng Đông. Phước kiến, Triều châu, Hẹ
và Hakka, mổi bang được đại diện bởi một bang trưởng
chọn theo lối đầu phiếu. Họ có một Phòng Thương mải,
một bênh viện đặt tên Chung Cheng, một số trường học
và báo chí . Tháng 8.1956, TT Ngô Đình Diệm ban hành sắc
lệnh buộc Hoa kiều bỏ quốc tịch Tàu và nhập tịch VN
nếu muốn tiếp tục hành nghề. Tháng 4.1957, thẻ lý lịch
ngoại quốc bị coi như vô giá trị. Sau 30.4.1975, Hànội
áp dụng một loạt cải cách kinh tế và xã hội để
bần cùng hóa dân Nam . Hoa kiều bị thiệt hại nặng nhất
vì có của . Chiến dịch đánh giới trung lưu mái chính
compradores (1975 ), các quyết định liên tiếp quốc hữu
hóa công kỷ nghệ và thương mải , nhiều lần đổi tiền
bất chợt (1975 và 1978 ), việc đưa dân Bắc ào ạt định
cư trong Nam..v..v..làm cho thiểu số này nhanh chóng kiệt
quệ. Đầu 1977 , Việt - Hoa căng thẳng. Chính quyền Hànội
đuổi người Tàu sống tại các tỉnh biên giới về
Trung quốc . Tháng 5. 1978, trong vòng 13 hôm, con số này
vượt lên đến 57.000, không kể 320.000 người bị đẩy
đi vùng kinh tế mới và 50.000 bị tịch thu tài sản . Nhà
Nước CHXHCN còn công bố cho phép ra đi vỉnh viển những
ai mang chiếu khán Hồng kông, Đài Loan hay Pháp. Ngày 29
tháng 6, VN chính thúc gia nhập COMECON, Bắc kinh liền cúp
viện trợ hoàn toàn, hồi hương 880 chuyên viên và đóng
cữa Sứ quán . Hànội ra lệnh cho Tòa Tổng lảnh sự Tàu
ngưng hoạt động tại thành phố Hồ Chí Minh. Ba lảnh sự
quán Việt ở Nam Ninh, Côn Minh và Quảng Đông củng phãi
rút lui . Từ tháng 9. 1978, trong Tạp chí CS va tờ
Quân Đội Nhân Dân, nhà câm quyền Việt Nam bắt đầu
kêu gọi dân chúng sẳn sàng chống lại “ chủ nghĩa
bành trướng của nước lơn và ý đồ bá quyền của bọn
Hán phong kiến “ . Liên hệ Việt - Hoa “ môi hở răng
lạnh “ tan thành mây khói. Câu nói của Hồ “ Việt và
Hoa vừa là bạn, vừa là anh em “ chua cay hơn lúc nào hết
.
Đặng
Tiểu Bình chuẩn bị chiến tranh .
Chu
An Lai qua đời đầu năm 1976 và Mao Trạch Đông, chín
tháng sau. Nội tình Trung quốc xáo trộn vì ba sự kiện
hệ trọng :
1
- chiến dịch sôi nổi chống nhóm Tứ Quái của Jiang
Qing, vợ Mao , đầu não xách động Cách Mạng Văn Hóa .
2
- việc thi hành chậm trể kế hoạch Bốn Hiện Đại Hóa
do Chu đề xướng để canh tân kỷ nghệ, canh nông, quốc
phòng và khoa học .
3
- sự tranh quyền ráo riết giữa Đặng Tiểu Bình và Tổng
bí thơ Hoa Quốc Phong, lảnh tụ của “ Phe Bất Cứ Gì “
( = bất cứ gì chủ tịch Mao nói và làm đều đúng cà !
). Cuối 1978, sau hai lần bị khai trừ, Đặng phục hồi
quyền lực, nắm đa số trong Chính trị bộ và Ủy ban
trung ương Đảng CS , giữ chức Tổng tư lệnh quân đội
, thi hành chính sách của Chu và xét lại đường lối
Mao ít . Đặng bắt tay nghiên cứu cách giải quyết
khủng hoảng với láng giềng VN . Trung quốc cảm thấy bị
đe dọa trong quyền lợi và thách đố bởi một nước
đàn em hung hăng , phản bội và tự hào là nước mạnh
quân sự thứ ba trên địa cầu .
