Các Tranh chấp ở Biển Đông: Quá khứ, Hiện tại và Tương lai
Phỏng vấn Bill Hayton do Young China Watchers thực hiện
Đỗ Kim Thêm dịch
Bài phỏng vấn này đã được đăng trước đây trên blog cuả Young China Watchers và được phép in lại ở đây. Young China Watchers là một mạng lưới toàn cầu hướng về các chuyên gia trẻ cuả Trung Quốc, có cơ sở tại chín thành phố và tham gia vào các vấn đề bức thiết nhất đang nổi lên tại Trung Quốc hiện nay.
.
***
.
.
Ông bắt đầu viết về Biển Đông: Cuộc đấu tranh giành quyền lực ởchâu Á trong năm 2011. Điều gì đã thôi thúc ông đi sâu vào sự phức tạp của việc tranh chấp tại Biển Đông ?
Tôi đã viết một cuốn sách về Việt Nam và đang tìm một chủ đề khác. Trong năm 2011, Trung Quốc cắt các giây cáp của một số tàu khảo sát địa chấn, và đột nhiên cuộc tranh chấp Biển Đông bắt đầu thành vấn đề thời sự. Tôi nhận ra rằng cần có một cuốn sách để giải thích về các tranh chấp cho độc giả trung bình. Tôi nghĩ rằng nó sẽ không phải quá dài vì đã có nhiều người viết về tranh chấp Biển Đông. Càng đọc các tài liệu hiện có, tôi càng nhận ra rằng không đáng tin cậy. Các tài liệu tham khảo tương tự đã được sử dụng, nhưng chưa ai thực sự kiểm chứng. Thường thì khi ông tìm xem lại các nguyên tác, các tài liệu này bị phân tán; tài liệu chỉ khẳng định hoặc là các bài báo có trích dẫn các nhận định. Vì vậy, phải mất một thời gian khá dài để truy ra các bằng chứng và đúc kết thành sách.
.
.
Cuốn sách của ông kể lại một thời điểm đáng kể về sự hợp tác trong năm 2005 giữa Trung Quốc và Philippines, khi hai đối thủ vê lãnh thổ tham gia vào một Toán Công tác Phối Hợp về Nghiên cứu Địa chấn (Joint Marine Seismic Undertaking, JMSU) nhằm đánh giá về trữlượng dầu để khai thác chung. Có gì sai trái trong vấn đề này? Tại sao Trung Quốc và Philippines - cũng như các nước khác đang có yêu sách - không cùng nhau phát triển về việc đánh cá, khí thiên nhiên và trữ lượng khí đốt tự nhiên cho Biển Đông một cách có ý nghĩa hơn?
JMSU là kết quả của một sự liên kết đặc biệt của các lợi ích trong nước ở Philippines. Cuối cùng, JMSU đã tạo ra tranh cãi trong rộng khắp ở Philippines nên không đạt được vì các thương thảo dị biệt. Có hàng loạt các cáo buộc hối lộ và tham nhũng, và do đó, JMSU đã trở thành một loại thiệt hại liên đới. Thỏa thuận này đã hết hạn và không có ai ở Philippines muốn thúc đẩy để tái tục. Thật là khó có thể làm lại một lần nữa.
Phát triển phối hợp là khả thi nếu ông đồng ý rằng phía đối tác có một yêu sách hợp pháp hoặc có thể có quyền khiếu nại chính đáng. Vấn đề ở Biển Đông là người Trung Quốc chỉ muốn phát triển chung trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia khác. Ví dụ nếu như họ chuẩn bị để nói rằng toàn bộ con đường chín đoạn là một khu vực phát triển chung cho đến bờ biển của Hải Nam, rồi thì Philippines và Việt Nam có thể tham gia. Nhưng khi Trung Quốc đàm phán về việc phát triển chung, họ chỉ đề cập đến các khu vực ngoài khơi bờ biển Việt Nam hoặc Philippines
.
.
Trung Quốc và Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã ký Tuyên bố về Cách Ứng xử ở Biển Đông (DOC) vào năm 2002, nhưngviệc thiết lập một Bộ Quy tắc Ứng xử chính thức có vẻ như còn xa vời hơn bao giờ hết. Những trở ngại lớn nhất để hợp thức hóa một Bộ Quy tắc Ứng xử là gì?
