Lâm Lễ Trinh
LTS :
Dưới
đây là phần trích lại bài nóí chuyện có ghi âm của
Luật sư Lâm Lễ Trinh, Chủ nhiệm/Chủ bút tạp chí Anh-
Pháp Human Rights / Droits de l’Homme, diễn giả danh dự tại
Đại hội Truyền Thông Việt Nam Hảøi ngoại, Vietnamese
Overseas Media Conference (VOMC), nhóm lần đầu tiên tại
Little Saigon,Hội trường Regent West, 4717 W. First street,
Santa Ana, Californie, Hoa kỳ.
Đại
hội Truyền thông Việt Nam Hải ngọai, được tổ chức
lần đầu tiên tại Thủ đô người Việt tị nạn, mang
một ý nghĩa đặc biệt. Đúng vậy, Đại hội tạo một
môi trường quý báu cho giới truyền thông Việt ở nước
ngoài trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp và dự thảo kế
hoạïch công tác tương lai.
Tại
Việt Nam và Irak, chiến tranh cân não đóng một vai tròø
quyết định. Trước đây, báo giới phản chiến Hoa kỳ,
được CS Bắc Việt tiếp hơi, đã gây hậu quả tác hại
hơn cả những đụng độ trên chiến trường. Trong kế
họach tấn công quân sự Irak kỳ này, Toà Bạch Ốc và
Ngũ Giác Đài đưa tâm lý chiến và họat vụ tình báo
lên hàng đầu
Ngày
nay, danh từ truyền thông bao gồm nhiều lãnh vực :
chẳng những báo chí, truyền thanh và truyền hình mà luôn
cả văn hoá, nghệ thuật, điện ảnh và giáo dục. Trong
thế kỷ hiện đại, truyền thông là một vũ khí đa
dạng, đa năng và đa hiệu. Từ khi internet được Bộ
Quốc phòng Hoa kỳ đồng ý cho thương mại hoá giữa
thập niên 90, nền tin học phát triển với đôi hia ngàn
dậm. Cuộc cách mạng này hệ trọng hơn sự xuất hiện
của máy radio trong thập niên 20 và máy truyền hình vào
những năm 60. Ba phát minh vừa kể (internet, ra-dô và
tivi) canh tân toàn diện kỹ thuật truyền thông sau khi máy
in được sáng chế tại Trung hoa đời nhà Tống và tại
Âu châu bởi Johannes Gutenberg vào thế kỷ 15. Hoa kỳ mỗi
năm đưa ra trên thị truờng nhiều máy siêu vi tính hiện
đại, loại desktop, laptop, notebook, handheld, palmtop, wearable
PC....Kỹ thuật làm báo biến đổi phi mã. Lần hồi các
công nhân truyền thông, media
workers,
thay thế ký giả chính hiệu. Một hình thức báo chí tân
thời xuất hiện dưới tên « online
journalism, báo trên mạng lưới »,
đẩy lui nghề báo cổ điển. Một câu hỏi được đặt
ra : Phải chăng internet sẽ giết chết báo chí ?
Một
ngành khoa học mới mang tên médiologie
chuyên nghiên cứu về những mối liên hệ giữa giới
truyền thông và các chức năng xã hội ưu việt như tôn
giáo, ý thức hệ, chính trị, nghệ thuật....vv...
Trong
thế giới văn minh, truyền thông tiến lên vị thế của
một « Đệ
tứ Quyền »,
sau ba quyền được công nhận là Lập pháp, Hành pháp và
Tư pháp. Tuy nhiên, tại một số quốc gia chậm tiến,
trong đó có Việt Nam cộng sản, quyền tự do ngôn luận
vẫn bị vi phạm bỉ ổi.
A
- Những biến chứng của một chính sách bưng bít thông
tin tại Việt Nam
Cộng
sản Việt Nam đã áp dụng phần thâm hiểm và kém văn
minh nhất trong những phương pháp áp đảo truyền thông
mà họ học hỏi từ hai đàn anh Nga- Hoa. Hồ Chí Minh đã
tuyên bố khi phát động kháng chiến chống Pháp :
« Tôi
không có quân đội. Tôi không có tiền, tôi
không
có chính sách giáo dục. Tôi
chỉ có lòng câm hận của tôi »
(đọc « Fire
in the lake »
của Frances Fitzgerald. trang 169, nxb Atlantic Press Book, 1972).