Theo
Gs Irving Janis và Leon Mann , Đặng Tiểu Bình hành động
thực tế và thận trọng qua 3 giai đoạn. Trước hết,
thu thâp đầy đủ dử kiện bên ngoài (chiến lược toàn
cầu của nước Tàu, chiến lược Đông dương của VN, sự
nhúng tay của Liên sô, vấn đề Cam bốt , tranh chấp biên
giới, Hoa kiều tại VN, yếu tố Hoa kỳ, dư luận thế
giớià ) và dữ kiện bên trong như : lợi ích và các giá
trị của Trung quốc, phản ứng tâm lý quần chúng trong
nước, khả năng của quân đội Tàu, ảnh hưởng chiến
tranh đối với mức phát triển kinh tế quốc gia..v..v..
Thứ nữa, tham khảo ý kiến và đạt được sự đồng
thuận của các cơ cấu trong đảng CS : Chính trị bộ, Ủy
ban Trung ương và Quân ủy Hội. Sau hết , hành động để
giữ vững quyết định đến cùng.
Hànội
ký Hiệp ước Hữu nghị với Liên sô và cưởng chiếm
Nam Vang là hành động khiêu khích thêm , buộc Bắc kinh
phãi trã đủa . Ngày 15.12.1978, Hoa kỳ công nhận Trung
Hoa. Đặng Tiểu Bình liền bay qua Hoa Thịnh Đốn hội
kiến với Tổng thống Carter, báo tin riêng sẽ tấn
công VN và trấn an Mỹ rằng nhà cầm quyền nước ông
biếtờ tự chế . Ngày 1.1.1979, hai nước bang giao chính
thức . Đặng củng viếng Nhựt và một số quốc
gia Đông Á để dò xét phản ứng . Tất cà đều lo ngại
về ý đồ tương lai của Việt cộng , đồng minh
của Mạc Tư Khoa . Trở về Bắc Kinh, Đặng điều chỉnh
kế hoạch. Thay vì gởi quân qua Cam bốt giúp Khờ Me Đỏ
và để tránh mang tiếng với Thế giới là “ mưu đồ
bành trướng “, Trung quốc quyết đánh thẳng vào VN
dưới hình thức “ phản công tự vệ “ , không dùng
hải lực không quân, trong một thời gian giới hạn và
chỉ nhắm vào vùng biên giới. Đặng muốn dạy cho nhóm
lảnh tụ tại Bắc bộ phủ “ một bài học quân sự
đich đáng “ . Mục phiêu thật của “ sự trừng
phạt “ là gì ? Tiêu hủy vài sư đoàn , căn cứ chiến
lược hay chiếm một giải đất biên phòng của đối
phương ? Đặng không cho biết thâm ý . Dù sao, theo học
giả King C. Chen, “ chiến tranh trừng phạt , the Punitive
War “ tượng trưng cho chính sách đối ngoại của Bắc
Kinh tại Á châu từ 1949. Hành quân năm 1979 chống VN được
chuẩn bị chu đáo như cuộc đụng độ Hoa - Aãn năm 1962
và không hấp tấp như trường hợp Trung cộng tham chiến
ở Triều tiên hay vụ Nga sô can thiệp ở Tiệp khắc và
Hung Gia lợi .
Bài
học quân sự 1979 .
Năm
1938, Mao giải thích như sau quan điểm của Lê nin về
chiến tranh : “ Khi chính trị mở rộng đến mức không
còn tiến tới được bằng đường lối thông thường
thì chiến tranh bùng nổ để san bằng các trở ngại gặp
phãi “ .Lê nin từng viết :” Chiến tranh chỉ là chính
trị nối tiếp bằng những phương tiện khác “ . Câu
này dựa vào ý kiến của Karl Von Clausewitz :” Chiến
tranh không phãi là hành vi đơn giản của chính sách mà
là một lợi khí chính trị đích thực , một sự tiếp
tục của hoạt động chính trị với phương thức khác “
. Cuộc chiến để sát phạt VN, dù núp dưới danh xưng
phản công tự vệ, được khởi xướng đúng theo chủ
trương trên đây . Các lảnh tụ Trung quốc đã cân nhắc
quyết định của họ hai năm ( 1977- 1979 ) , với hy vọng
bình thường hóa bằng vỏ lực mối bang giao Hoa - Việt .