Đàm phán về một Bộ Quy tắc Ứng xử tốt hơn là không đàm phán về vấn đề này, nhưng tôi nghĩ rằng một thỏa thuận như vậy là hoàn toàn đại bại. Vấn đề là một Bộ Quy tắc Ứng xử được giải đoán là kiểm soát hành vi của các quốc gia có yêu sách khác nhau. Nhưng liệu là Trung Quốc sẵn lòng có hành vi thuận theo như thỏa thuận với các quốc gia ASEAN có yêu sách không? Không có gì chắc. Liệu có bất kỳ điểm nào trong các quốc gia ASEAN có yêu sách ký kết mà không kiểm soát hành vi của Trung Quốc? Chuyện không thực.
Tất cả các quốc gia trên Biển Đông đang khiếu nại, ở một mức độ nào đó, xây dựng các hòn đảo nhân tạo hoặc đánh bắt cá ở vùng biển còn tranh chấp. Có rất nhiều các hoạt động này dừng lại trong số các quốc gia ASEAN có yêu sách phù hợp với Bộ Quy tắc Ứng xử (DOC) trong năm 2002. Kể từ đó, trong một vài trường hợp, người Việt đã mở rộng đảo của họ, nhưng họ đã không làm bất cứ điều gì gọi là bi đát như người Trung Quốc. Bộ Quy tắc Ứng xử (DOC) bảo đảm các nuớc thuộc ASEAN có yêu sách tuyên bố rằng họ sẽ không nỗ lực và đánh đuổi nhau ra khỏi các đảo mà họ chiếm đóng. Nếu Trung Quốc tham gia ở điểm này, thì tranh chấp Biển Đông được giải quyết phần nào. Tất nhiên, vấn đề là Trung Quốc nhận ra sự việc với niềm tin rằng họ là chủ sở hữu hợp pháp của tất cả các hòn đảo trên biển và do đó họ sẽ không tham gia ký kết vào một thỏa ước như vậy.
.
.
Manila, Hà Nội, các thủ đô khác trong khu vực và Washington đã phản đối mạnh mẽ về các quy mô và tốc độ cuả việc xây dựng các hòn đảo nhân tạo ở Biển Đông, trong đó bao gồm hơn 1.100 ha đất đang tranh chấp và đường băng có khả năng làm chổ cho các phi cơoanh tạc viễn liên của Trung Quốc. Các hoạt động cải tạo đất của Trung Quốc tác động đến tình hình an ninh khu vực như thế nào, và theo họ thì các mục tiêu chiến lược dài hạn là gì?
Theo quan điểm của Trung Quốc, đây không phải là hành động tấn công. Người Trung Quốc tin rằng họ là chủ sở hữu hợp pháp của tất cả mọi thứ trong đường chín đoạn. Do đó, các hoạt động này được coi là hợp pháp và thực sự về bảo vệ các quyền lợi cuả Trung Quốc. Tranh giành đất đai cuả Trung Quốc được coi là một biện pháp phòng thủ để giữ cho lực lượng hải quân nước ngoài ra xa khỏi bờ biển Trung Quốc. Đó cũng được xem như là một phương tiện phóng chiếu quyền lực xuống tới eo biển Malacca và bảo vệ các tuyến đường thương mại cuả Trung Quốc. Cuối cùng, đó cũng được xem như là một cách để bảo vệ các nguồn tài nguyên dầu và cá cuả Trung Quốc ở Biển Đông.
Theo quan điểm của Malaysia, Philippines và Việt Nam, đây là những động thái tấn công cao độ. Dù vậy, Trung Quốc dường như không có khả năng để thấy quan điểm của các nước khác. Gần đây, có một đoàn đại biểu thuộc một trung tâm nghiên cứu ngoại giao của Đảng Cộng Sản, đó là Trung tâm Nghiên cứu các Vấn đề Đương đại của Thế giới cuả Trung Quốc ở Luân Đôn. Khi tôi gợi ý cho họ rằng có người khác có thể có một quan điểm khác về vùng Biển Đông, họ đã không quan tâm. Quan điểm cuả họ là: "Đây là vị thế của chúng tôi. Quan điểm cuả chúng tôi là đúng, và cuả tất cả mọi người khác là sai." Một thái độ như vậy rõ ràng là sẽ gây ra nhiều vấn đề.
.
.
Gần đây, Hoa Kỳ và Úc biểu hiện quyền tự do trong không gian và trên biển thuộc các hoạt động hàng hải (FONOPs) gần các vùng do Trung Quốc kiểm soát ở Biển Đông, trong khi Nhật Bản đã nêu lên sự tham gia cuả mình. Với những hoạt động hàng hải thuộc FONOPs làm chậm lại hoặc sẽ ngừng việc mở rộng các gia tăng kiểm soát của Trung Quốc trên vùng biển tranh chấp ?