Đầu tháng 9.1918, chính Lê nin đã ra lệnh: “Cần
khẩn trương tạo ra tình trạng kinh hoàng một cách bí
mật.”
Bằng hận thù và sợ hải, CSVN đã đẩy dân tộc chống
ngoại xâm và tiêu diệt giai cấp phú hào, trí thức, nhà
văn và nhà báo.
Sau
1975, chính sách bịt mồm báo giới vẫn tiếp tục. Ngày
16.4.1997, Chính phủ ban hành sắc luật cho phép Công an
quản chế hai năm các thành phần tình nghi đối lập,
khỏi đưa ra tòa án, chiếu theo lệnh của Ủy ban Nhân
dân thành phố và tỉnh, bất chấp Bộ luậït Hình sự.
Đây là hình thức cải tạo tại chổ.
Hiện
nay, biện pháp kiểm soát truyền thông gia tăng hơn trước.
Nhà nước CS buộc các ký giả phải đi học tập để
thông suốt đường lối của Đảng và tránh nạn chệch
hướng. Trong xứ, hầu hết các báo đều thuộc chính
quyền, trừ vài tờ nội san của tôn giáo. Tổng biên tập
viên của mổi tờ báo phải là một đảng viên trung
kiên, có lập trường vô sản vững chắc. Trước khi in
và phát hành, sách vở và ấn phẩm phải qua nhiều cấp
kiểm duyệt: biên tập viên, tổng biên tập và giám đốc
của một nhà xuất bản thuộc Nhà nước. Giai đọan
chót là thủ tục trình lên Cục xuất bản, Bộ Văn hóa
Thông tin Hànội để xin duyệt y chung thẩm và nhận giấy
phép.
Trong
quyển hồi ký “Viết
cho Mẹ và Quốc hội”,
trang 186, Nguyễõn Văn Trấn có đăng bức thơ ngày
20.2.1989 của Nguyễn Hộ gởi cho Bộ trưởng Thông tin
Trần Hoàng phản đối việc cấm xuất bản tập san
“Truyền
thống Kháng chiến”.
Hộ và Trấn tố cáo điều 69 của Hiến Pháp bị vi phạm
và than phiền luật lệ CS cay nghiệt hơn thời thực dân
Pháp.
Ngày
22.12.1996 và cuối tháng 2.1997, nhà văn Hoàng Tiến gởi
thơ cho Bộ trưởng Văn hoá Nguyễn Khoa Điềm và Chủ
tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh để đặt vấn đề liên
hệ giữa Tự do báo chí và Dân chủ, Nhân Quyền. Mặt
khác, Tiêu Dao Bảo Cự cũng có phổ biến ở hải ngoại
bài “Tiếng
vọng lẻõ loi và Tựï
do
Báo chí”
để phân tích tình trạng nghẹt thở của tự do ngôân
luận trong nước.
Từ
hiện trạng này đã phát sinh ra một số biến chứng: vô
số báo chui, báo lưới và báo nói xuất hiện, làm điên
đầu nhà chức trách cộng sản.
-
Báo chui.
Sau
chủ trương Đổi
Mới
năm 1986, CS đã đóng cửa nhiều tờ báo như Đối
Thoại, Tuổi trẻ Cửu
Long,
Công an Cửu long, Truyền thống Kháng chiến, Sông Hương,
Langbian..vv..
và “xử lý” vì kỷ luật các ký giả đảng viên Tô
Hoà (báo Saigon Giải phóng), Kim Hạnh (báo Tuổi trẻ), Thế
Sang (báo Phụ Nữ Thành phố HCM), Cường Giang (báo Giáo
dục và Thời Đại).