Muốn thành đạt, chiến tranh nhân dân cần hội một số
điều kiện : đảng và quân thống nhất, quần chúng hổ
trợ, đất nước hậu tiến, vủ khí quy ước , kỷ thuật
lạc hậu, ngoai xâm đe dọa và đấu tranh trường kỳ .
Trước
tháng 2.1979. Trung quốc có 3, 600.000 quân nhân tại
ngủ và 175 sư đoàn tại 11 vùng chiến thuật. Vỏ khí
gồm có 10.000 chiến xa , 20.000 giàn phóng hỏa tiển,
16.000 cà nông và phương tiện chuyên chở rất lạc hậu.
Hải quân có 30.000 thủy thủ , 75 tiềm thủy đỉnh .
Hạm đội Bắc Hải có 300 chiến hạm, Đông hải: 450 và
Nam hải : 300 . Lực lượng không quân có 400.000 phi công,
5000 chiến đấu cơ củ và lổi thời, loại Mig 15,17,19 và
80 Mig 21. Đặng Tiểu Bình là Tổng Tư lênh hành quân ,
với 2 phụ tá Xu Xiangqian và Nie Rongzhen, tướng Gen Biao
giữ chức Tham mưu trưởng .Về phía VN, tổng quân số
lên đến 600.000 phân chia 200.000 tại Cam bốt, 100.000 tại
Lào, 100.000 tại Nam Việt, và 200.000 ở Bắc Việt. Xung
quanh Hànội, có 5 sư doàn và 4 lữ đoàn. Dài theo biên
giới Trung hoa, VN có 150.000 dân quân tổ chức thành
6 sư đoàn địa phương và một trung đoàn . Không
lực Việt có 300 chiến đấu cơ ( 70 Mig 19, 21 Mig 70,
và một số F 5 tịch thu của Mỹ năm 1975 ). Hải
quân Việt có 2 chiếc PETYA sô viết với hòa tiến chống
tiềm thủy đỉnh, và 60 tàu tuần tiểu .
Cuộc
“ hành quân sát phạt “ kéo dài 16 ngày , chia thành
2 giai đoạn : 1 )-Từ 17 đến 26.2.1979. Ngày 17 thàng, lúc
5 giờ sáng, theo chiến thuật “ biển người “ , 100.000
Tàu cộng , được chiến xa hổ trợ, tràn vào Lạng Sơn,
(phía Đồng Đăng ), Cao Bằng, Đồng Khê, Mông Cáy, và
Lào Cai sau khi pháo kích mãnh liệt. Sự tiến quân , mau lẹ
lúc dầu , lần hồi bị địa phương quân Việt chận
lại và bao vây. Các đơn vị chính quy VN tập trung về
phía Nam Cao Bằng và Lạng Sơn để đánh tiêu hao những
sư đoàn đối phương. Số tổn thương của hai bên đều
nặng nhưng khó kiểm chứÔng. Phía Trung quốc chiếm được
Lào Cai, Cao Bằng và chuẩn bị tấn công Lạng Sơn nhưng
không có ý định tiến về Hànội .
Đồng
thời, Bắc Kinh công bố sẽ rút quân đội “ sau khi hoàn
tất mục tiêu “. Trong thời khoảng đó, Liên Sô đưa
7 chiến hạm tuần tiểu dài theo hải phận VN và ngày 21
tháng 2, gởi tuần dương hạm Sverdlov và một khu trục
hạm Krivak vào Nam Hải . Vủ khí Nga được không vận từ
Calcutta và một phái đoàn quân sự sô viết bay qua Hànội
. Mạc Tư Khoa yêu cầu Tàu rút binh. 2 )- Từ 27.2 đến
5 tháng 3. Chiến cuộc tiếp diển ở Lào Cai, Cao Bằng và
Mông cáy nhưng tập trung mạnh nhất vào Lạng Sơn, cách
Đèo Hữu Nghị lối 10 dặm và Hánội, 85 dặm . Với hai
sư đoàn mới. đến từ Đồảng Đăng và Lộc Bình,
Trung cộng vất vả tấn công các ngọn đồi quanh tỉnh .