Điều quan trọng cần lưu ý rằng Trung Quốc đã không chiếm đóng lãnh thổ mới với việc cải tạo đất. Trung Quốc đang xây dựng trên các rạn san hô mà họ chiếm từ năm 1994. Chúng ta đã nhìn thấy sự kết thúc cuả giai đoạn xây dựng đảo - bây giờ họ đang hoàn thành đường băng, bến cảng, và các cơ sở khác. Thực ra, không có gì khác mà họ có thể xây dựng, ngoài một số khu vực trống và nhỏ gần nơi mà họ đang xây dựng. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn có một đạo luật quốc nội, mà hầu hết các lời giải thích đều cho rằng luật này không phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), vì luật này nói rằng các tàu chiến nước ngoài phải xin phép trước khi đi vào vùng lãnh hải của Trung Quốc. Hoa Kỳ bác bỏ quan điểm này cuả Trung Quốc và sẽ tiếp tục tiến hành theo cách cuả FONOPs nhằm thách thức Trung Quốc .
Tuy nhiên, những nỗ lực của Hoa Kỳ để thách thức các yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông dường như làm cho âu lo nhiều hơn. Xung quanh quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc đã tuyên bố những gì được gọi là đường cơ sở - về cơ bản nó đã được vẽ một đường xung quanh quần đảo này và tuyên bố tất cả mọi thứ bên trong đường này là thuộc về lãnh hải của Trung Quốc. Đó là hoàn toàn đi ngược lại UNCLOS. Cách duy nhất Hoa Kỳ có thể thách thức yêu sách này là cho tàu bè đi vào vào ngay giữa khu vực này và thực hiện các hoạt động chống lại với việc quá cảnh vô tội trong vùng lãnh hải của một quốc gia khác. Ví dụ như tàu chiến của Hoa Kỳ phải mờ cho hệ thống vũ khí của họ hoạt động hoặc cho khởi động các máy bay trực thăng. Điều này làm tăng các thủ đoạn nguy hiểm đáng kể, đặt ra một nguy cơ thực sự vì cảm nhận là đang bị đe dọa. Trên thực tế, Hoa Kỳ chỉ đơn giản thử nói là: "Đây là những gì Luật Biển quy định rằng chúng tôi có thể làm, và chúng tôi sẽ dựa vào luật pháp." Nhưng Bắc Kinh chỉ có thể thấy mối đe dọa biểu kiến của một tàu chiến Hoa Kỳ khi mở ra các hệ thống vũ khí để ứng chi ến trong vùng lân cận của một căn cứ quân sự Trung Quốc.
.
.
Ông tiên đoán gì về việc mở rộng các tranh chấp Biển Đông trong năm 2016? Liệu Trung Quốc có khả năng thay đổi chính sách cuả họvề Biển Đông không?
Chính phủ Trung Quốc không muốn trở thành một chủ đề chính của cuộc tranh luận trong chiến dịch tranh cử tổng thống Hoa Kỳ, vì vậy có lợi thế là Bắc Kinh sẽ cố gắng và giữ cho mọi thứ yên tĩnh ở vùng biển Đông trong năm 2016. Tuy nhiên, tình hình có thể nóng lên từ tháng Sáu, với kết quả dự kiến của vụ án tại Tòa án Trọng tài Thường trực giữa Philippines và Trung Quốc. Cơ hội tiếp theo cho sự leo thang có thể là ngay sau khi một vài tuần sau khi Tổng thống Hoa Kỳ mới nhậm chức. Đầu năm 2001, ngay sau khi George W. Bush nhậm chức, đã có sự cố EP-3 ngoài khơi đảo Hải Nam nơi máy bay Trung Quốc cố tình thách thức một máy bay do thám của Hoa Kỳ. Vào tháng 3 năm 2009, khá lâu sau khi Tổng thống Obama đã nhậm chức, đã có sự cố khác - lại là một thách thức cố ý đến các hoạt động của Hoa Kỳ trong vùng biển Đông. Vì vậy, có thể có một kịch bản xảy ra trong tháng Giêng năm 2017, sau khi vị tổng thống kế nhiệm nhậm chức. Trung Quốc có thể dàn dựng một sự cố khác ở Biển Đông với một con tàu hoặc máy bay của Hoa Kỳ.
***
Nguyên tác: The South China Sea Disputes: Past, Present, and Future - An interview with Bill Hayton, author of The South China Sea: The Struggle for Power in Asia. http://thediplomat.com/2016/04/the-south-china-sea-disputes-past-present-and-future/
Nguon: VietBao Online