Đàn
áp càng mạnh, báo lậu xuất bản càng hăng và được
quần chúng lén lút tìm đọc. Tờ Người
Sàigon
phổ biến rộng trong và ngoài nước vì báo tố mạnh
những bê bối của cán bộ CS và nổi thống khổ của
dân. Được trớn, tờ Người
Hànội
và Người
Cầnthơ
nối gót ra mắt đọc giả. Để bớt chi phí, một số
báo lậu được dân photocopy và chuyền tay ở nông thôn.
Công an Thành ủy Sàigòn tố cáo “các
tổ
chức
phản động lưu vong nước ngoài phổ biến tài liệu phá
hoại vào thành phố qua các đường du lịch, bưu điện
và máy fax của đơn vị và cá nhân.”
Báo cáo còn cho biết: “một
số phần tử bất mãn trong nước tiếp tục viết bài
gây chia rẽ nội bộ in trên báo Người Sàigòn để tán
phát trong xứ
và
đưa
ra
nước ngoàiø ”
Theo
Tiêu Dao Bảo Cự, “hiện
nay, nhiều cơ quan, hội đoàn
do
đảng lãnh đạo có quyền ra báo lại giao cho tư nhân
làm, tức là bán giấy phép để kiếm lời.”
Tại nhiều địa phương, có người dùng một giấy phép
để ra hai tờ báo. Việc Bộ Thông tin Hànội giao trước
đây cho đại lý Vũ Đức Vượng, cựu giám đốc Searac ở
San Francisco phát hành tại Hoa kỳ báo CS đã thất bại
thê thảm.
-
Báo lưới.
Sự
tấn công tới tấp của kỹ thuật truyền thông gây bối
rối cho CS. Ngày 18.4,2002, Bộ Chính trị ra chỉ thị cho
các cấp hành chính kiểm soát chặt chẻ hơn việc cung
cấp dịch vụ và xử dụng internet. Theo AFP, VN hiện chỉ
có 5 mạng internet nhỏ cho phép gởi điện thư và tham
khảo vài cơ sở trử liệu nội địa. Công an Sàigòn mở
chiến dịch bố ráp thẳng tay các quán “cà phê vi tính”
và cửa tiệm kinh doanh thư điện tử, cho thuê fax, in
laser và lập biên bản tịch thu máy móc. Nhà nước nơm
nớp lo sợ các “biệt kích cầm bút” dùng internet như
tại Miến Điện, Tây Tạng, Đài loan. để trao đổi tin
tức và liên kết hầu khuynh loát chế độ.
-
Báo nói.
Hànội
dùng báo Quân
Đội Nhân Dân
và Thanh
niên
để thường xuyên sỉ vả Đài Á châu Tự Do, Radio Free
Asia (RFA), đài Tiếng Nói Tự do, Radio Democracy Freedom (RFD)
và đài Tiếng nói Hoa kỳ, Voice of America (VOA). CS thất
bại phá các làn sóng phát âm. Vài đài nóí trên đã
phỏng vấn trực tiếp một số nhân vật đối kháng
trong nước như Hoàng Minh Chính, Hoàng Tiến, Tiêu Dao Bảo
Cự, Trần Độ, Nguyễn Hộ, Nguyễn Đan Quế..vv..và được
quần chúng theo dõi thích thú. Phỏng vấn bằng điện
thọai viễn liên không còn dễ như trước. CS kiểm soát
rất kỷ, cắt đường giây và cảnh cáo người được
phỏng vấn. Tuy nhiên sự liên lạc với bên trong không bế
tắc nhờ việc dùng điện thoại di động.
Lợi
dụng quốc tế điên đầu về nạn khủng bố Al Qaeda và
chiến tranh Irak, CSVN gia tăng đàn áp vô tội vạ. Luật
sư Lê Chí Quang lãnh án 4 năm tù chỉ vì phổ biến bằng
email các bài đả kích nhà cầm quyền nhượng đất cho
Trung quốc. Bs Nguyễn Đan Quế cũng bị bắt giam vì cho
phổ biến ngày 13 tháng 3 vừa qua bản thông cáo đòi
quyền tự do thông tin. Ngày 19.3.2003, Hội Ân xá Quốc tế
lên tiếng phản đối chính quyền CS đàn áp quyền tự
do phát biểu của dân chúng.