Việt cộng chống cự mảnh liệạt và còn đột
nhập vào ba thị trấn Guangxi, Malipo và Ninping ở bên kia
biên giới. Ngày 3 tháng ba , Lạng Sơn thất thủ . Đồng
Đăng và Cẩm Dương bị san bằng nhưng các đơn vị Việt
tiếp tục đánh tại Lộc Bình và Mông cái. Ngày 5 tháng
3, Chính quyền Bắc Kinh một mặt công bố đã chiếm được
các tỉnh lỵ Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai và 17quận, gây
thiệt hại nặng cho 4 sư đoàn Việt và mặt khác, cảnh
cáo Hànội không được cản trở sự rút lui của Quân
đội Nhân dân Trung quốc. Cùng một ngày, Bắc bộ phủ
tổng động viên toàn quốc . Ngày 7 tháng 3, VN xác nhận
đồng ý cho đối phương rút quân “ để tỏ thiện chí
hòa bình “. Tại Nga, Thủ tướng Kosygin và Tổng bí thơ
Brezhnev cực lực lên án Trung quốc, tiếp tục cho không
vận vỏ khí và canh chừng hải phận VN. Cuba cho biết sẳn
sàng gởi quân trợ chiến Hànội. Tại Liên Hiệp Quốc,
với sự ủng hộ của Hoa kỳ , khối Asean kiến
nghị đòi “ các lực lượng ngoại quốc rút ra
khỏi khu vực “ mà không lên án Bắc Kinh. Ngày 16.3.1979,
không còn đơn vị Tàu cộng nào ở VN . Theo tinh thần
kiến nghị Asean thì VN tại Cam bốt củng phãi hồi
hương quân đội chiếm đóng. Hội Đồng An ninh LHQ rốt
cuộc không có ra quyết nghị nào . Một nhà ngoại giao
chua chát phê bình :”Khi tranh chấp xãy ra giữa các đại
cường ,Liên Hiệp Quốc biến mất ! “.
Thẩm
lượng “bài học quân sự 1979
1
- Thiệt hại của đôi bên . Dưới đây là bản kê khai
thiệt hại căn cứ vào tài liệu mổi phía , trích từ
quyển sách “Chinaõs War With Việt Nam, 1979 “ của Gs King
G. Chen , trang 114 :
Trung
quốc
Việt Nam
Tử
thương
26.000
30.000
Bị
thương tích
37.000
32.000
Tù
chiến tranh
260
1.638
Chiến
xa, quân xa
420
185
Bích
kích pháo, súng
66
200
Giàn
hỏa tiển
0
6
Hoa
lẩn Việt đều tuyên bố thắng trận nhưng không xứ nào
hoàn thành mục tiêu chính yếu .Trung quốc không hủy được
một sư doàn Việt nào , không chấm dứt được xung đột
tại biên giới , không ép được các đơn vị Việt rút
khỏi Cam bốt và củng không thuyết phục nổi VN thay đổi
chính sách đối với Hoa kiều . Tuy nhiên, Bắc Kinh
đã gây ra tại Hànội sự nghi ngờ về thực tâm của
Mạc Tư Khoa can thiệp bằng vỏ lực để chống Trung cộng
ở VN . Mặt khác, khối Asean đã lên tiếng ủng hộ Tàu
trong cố gắng chận chủ nghĩa bành trướng của CS Việt
tại Đông Á và , dưới khía cạnh này, gây thiệt hại
cho nền kinh tế Việt không ít . Ngày 26.3.1979, Jiefangjun
Bao viết trong bài xã luận : “ Cuộc chiến 1979 đã
làm sáng tỏ những ý kiến sai lệch về vấn đề chiến
tranh và một số vấn đề khác “.Không thấy báo xác
định rỏ vấn đề gì . Sáu tháng sau, nhân lể kỷ niệm
30 năm thành lập Cộng hòa Nhân Dân Trung quốc, Tổng
trưởng Quốc Phòng Xu Xiangqian trình bày quan điểm trong
tạp chí “ Quân Đội “ : “ Như chúng ta biết , trong
lịch sử chiến tranh, có nhiều cuộc thất trận không vì
nhân lực yếu hay vỏ khí kém, nhưng bởi tư tưởng quân
sự lạc hậu và chỉ huy sai lầm “ .Một kết luận thực
tế là năm 1979, tại VN, các lảnh tụ Trung Hoa vừa dạy
đối phương và vừa thu thập một bài học hữu ích :
Quân đội Trung Hoa không thể thắng một cuộc chiến tân
tiến trước khi được hiện đại hóa về vỏ khí và
chiến lược.
Đối
với VN, hậu quả của cuộc chiến nặng nề hơn, về
nhiều phương diện :
1
)Trong vòng một năm , 1979- 1980, vì lý do an ninh và củng
vì nhu cầu chiếm đóng Miên và Lào , ngân sách quốc
phòng tăng rất mạnh. Lục quân vượt từ 600.000 bộ binh
lên một triệu, Hải quân từ 3.000 thủy thủ lên 12.000
và Không quân từ 12.000 phi công lên 15.000 . không kể ngân
khoảng khổng lồ để mua vỏ khí, tàu chiến và phi cơ .
2
) Nội bộ Đảng CSVN chia rẽ trầm trọng , các phần tử
thân Bắc Kinh bị khai trừ thẳng tay : Hoàng Văn Hoan, bạn
nối khố của Hồ ; tướng Chu Văn Tấn và Lê Quang Ba ;
Lý Báu, Lê Hiển Mai (trong Ủy ban Trung ương); Trần Đình
Tri, Tổng thơ ký Quốc Hộià.Tổng bí thơ Trường Chinh
bay chức và bị đưa qua giữ ghế Chủ tịch Nước, một
hư vị .
3
)Về kinh tế, hai kế hoạch ngũ niên 1976- 1980 và 1981-
1985 thất bại thê thảm . Đồng bạc phá giá 100%. Giá
sinh hoạt tăng phi mã. Lợi tức đầu người dưới 300 mỹ
kim năm 1984. Ngày 30.4.1984, tại phiên họp ở La mã, Chương
trình Liên Hiệp quốc về Thực phẫm cắt bỏ 5,3 triệu
đô la viện trợ cho VN .
2
- Hậu quả quốc tế .
A
) Thái
độ của Khối Asean:
Từ 1979, chính sách của Asean có tính cách liên tục.
Trong thời gian tháng 2 đến tháng 8, 1979 , phần đông các
nước thành viên âm thầm tán đồng cuộc hành quân của
Bắc Kinh nhưng sau đó kêu gọi chính thức chấm dứt
xung đột .Từ tháng 9 đến tháng 6.1982, Asean khuyến cáo
VN rút quân khỏi Cam bốt để quốc gia này tổ chức
bầu cử tự do. Việc Trung quốc ngưng xô xát với VN
giúp xúc tiến giải pháp. Từ tháng 6.1982 về sau, Asean
vận động thành lập một liên minh chính trị do
Sihanouk lảnh đạo trong khi vẫờn áp lực Hànội . Kết
quả là tháng 7.1982, Hội nghị Ngoại trưởng 3 nước
Đông Dương ra thông cáo đề nghị rút một phần quân
Việt khỏi Cam bốt, lập một hành lang an ninh giữa
Thái và Miên và tổ chức Hội nghị Đông Á.
B
) Các
quốc gia khác trên thế giới
-
Khi chiến tranh Hoa - Việt nổ lớn, Tiệp khắc, Hung Gia
Lợi, Lỗ Ma Ni, Bulgarie, Cuba và Lào chỉ trích mạnh Bắc
kinh. Nhựt và Tây Đức cắt viên trợ vì VN chiếm
Cam bốt. Aãn độ công nhận Chính phủ Heng Samrin để
phản đối Trung quốc . Nam và Bắc Hàn im lặng , giữ thế
trung lập. Mỹ có cảm tình với Đặng Tiẻu Bình vì lo
ngại Liên sô bành trướng , theo dỏi tình hình và
khuyên hai đối phương tự chế.