B
– Sự góp phần của giới truyền thông người Việt hải
ngoại vào công cuộc tranh thủ cho Tự do và Dân chủ.
Thân
phận của báo giới VN gắn liền với sinh mệnh của dân
tộc. Nền báo VN chỉ thật sự khai sinh sau khi đất nước
chúng ta bị Pháp đô hộ và chữ Quốc ngữ dùng mẫu tự
Latin ra đời. Đến nay, lịch sử báo chí đã trải qua
bốn giai đọan: 1) Giai đọan thời thuộc Pháp (1861- 1945)
với báo tiếng Việt và báo tiếng Pháp, 2) Giai đọan
kháng chiến chống thực dân cho đến Hiệp định Genève
(1945-1954) với báo Việt Minh và báo quốc gia, 3) Giai đọan
đất nước chia đôi (1954-1975) và 4) Giai đọan từ
30.4.1975 cho đến nay, với báo trong và ngoài xứ.
Bị
thực dân, cộng sản, quân phiệt và độc tài kềm kẹp
trong suốt thời gian kể trên, báo chí VN phát triển chậm
chạp. chưa để lộ bản sắc đặc biệt và không kỹ
nghệ hoá đúng mức. Sau ngày đất nước thống nhất
bằng võ lực, làng báo Việt tan hàng rã ngũ. Các cán bộ
truyền thông CS nằm vùng và ký giả “đón gió trở cờ”
lộ diện như Phạm Ngọc Ẩn, Lý Chánh Trung, Kiều Mộng
Thu, Lý Quí Chung... Một số đông nhà báo, nhà văn bị
gởi đi học tập mút mùa. Nhiều “biệt kích cầm bút”
đã bỏ xác trong các trại tẩy não. Đối với CS, “viết
báo” là một trọng tội, tội phản quốc, tội “làm
gián điệp.” Phần còn lại di tản ra nước ngoài thành
nhiều đợt, với hai bàn tay trắng. Nới đây, họ cố
gắng xây dựng lại nghề làm báo trong cảnh hoang tàn của
trí tuệ, bỡ ngỡ giữa một xã hội khác tiếng nói và
lạ nếp sống. Bị bất ngờ bứng khỏi một môi trường
thiếu tự do, họ choáng váng khi du nhập một xứ siêu
đẳng về kỹ nghệ truyền thông và đề cao quyền ăn
nói. Phương tiện săn tin, nghiên cứu, viết lách và ấn
loát thừa thải. Tuy nhiên, việc áp dụng bừa bãi quyền
tự do thông tin gây ra hai hiện tượng đáng tiếc: sự
lạm
phát
ký
giả
và ngành báo
chợ phát
không. Việc gia nhập hỗn loạn và tùy hứng của những
người đội lốt ký giả, thiếu đạo đức và kém khã
năng biến báo giới thành một diễn đàn “gió tanh mưa
máu” để “ân oán giang hồ.” Báo chợ làm sa đọa
nghề làm báo vì chuyên sống về quảng cáo, bất cần
văn hoá. Các ký giả “tài
tử
“ vi phạm vô tội vạ luật lệ báo chí, xem thường
quyền trước tác (copyright) và thưòng dùng báo để phỉ
báng cá nhân hay vào những mục tiêu bất chính.
Để
bù lại hai hiện tượng tiêu cực nêu trên, có những dấu
hiệu tích cực,
khích lệ chúng ta vững tin nơi tương lai của báo giới
Việt nước ngoài. Với điều kiện, tất nhiên, các đại
diện truyền thông chiụ ngồi lại với nhau nhận định
xác thựùc hiện trạng ở trong và ngoài Việt Nam, kiểm
điểm ưu và khuyết điểm, đồng thời thẩm lượng
những phương tiện nhân lực và tài chính, để thảo ra
những đề án ưu tiên. Hôm nay, không có đủ thời giờ
đi vào chi tiết. Một số đề tài quan trọng sẽ được
mổ xẽ và đúc kết trong các hội thảo tiếp theo buổi
nói chuyện này.
Thành
quả của Đại hội Truyền thông VN Hải ngoại tùy thuộc
tinh thần kết hợp của chúng ta. Đoàn kết, từ lâu, là
vấn đề phức tạp nhưng không phải là một bài toán
nan giải nếu tất cả ý thức được trách nhiệm để
sớm đưa đất nước ra khỏi cái nhục chậm tiến; nếu
mọi người không tranh dành làm cái đầu và hy sinh chiụ
làm cái đuôi, tích cực hành động hơn là tuyên bố
suông và dẹp bỏ tị hiềm cá nhân.
Đoàn
kết thật sự sẽ xoá bỏ “hội
chứng chờ đợi”:
già đợi trẻ, trẻ đợi già, tiền tuyến phó thác cho
hậu phương, hậu phương mong nơi tiền tuyến. Đợi mỏi
mòn không xong thì xoay qua kỳ vọng đồng minh đế quốc
bực đèn xanh. Từ vọng
ngoại
đi đến vong
bản
chỉ có một bước.
Đoàn
kết cũng sẽ hủy diệt dị
ứng tổ chức một đoàn thể mạnh
có lập trường, lãnh đạo, cán bộ và kỷ luật để
tranh thủ tự do và dân chủ. Khởi đầu cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh và đồng chí chỉ là một
thiểu số . Nhờ có chiến lược và quyết tâm, chúng đã
thắng khối quốc gia, đa số nhưng chia rẽ.
Trong
một buổi nói chuyện tháng 11.1994 tại Paris, nhà văn
Dương Thu Hương nhận định: “Dân
tộc
VN có truyền thống chống ngoại xâm nhưng chưa bao giờ
có truyền thống chống nội xâm.”
Chế độ nội xâm CSVN độc hại hơn chế độ ngoại
xâm thập phần vì nô lệ hoá tâm thức của người dân
Việt bằng tà thuyết Mác Lê và tệ đoan xã hội. Truyền
thông đóng vai trò tiền phong trong công cuộc giải trừ
quốc nạn đó. CSVN ngày nay là một loại ốc mượn hồn.
Võ ngoài mang nhãn hiệu xã hội chủ nghĩa. Trong ruột,
thực dân gian ác, học đòi tư bản.
CS
rêu rao Chính phủ của chúng là một “nhà
nước pháp quyền.”
Đảng tạo ra ngôn ngữ bịp bợm riêng vì không thể đồng
nghiã “pháp
quyền”
với “pháp
trị” (còn
được gọi État de droit hay Rule of law). Luật pháp Việt
Cộng bắt nguồn từ điều 4 của Hiến pháp xác nhận
chủ nghĩa Mác Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh là “lực
lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.”
Hiển nhiên luật pháp ấy thể hiện đảng
trị
chớ không phải pháp
trị.
Hiến pháp 1992 của CS là một shopping
list, là
một mảnh giấy rao hàng, kê đủ thứ trò tự do nhưng
lại không thi hành hoặc dùng luật và nghị định để
vô hiệu hoá. Hành động ngang nhiên vi hiến này, lấy
Phép Nước để lấn át Quyền Dân, chỉ thấy tại
Việt Nam!
Hoa
kỳ, đất tạm dung của chúng ta, là một nước pháp trị.
Các tự do căn bản được bảo đảm bởi mười tu
chính án đầu ghi trong Hiến pháp. Khối báo chí VN hải
ngoại cần có tư
cách pháp
nhân
để
lobby chính quyền và hoạt động hợp pháp. Tôi mong rằng
các luật gia VN sẽ giúp hợp thức hoá tình trạng dưới
danh xưng thích hợp. Khối sẽ có nhiều phương tiện đấu
tranh hơn nếu mở rộng cửa tiếp nhận các ngành liên hệ
như phát thanh, truyền hình, điện ảnh, ấn loát, văn
hoá..vv..Đây cũng là dịp nghĩ đến việc chuẩn bị
viết một “Báo
chí sử VN”
nghiêm chỉnh.