*
*
*
Ba
yếu tố căn bản đã ảnh hưởng sâu đậm cuôc chiến
1979 : Quyền lợi quốc gia và chiến lược - Ý thức hệ
Cộng sản và Lòng ái quốc . Một số vấn đề đã khích
động nhóm người lảnh đạo có trách vụ quyết định
. Tuy nhiên không một ai nghĩ rằng nước Tàu thực sự bị
đe dọa về mặt an ninh vào thời khoảng đó. Trung quốc
và Việt Nam không đi đến chiến tranh toàn diện vì cả
hai thuộc phe xã hội chủ nghĩa. Tinh thần yêu nước
và “mặc cảm huynh trưởng tự tôn “ thúc đẩy
Bắc kinh đòi hỏi đất đai , với mong ước tái lập ảnh
hưởng củ trong vùng . Tình anh em lâu đời giữa hai quốc
gia láng giềng ngăn họ kéo dài một cuộc chiến đẩm
máu . Bởi thế, sự đọ sức được giữ ở mức trung ,
may thay !
Điểm
khác đáng lưu ý là vai trò của lảnh đạo. Đúng thế,
lảnh đạo đẻ ra chính sách . Và chính sách vẽ đường
cho ngoại giao. Nhân cách Đặng Tiểu Bình chi phối cuộc
khủng hoảng 1979 được mệnh danh “ chiến tranh của
Đặng Tiểu Bình “. Đặng mưu trí , nhẩn nại, liều
lỉnh và thực tiển. Đối diện là Lê Duẫn , không có
kinh nghiệm sâu sắc về nước Tàu vì ở tù ngoài Côn
đảo trong giai đoạn Việt Minh kháng chiến 1940 - 1950 với
sự ủng hộ duy nhất và nhiệt tình của Bắc Kinh . Duẫn
lên nắm quyền sau Trường Chinh giữa thập niên 50 và nhờ
Nga hổ trợ để giữ ghếỳ khi Hồ qua đời năm 1969.
Duẫn không uyển chuyển và kiên gan như Hồ nên lao mình
vào một cuộc chiến mà Hồ có thể tránh khỏi .
Một
bài học quân sự thứ hai ? Tháng 4.1985, Quân đội CSVN
tảo thanh biên giới Thái - Miên , Son Sann hù dọa Hànội
rằng Trung quốc chuẩn bị một bài học khác . Mùa đông
1984- 1985, VN thành công dẹp phiến loạn Miên. Lại
có tin đồn giống như thế. Tại Bắc kinh, Đặng
Tiểu Bình, Lý Chấn Nhiệm và Hoàng Hoa không bỏ hẳn ý
định này. Giới truyền thông Tây phương, chính giới Hoa
kỳ và Nghị sĩ Henry Jackson cũng tiên đoán bi quan .
Ngày
nay, tình hình thế giới có nhiều biến chuyển. Liên Sô
và CS Đông Aạu đã sụp đổ. Trung quốc và VN đang đổi
mới kinh tế để cứu nguy chế độ . Bang giao giữa hai
nước sáng sủa hơn sau ngày Lê Duẫn về chầu Các Mác
vào tháng 7. 1986 và Quân đội Việt bị buộc rời Cam bốt
. Tuy nhiên , hai nước chưa giải quyết được một
số tranh chấp. gay cấn . Vẫn có nguy cơ nổ lớn. Ảnh
hưởng của chính quyền Hànội còn mạnh tại Đông dương
. Cộng sản đã cho định cư 200.000 dân Việt tại
Miên và 100.000 tại Lào .
Trung
Hoa - thành công hay thất bại – mãi mãi sẽ là
mối ám ảnh của nước Việt Nam bé nhỏ . Ngược
lại, Việt Nam luôn luôn là khúc xương khó nuốt của anh
chàng khổng lồ phương Bắc. Đồng sàng nhưng dị mộng.
Buộc phãi sống chung hòa bình.
LÂM
LỄ TRINH
Thủy Hoa Trang,
Huntington Beach, Californie
Thủy Hoa Trang,
Huntington Beach, Californie