Một
nhu cầu khác trong kỳ Đại hội này là vấn đề dự
thảo trên tinh thần tự nguyện - nếu không dược một
Quy
chế
Danh
dự,
Code
of Honour hay Code de Déontologie – thì
it nữa cũng một
Tuyên cáo về Đạo đức Nghề nghiệp
ấn định một cách rộng rải những quy tắc hành nghề
giữa ký giả với nhau và mặt khác, mối giao hão
truyền thông- quần chúng - khách hàng. Văn kiện này phải
vừøa thích hợp với nguyên tắc quốc tế, vừa có tính
cách khuyến dụ và xây dựng hơn là cưởng chế. Không
nên kỳ vọng quá cao. Cần xử dụng thực tế lý trí
thông thường, common
sense
để dung hoà tương kính những bất đồng không thiếu.
Sự
thượng tôn luật pháp rất hệ trọng. Là chứng
nhân thời cuộc,
người ký giả phải trung thực, độc lập và vô tư.
Được tổ chức qui củ, giới truyền thông Việt sẽ
đấu tranh hữu hiệu hơn như vận động Quốc hội Hoa
kỳ thông qua đạo luật Nhân quyền và Dân chủ cho Việt
Nam, đòi hỏi Chính phủ Hànội không được ngăn cản ấn
phẩm và báo chí hải ngoại phổ biến trong xứ, đưa
Việt ngữ vào chương trình giãng dạy song ngữ ở các
trường.. ..vv..
Tiếng
súng đã chấm dứt tại Việt Nam. Một cuộc chiến khác
- gay go không kém - là cuộc chiến tâm lý để vãn hồi
Tự do và Dân chủ trong Hoà bình. Đến nay, có nhiều cơ
hội bị bỏ lỡ và nhiều phí phạm về nhân lực và
phương tiện vì giới truyền thông hải ngoại chưa thống
nhất ý chí và sách lược. Truyền thông Việt hải ngoại
cần dứt khoát tư tưởng, không thể trung lập hay trung
dung giữa Dân chủ và Độc tài, Sự thực và Gian trá,
Ánh Sáng và Đêm tối. Không có ý kiến cũng là ý kiến.
Ý kiến của người trốn trách nhiệm.
Két
luận
Truyền
thông là tấm gương phản chiếu những hình thái đa dạng
- hỉ, nộ, ái, ố - của cuộc đời; là trung gian giữa
đaị chúng và chính quyền; là nhịp cầu lịch sử và
một hàn thử biểu dân tộc. Bởi thế, giới truyền
thông phải được tự do săn tin và tự do truyền đạt.
Tổng thống Abraham Lincoln đã mạnh mẻ khuyến dụ: “Hảy
để dân biết sự thật, đất nước mới an bình.”
Quốc
tế dựa vào phẩm chất truyềân thông đề đánh giá
một cộng đồng hay quốc gia. Truyền thông không “lãnh
đạo dư luận”.
Nên tránh ngôn từ dao to búa lớn này. Truyền thông vinh
hạnh đóng vai trò của “kẻ
dẫn đường lễ
độ”
và không thể phục vụ hữu hiệu nếu không đào tạo
được những ký giả có khã năng, đạo đức và lương
tâm nghề nghiệp. Sức mạnh của truyền thông bắt nguồn
từ việc phát huy Sự Thực. Quyền lực này cần đi đôi
với Trách nhiệm.
Trong
quá khứ, các phong trào đấu tranh quốc gia đã xử dụng
báo chí như một vũ khí sắc bén. Cộïng sản đang khai
thác thâm độc truyền thông để áp đảo, phá hoại. xâm
nhập, mua chuộc và chia rẽ chúng ta. Để đối phó, chỉ
có một biện pháp: Cảnh tỉnh siết chặc hàng ngũ.
Làm
báo là một đam mê, không thể cấm mà cũng không thể
ép, một “cái
Đạo”
(để dùng chữ của Trấn Tấn Quốc), một “Nghề
khoe dốt”
(theo danh từ của Uyên Thao), hay còn nửa, một “cái
nghiệp”
- nghiệp chướng và dĩ nghiệp -, một vinh dự bạc bẽo,
đầøy gian truân nhưng cũng đem lại những giây phút siêu
thoát, sản khoái nhất của tinh thần, trí tuệ. Nghề
viết báo làm giàu tiếng Việt nhưng không đủ nuôi sống
giới thông tin. Người ký giả yêu nghề, lỡ mang trong
mình “giòng
máu báo đời”,
chấp nhận thân phận của con tầm, cây nến, theo hai câu
thơ Đường của thi sĩ Lý Thương Ẩn (813-858):
“Xuân
tàm đáo tử, ti phương tận
Lạp
chúc thành hôi, lệ thủy can”
(bài
thơ Vô Đề)
“Thác
rồi, tầm mới dứt tơ,
Tàn
rồi, ngọn nến mới khô lệ rầu.”
(Trần
Trọng San dịch)
Trong
thế giới văn minh, bởi thế, người ký giả chính danh
được tán thưởng ngang hàng với người lính trên chiến
trường. Thomas Jefferson đã không e ngại khẳng định;
“Nếu
cuối cùng tôi phải quyết định giữa một chính phủ
không có báo chí và báo chí không có chính phủ, tôi sẽ
không do dự chọn tình trạng thứ hai.”
Chỉ
có Tự do Ngôn luận mới đem lại Dân chủ thật sự.
Thật vậy, Ngôn ngữ là cốt lõi của Văn Minh . Ngôn ngữ
bảo vệ sự tiếp giao trong xã hội. Chính sự nín lặng
mới cô lập con người. Với tâm niệm mãnh liệt ấy,
tôi xin chúc cho Đại hội truyền thông hải ngoại gặt
hái nhiều kết quả để đáp lại lòng tin và sự hãnh
diện của cộng đồng.
Những
bài viết khác của tác giả liên hệ đến vấn đề
truyền thông:
-
“Internet sẽ giết chết báo chí ? Internet đe dọa các tự do căn bản ?” (Thời Luận, Los Angeles, Californie, ngày 9.3. 2000)
-
“The false promises of the Internet Culture” (tạp chí Human Rights, June 1999)
-
“Biến chứng của môt chính sách bưng bít thông tin tại Việt Nam” (tạp chí Dân chủ & Phát triển, Đức quốc, ngày 9.9.2002)
-
“Trận chiến pháp lý về Internet tại Hoa kỳ” (báo Việt Luận, Úc Đại Lợi, ngày 18.9.2000)
-
« Hanoi aux prises avec l’Internet » (tạp chí Việt-Pháp Vietnam-France Culture, Paris, 26.10. 2002)
-
« L’Internet devant la Cour Suprême des États Unis » (Revue Nhân Quyền, Paris, 27.12.2000)
-
« The Internet on trial » (Người Việt, english section, Californie, 23.11.2002)
-
“L’information clandestine au Viet Nam” (Revue Người Việt Quốc gia, Montreal, Canada, ngày 27.8.2002)
-
« Truyền thông Mỹ vẫn bóp méo chiến tranh Việt » (tạp chí Tia Sáng, Cánh Én, Đức quốc, 18.4.2003)
-
« Chính trường Mỹ, Lobby Việt » (báo Saigon-Canada, Toronto, 18.12.2002)
-
“The bridge between the Past and the Future. What to expect from the Vietnamese Youth? ” (Bulletin de la Francophonie francaise, Paris, Septembre 2001)
-
“ Cộng đồng Việt Nam trước khúc quanh đấu tranh mới” (Bài nóí chuyện tại Washington DC nhân Ngày Lễ Nhân quyền Quốc tế, 9.5.2002)
-
« Tù Văn hoá lưu vong đến Giao lưu văn hoá » (bài nóí chuyện tại Cộng đồng Oklahoma nhân Ngày Quốc khánh 2001)